Nếu bạn bắt buộc phải chỉ trích, thì xin
bạn bắt đầu như sau này
Hồi Calvin Coolidge còn làm Tổng thống Huê Kỳ,
một người bạn tôi được mời lại Bạch cung, vô phòng ông vừa đúng lúc ông nói với
cô thư ký của ông rằng: "Chiếc áo cô bận hôm nay thiệt đẹp... Cô có duyên
lắm...".
Ông vốn ít nói. Chưa bao giờ người ta nghe ông
khen những người giúp việc ông như vậy. Thiệt lạ lùng, thiệt bất ngờ, tới nỗi
cô thư ký thẹn thùng đỏ mặt lên.
Ông Coolidge nói tiếp: "Lời tôi khen đó, cô
đừng lấy làm tự phụ lắm; tôi chỉ muốn làm vui lòng cô thôi... Từ nay tôi muốn
khi đánh máy, cô để ý tới những dấu chấm câu hơn chút nữa".
Phương pháp đó tuy kém kín đáo, nhưng tâm lý
thật sâu sắc. Sau khi được nghe lời khen rồi, ta thấy những lời trách không khó
chịu lắm.
Người thợ hớt tóc, thoa xà bông thiệt kỹ rồi mới
cạo râu.
Phương pháp đó, ông Mc. Kinley dùng năm 1896;
khi ông dự bị cuộc vận động tuyển cử của ông để làm Tổng thống. Một trong những
người cộng tác với ông, viết một bài diễn văn mà người ấy tự cho rằng hùng hồn
bằng tất cả những bài của Cicéron, Démosthène và Daniel Webster hợp lại.
Vẻ tự đắc hiện trên mặt, người đó đọc cho ông
Mc. Kinley nghe tác phẩm bất hủ của mình. Thiệt ra bài đó có giá trị, nhưng
dùng không đúng trường hợp, sẽ làm cho người ta la ó, phản đối, chế giễu, nhưng
ông Mc. Kinley không muốn phạm lòng tự ái, cũng không muốn làm cụt hứng người
đó. Nhưng dù sao cũng phải chê. Ông xử trí khéo léo như vầy; ông khen lớn:
"Bài diễn văn của anh thiệt hay; đáng khen
lắm; không ai làm hơn được. Trong nhiều trường hợp, một bài như vậy cần lắm.
Nhưng trong trường hợp này, nó có thiệt là thích hợp không? Mặc dầu lời lẽ hữu
lý và ôn tồn, ta cũng nên đoán trước nó sẽ có tiếng vang gì trong đảng chúng
ta. Anh về nhà đi, viết cho tôi bài khác phỏng theo những ý kiến đây này, rồi
anh gởi cho tôi một bản nhé".
Người kia vâng lời, theo ý ông và có công giúp
ông nhiều nhất trong cuộc vận động bầu cử đó.
Dưới đây là một bức thư mà Tổng thống Lincoln
viết ngày 26-4-1863, trong giờ đen tối nhất của cuộc Nam Bắc chiến tranh. Đã 18
tháng rồi, những đại tướng của Ngài cầm đầu quân đội miền Bắc thua hết trận này
tới trận khác. Thiệt là một cuộc đâm chém vô lý và vô ích. Cả ngàn lính đào
ngũ. Dân tình hoảng sợ. Chính đảng Cộng hòa cũng phản kháng, đòi Ngài từ chức.
Ngài nói: "Chúng ta ở ngay bờ một vực thẳm. Thượng đế hình như cũng ghét
bỏ chúng ta và tôi không còn một mầm hy vọng nào hết!".
Đại tướng Hooker đã có những lầm lỗi nặng và
Tổng thống muốn sửa trị người hữu dõng vô mưu cầm vận mạng của cả một dân tộc
đó. Vậy mà trước khi chỉ trích, Ngài khen Hooker ra sao? Lầm lỗi của Đại tướng
rất nặng mà Ngài không nói tới ngay bằng một cách tàn nhẫn. Ngài chỉ rất ôn tồn
nói: "Ông đã làm vài việc mà tôi không được hoàn toàn vừa ý...".
Thiệt là nhã nhặn và lịch thiệp!
Đây, bức thư đó đây:
"Tôi đã để ông cầm đầu đạo binh Potomac.
Khi quyết định như vậy, tất nhiên tôi đã căn cứ vào những lý lẽ vững vàng.
Nhưng tôi không phải cho ông hay rằng ông đã làm vài điều mà tôi không được
hoàn toàn vừa ý.
Tôi tin rằng ông là một quân nhân can đảm và có
tài dụng binh. Tự nhiên, tôi trọng những tài ba đức tính đó.
Tôi cũng tin rằng ông không vừa cầm quân, vừa
làm chính trị, mà như vậy là phải. Ông có đức tự tin, đức đó quý lắm, nếu không
phải là cần thiết.
Ông có xa vọng. Xa vọng mà giữ được trong những
giới hạn cho vừa phải thì tốt nhiều hơn là hại. Nhưng tôi biết rằng xa vọng của
ông đã đưa ông tới sự dùng đủ mọi cách để cản trở Đại tướng Burnside; như vậy
ông đã làm hại lớn cho nước chúng ta và cho một người bạn cầm quân đáng trọng
và đáng khen của ông.
Mới rồi ông có nói - tôi biết chắc như vậy -
rằng quân đội và chính phủ đều cần có một người độc tài cầm đầu.
Không phải vì ông có ý tưởng đó mà tôi tin dùng
ông. Chính ra, dù ông có ý tưởng đó, tôi cũng vẫn có gan dùng ông. Ông cũng
hiểu vậy chứ?
Chỉ những đại tướng thắng trận mới có thể đòi
làm nhà độc tài được. Bây giờ tôi hãy xin ông thắng trận trước đã, còn vấn đề
độc tài, chúng ta sẽ bàn sau.
Chính phủ sẽ hết sức bênh vực ông, nghĩa là
không hơn cũng không kém các đại tướng khác. Nhưng tôi ngại rằng cái phong trào
chỉ trích và nghi ngờ các vị chỉ huy mà ông rải rác trong quân đội sẽ trở lại
hại ông. Tôi sẽ hết sức giúp ông để triệt cái thói đó đi.
Quân đội mà có tinh thần đó thì ông - mà cả Nã
Phá Luân tái sinh nữa - cũng không thể bắt họ gắng sức được. Ông nên coi chừng
hữu dõng vô mưu. Nhưng ông phải cương quyết; luôn luôn dụng tâm mãnh tiến và
đem đại thắng về cho chúng tôi".
Tôi hiểu bạn lắm. Bạn không phải là một
Coolidge, một Mc. Kinley hay một Lincoln. Điều bạn muốn biết là làm sao áp dụng
phương pháp đó vào công việc làm ăn hàng ngày được. Đây, xin bạn nghe chuyện
ông Gaw, kiến trúc sư giúp việc cho một hãng thầu khoán lớn về nhà cửa.
Ông Gaw là một người thường như bạn và tôi.
Hãng của ông cậy ông cất ở Philadelphie một ngôi
nhà lớn, hẹn phải cho xong một thời hạn nhất định. Mọi việc tiến hành thuận
tiện. Nhà cất gần xong rồi thì thình lình nhà chế tạo những đồ đồng để trang
hoàng phía trước nhà, cho hay rằng không giao những đồ đồng đó y hẹn được. Sao?
Cả một tòa nhà vì vậy mà phải trễ sao? Phải bồi thường lớn và sai hẹn, sẽ lỗ
vốn lớn, bao nhiêu sự khó khăn! Mà chỉ vì mỗi một người!
Gọi điện thoại... Tranh biện... trách mắng...
Đều vô hiệu. Hãng bèn sai ông Gaw lại Nữu Ước vô tận hang để làm xiêu lòng con
cọp đó.
Khi ông vô phòng giấy nhà chế tạo đó, ông nói:
"Ông có biết rằng ở Brooklyn này, không có
ai trùng tên với ông không?".
Người kia ngạc nhiên: "Không, tôi không hay
đấy". Ông Gaw tiếp: "Tôi cũng mới hay đây, khi kiếm địa chỉ của ông
trong Điện thoại niên giám".
Nhà chế tạo lấy cuốn niên giám và tìm kiếm kỹ
lưỡng, rồi nói với một giọng tự đắc rõ rệt:
"Quả thật tên tôi hơi lạ. Họ tôi gốc ở Hòa
Lan qua cư trú ở đây gần được hai trăm năm rồi".
Trong vài phút, ông ta vui vẻ kể về cha mẹ và tổ
tiên ông. Khi ông ta nói xong, ông Gaw khen nhà máy của ông ta và kết luận:
- Nhà máy đó vào hạng sạch sẽ nhất, khéo tổ chức
nhất trong số các nhà máy mà tôi đã được thấy.
Nhà kỹ nghệ nói:
- Tôi đã suốt đời dựng nó lên, sửa sang nó và
tôi lấy làm tự đắc vì nó lắm... Ông muốn đi thăm các xưởng của tôi không?
Ông Gaw, từ đầu đến cuối trầm trồ khen máy móc,
phương pháp làm việc và giảng giải tại sao ông cho là hơn những nơi khác. Ông
nhận thấy vài bộ phận đặc biệt: nhà kỹ nghệ khoe tự ông ta sáng tạo ra và tả tỉ
mỉ về những động tác của nó ra sao.
Sau cùng, ông ta cố mời ông Gaw dùng bữa trưa
với ông ta. Bạn nhận kỹ, từ đâu tới đó, chưa có nửa lời về mục đích của cuộc
thăm viếng.
Sau bữa, nhà kỹ nghệ nói: "Thôi nói về việc
ông đi. Tất nhiên tôi hiểu tại sao ông lại đây. Tôi không ngờ rằng ông nói
chuyện vui vẻ như vậy. Ông có thể trở về Philadelphie. Tôi hứa với ông rằng
những đồ đồng của ông sẽ làm và giao đúng hẹn, dù tôi phải ngưng hết thảy những
công việc khác lại".
Ông Gaw không đòi mà được. Nhà kỹ nghệ giữ lời
hứa và tòa nhà cất xong đúng hẹn.
Nếu ông Gaw dùng những phương pháp kịch liệt mà
người ta thường dùng trong những trường hợp đó thì có trôi chảy được như vậy
không?
Vậy, muốn cải thiện người mà không làm cho người
đó phật ý, giận dữ, bạn hãy:
"Bắt đầu câu chuyện bằng cách tặng người đó
vài lời khen thành thật".
Đó là quy tắc thứ nhất.
Chuong 2
Chỉ trích cách nào mà khỏi gây thù oán?
Charles Schwab, cánh tay mặt của Andrew
Carnegie, ông vua Thép, nhờ thiệp thế mà khéo ngoại giao mà được hết thảy mọi
người quý mến. Một buổi trưa, có việc đi qua các xưởng của ông, ông bắt gặp một
nhóm thợ đương hút thuốc, mà ngay trên đầu họ có tấm bảng đề "Cấm hút
thuốc". Ông Schwab xử trí ra sao? Ông có chỉ tấm bảng mà la lên: "Các
anh không biết đọc ra sao?". Không! Ai kia thì xử sự như vậy, chứ ông
Schwab thì không bao giờ. Ông lại gần họ, đưa cho mỗi người một điếu xì gà rồi
nói: "Xin anh em vui lòng ra ngoài kia hút".
Nhóm thợ hiểu rằng ông biết họ đã phạm luật của
xưởng nên nhắc khéo họ. Họ càng quý mến ông, vì chẳng những ông không đả động
tới điều lệ, còn mời họ hút thuốc, làm cho họ cảm động mà thấy ông nể nang họ.
Ai mà không mến một người như vậy?
John Wanamaker, là chủ nhiệm cửa hàng lớn trong
tỉnh Philadelphie, cũng dùng phương pháp đó. Ông có thói quen mỗi ngày đi dạo
qua hết các gian hàng của ông. Một lần ông thấy một bà khách đứng đợi tại một
gian hàng mà chẳng ai tiếp bà hết. Các cô bán hàng còn mải cười giỡn, chuyện
trò trong một xó. Ông Wanamaker không nói chi hết, nhẹ nhàng tiến lại quầy
hàng, đích thân tiếp bà khách hàng, rồi đem giao món hàng bà đã lựa cho một cô
làm công để gói lại... đoạn tiếp tục đi.
Một vị mục sư nổi danh ở Huê Kỳ, ông Lyman
Abbott, khi nhận chức, phải đăng đàn thuyết pháp tỏ ý ai điếu và ca tụng công
đức vị mục sư tiền nhiệm mà hồi sanh tiền vốn có tài hùng biện.
Vì quyết tâm tỏ tài, ông ra công gọt giũa bài
thuyết pháp của ông còn tỉ mỉ hơn văn sĩ Flaubert nữa. Khi viết xong, ông đọc
cho bà mục sư nghe. Bài đó chẳng hay ho gì, cũng như phần nhiều những bài diễn
văn soạn sẵn.
Bà Abbott, nếu vụng xử, ắt đã nói: "Này,
mình, bài đó tệ quá... không được đâu!... Thiên hạ sẽ ngủ gục mất. Nó tràng
giang đại hải như một bộ bách khoa tự điển vậy. Mình thuyết giáo đã lâu rồi mà
sao còn dở vậy? Thì mình cứ nói tự nhiên, dùng ngôn ngữ của mọi người có hơn
không? Nếu mình đọc bài đó ra, thì sẽ tai hại cho mình lắm đa!...".
Bà mục sư có thể nói như vậy được. Nhưng rồi sẽ
xảy ra sự chi, chắc bạn đã đoán được. Chính bà cũng biết vậy nữa. Cho nên bà
chỉ nói rằng bài diễn văn đó, nếu cho đăng vô Tạp chí Bắc Mỹ thì tuyệt. Nghĩa
là bà kín đáo vừa khen, vừa chê bai đó không thích hợp với công việc thuyết
giáo. Ông Lyman Abbott hiểu ý, xé bài văn đã tốn nhiều công đó và chẳng cần
soạn trước, ông đăng đàn thuyết giáo.
Vậy, muốn thay đổi hành động của một người mà
không làm phật ý họ và cũng không gây thù oán:
Bạn hãy nói ý cho họ hiểu lỗi của họ.
Đó là quy tắc thứ hai
Chương Ba
Hãy tự cáo lỗi trước đã
Cách đây vài năm, cháu gái tôi, Joséphine
Carnegie, rời quê hương tới làm thư ký cho tôi tại Nữu Ước. Hồi đó cháu 19
tuổi, mới ở trường ra, nghĩa là không có một chút xíu kinh nghiệm nào về thương
mãi. Hiện nay cháu đã trở nên một trong những thư ký hoàn toàn nhất mà tôi được
biết. Nhưng hồi mới ư?... Hồi mới thì cháu... còn cần phải học rất nhiều.
Một hôm, tôi đã định rầy cháu, nhưng suy nghĩ
lại, tự nhủ: "Khoan đã, Dale Carnegie à... Tuổi anh gấp đôi tuổi nó. Anh
kinh nghiệm cả vạn lần hơn nó. Anh bắt nó có quan điểm của anh, có trí xét đoán
của anh sao được, tuy rằng anh còn tầm thường lắm đấy! Nhớ lại chút coi! Hồi
anh 19 tuổi, anh đã làm những chi nhỉ? Anh có nhớ đã làm việc đó... rồi việc đó
nữa không...?".
Sau khi cân nhắc kỹ, một cách chân thành và vô
tư, tôi phải kết luận rằng cháu Joséphine còn giỏi hơn tôi khi tôi bằng tuổi
cháu, mà tôi phải thú nhận rằng như vậy không phải là một lời khen cháu đâu.
Nhưng lần sau, mỗi khi tôi bắt buộc phải rầy
cháu, tôi bắt đầu như vầy: "Cháu đã lầm lỗi, nhưng có Trời Phật biết cho,
hồi xưa chú còn lầm lỗi nặng hơn cháu nhiều. Phải lớn tuổi mới biết xét đoán
được. Hồi chú bằng tuổi cháu, chú vô lý hơn cháu nhiều. Chú đã làm nhiều cái
bậy đến nỗi chú không dám chỉ trích một ai hết. Nhưng, cháu thử nghĩ giá làm
như vầy, có phải khôn hơn không?...".
Nếu ta khiêm tốn nhận trước rằng ta cũng chẳng
hoàn toàn gì rồi mới trách kẻ khác, thì kẻ đó không thấy khó chịu lắm.
Vị Vương hầu khôn khéo Von Bulow đã hiểu phương
pháp đó là quan trọng từ năm 1909. Lúc đó ông làm Tể tướng dưới triều Hoàng đế
Guillaume II, vị Hoàng đế cuối cùng của nước Đức, ngạo mạn, kiêu căng thường tự
khoe rằng lục quân và hải quân của mình đủ sức "đánh tan lũ mèo
rừng".
Một chuyện lạ lùng xảy ra, Hoàng đế tuyên bố
những lời không thể tưởng tượng được, làm rung động cả châu Âu và vang lên khắp
bốn phương trời. Những lời điên rồ hợm hĩnh và vụng dại đó, ông tuyên bố giữa
công chúng, trong khi ông qua thăm Anh hoàng; ông lại cho phép tờ báo Anh Daily
Telegraph công bố lên mặt báo nữa.
Ông tuyên bố rằng ông là người Đức độc nhất có
cảm tình với người Anh, rằng ông sẽ tăng cường hải quân của ông để chống với
Nhật Bản, rằng chỉ nhờ sự can thiệp của ông mà Anh quốc mới khỏi bị đè bẹp dưới
sự đô hộ của Nga, Pháp, rằng Anh thắng được quân Boers ở Nam Phi là nhờ trận đồ
của ông, và còn nhiều hơn nữa...
Từ 100 năm, chưa thấy ông vua nào giữa thời bình
mà tuyên bố những lời lạ lùng như vậy. Cả châu Âu giận dữ ồn ào, như bầy ong vẽ
vỡ tổ. Nước Anh khích nộ sôi nổi. Các nhà chính trị Đức hoảng sợ. Giữa sự kinh
ngạc của mọi người, Hoàng đế đâm hoảng, cậy Vương hầu Von Bulow nhận giùm hết
trách nhiệm thay vua. Ông muốn Tể tướng bố cáo rằng chính Tể tướng đã khuyên
ông tuyên bố những lời lạ lùng đó.
Von Bulow cãi:
- Tâu Bệ hạ, thần tưởng không một người nào ở
Anh cũng như ở Đức, lại có thể tin rằng thần đã khuyên Bệ hạ như vậy được.
Chưa dứt lời thì Von Bulow đã tự biết mình lỡ
lời. Hoàng đế đùng đùng cơn giận:
"Thì ngươi nói phắt rằng ngươi coi ta ngu
như lừa, đã làm những lỗi mà ngươi, ngươi không khi nào làm!".
Von Bulow biết rằng đáng lẽ phải khen trước đã
rồi mới chê, nhưng trễ quá rồi, chỉ còn mỗi một cách vớt vát là: đã lỡ chê
trước thì phải khen sau vậy; và năng lực của lời khen thiệt mạnh, kết quả dị
thường:
Tể tướng kính cẩn trả lời:
"Thần đâu dám có ý đó. Bệ hạ hơn thần về
nhiều phương diện. Không những hơn về vấn đề binh bị và hải quân - điều đó đã
đành - mà hơn cả về khoa vật lý học nữa. Thần đã từng khâm phục nghe Bệ hạ
giảng về phong vũ biểu, về vô tuyến điện tín hoặc về quang tuyến X nữa. Thần tự
thấy xấu hổ, vì chẳng biết chút chi về hóa học và vật lý học, không thể phân
tích được một vấn đề giản dị nhất của khoa học. Nhưng bù vào đó, thần cũng biết
chút ít về sử ký và có lẽ có vài đức tính khả dĩ có thể dùng được trong chánh
trị và ngoại giao".
Hoàng đế tươi như hoa. Von Bulow tự nhún để khen
ngợi, biểu dương Người, và Hoàng đế đại xá cho hết, vui vẻ truyền: "Trẫm
và ngươi không nên rời nhau. Trẫm đã chẳng nói rằng Trẫm và ngươi bổ sung lẫn
cho nhau sao?''.
Rồi Hoàng đế siết chặt tay Von Bulow, không phải
một mà nhiều lần, Guillaume II đã xúc động tới nỗi, trong ngày đó, có lần giơ
hai quả đấm lên nói:
"Nếu kẻ nào đó nói bất kỳ điều gì xúc phạm
tới Vương hầu Von Bulow, thì Trẫm sẽ thoi vào mặt nó!".
Von Bulow đã biết chữa lỗi lại liền. Nhưng con
cáo già đó cũng đã lầm lỡ; đáng lẽ là phải bắt đầu tự cáo những khuyết điểm của
mình và ca tụng Guillaume II đã, thì ông đã lỡ tỏ trước rằng ông chê vua vụng
dại không biết giữ gìn lời nói.
Chỉ có vài lời tự nhún và khen ngợi mà Von Bulow
đã làm cho một ông vua kiêu căng đương bị xúc phạm biến thành một bạn thân, tận
tâm với mình. Phương pháp đó đối với một vị Hoàng đế còn có hiệu quả như vậy,
thì bạn thử tưởng tượng đối với chúng mình đây, còn hiệu quả tới đâu. Sự nhũn
nhặn và biết khâm phục, khéo dùng cho vừa phải và đúng trường hợp, giúp chúng
ta làm được những việc phi thường trong đời chúng ta.
Vậy muốn thay đổi thái độ của người khác mà
không làm cho họ phật ý, giận dữ, bạn phải theo quy tắc thứ ba sau này:
Trước khi chỉ trích ai, bạn hãy tự thú nhận
những khuyết điểm của bạn đã".
Chương Bốn
Đừng ra lệnh
Một người, trong ba năm làm việc chung một phòng
với nhà kinh tế học trứ danh Owen D. Young, người đã lập ra kế hoạch Young, nói
rằng không hề nghe thấy ông ra lệnh cho ai hết. Ông Young chỉ bảo, đề nghị,
tuyệt nhiên không truyền lệnh. Chẳng hạn không khi nào ông nói: "Làm cái
này", "Làm cái kia...", "Đừng làm cái này hay cái
kia". Không, ông nói: "Thầy có thể nghiên cứu việc này được...",
"Thầy cho rằng như vậy nên không?". Sau khi đọc cho người ta đánh máy
một bức thư, ông thường hỏi các người giúp việc ông: "Như vậy được không?
Khi người giúp việc trình ông bản thảo một bức thư để xin ông sửa cho, ông chỉ
bảo: "Có lẽ nên sửa lại câu này như vầy...".
Luôn luôn ông để cho những người giúp việc ông
có nhiều sáng kiến, không bao giờ ông tỏ vẻ bắt buộc họ làm việc này việc nọ
theo ý ông, mà ông để họ hành động theo ý họ. Nếu họ lầm lẫn thì là một cơ hội
cho họ tự cải.
Một cách đối đãi như vậy làm cho người ta vui
lòng tự sửa mình. Lại không làm thương tổn lòng tự ái của người ta, cho người
ta nhận thấy sự quan trọng của người ta và như vậy người ta sẽ vui lòng cộng
tác với mình, không phản đối mình.
Vậy quy tắc thứ 4 để sửa lỗi người mà không làm
cho họ phật ý, giận dữ là:
"Đừng ra lệnh. Dùng cách đặt câu hỏi để
khuyên bảo người ta".
Chương Năm
Giữ thể diện cho người
Mấy năm trước, Công ty Điện khí ở Nữu Ước gặp
một việc khó giải quyết: làm sao cho Charles Steinmetz chịu bỏ chức chủ sở đi
được. Steinmetz là một thiên tài bậc nhất về điện học, nhưng hoàn toàn bất tài
trong công việc chỉ huy một phòng kế toán. Công ty sợ làm phật ý ông vì ông rất
cần cho công ty mà lại dễ hờn vô cùng. Các ông giám đốc công ty liền thăng ông
lên chức: "Kỹ sư cố vấn của Công ty Điện khí"; chỉ có cái chức là
mới, còn công việc vẫn là công việc cũ. Rồi họ lựa một người khác cho chỉ huy
phòng kế toán.
Steinmetz sung sướng.
Mà các vị giám đốc cũng vậy!
Khéo xử một cách ngọt ngào, biết giữ thể diện
cho Steinmetz, họ đã êm ấm đạt được mục đích, không thiệt hại chút gì hết.
"Giữ thể diện!". Điều đó quan trọng
lắm. Vấn đề sinh tử! Vậy mà trong chúng ta, có mấy người biết giữ thể diện cho
người khác? Chúng ta chà đạp cảm tình của người, bắt họ theo ý ta, buộc lỗi họ,
dọa dẫm họ; chúng ta rầy la con cái hay người giúp việc trước mặt bất cứ ai,
không hề nghĩ rằng tự ái của họ đang bị ta chà đạp. Mà có khó khăn gì đâu, chỉ
một chút suy nghĩ, vài lời ngọt ngào, một lòng thành thật gắng sức quên mình và
hiểu người là đủ làm dịu hẳn vết thương.
Lần sau, chúng ta có bắt buộc phải làm công việc
đáng ghét là đuổi một người ở hay một người làm công thì ta nên nhớ điều đó.
Đây là nguyên văn bức thư một kế toán viên gởi
cho tôi:
"Đuổi người làm công, không phải là một cái
thú. Mà bị đuổi lại càng không thú chút nào hết. Công việc của hãng chúng tôi
có từng mùa. Cho nên, bắt đầu tháng ba là chúng tôi phải sa thải một số nhân
viên đi.
Mãi tới gần đây, chúng tôi vẫn báo tin buồn đó
cho những người bị hy sinh bằng cách này:
Ông Smith, mời ông ngồi xuống. Tới mùa hết việc
rồi, chúng tôi không có đủ công việc để cậy ông giúp... Chúng ta đã cho ông hay
trước rằng công việc ông làm chỉ tạm thời thôi...".
Nhưng người bị mất việc dù sao cũng thất vọng
lắm. Họ có cảm tưởng bị bỏ rơi và không thèm giữ một mảy may cảm tình với một
hãng đã đối đãi với họ khiếm nhã như vậy.
Sau này, tôi áp dụng một cách lịch sự hơn, đối
đãi với họ có lễ độ hơn. Tôi cho mời từng người vô phòng tôi sau khi suy nghĩ
kỹ về công việc họ đã giúp tôi trong cả mùa đông, tôi nói với họ như vầy:
"Ông Smith, ông đã đắc lực giúp chúng tôi
(nếu quả có vậy). Khi chúng tôi cậy ông đi Nữu Ước, nhiệm vụ không phải dễ mà
ông đã thành công được một cách đáng khen; hãng lấy làm vinh dự lắm. Ông có
tài, có nhiều tương lai, dù ông làm việc ở đâu cũng vậy. Chúng tôi tin cậy ông
và hễ có việc để nhờ ông giúp được, chúng tôi sẽ nghĩ tới ông. Chúng tôi không
quên ông...
Kết quả tốt hơn vô cùng. Họ không oán hờn gì
hết, họ không cho rằng họ bị chúng tôi phản. Họ hiểu rằng nếu có công việc thì
chúng tôi tất giữ họ lại. Và khi chúng tôi cần tới họ, họ vội vàng lại liền, có
vẻ cảm ơn chúng tôi lắm".
Ông Dwight Morrow, cựu sứ thần Mexique, đã quá
cố, nhạc phụ ông Lindbergh, có một tài dị thường là làm cho hai kẻ thù sắp đà
đấm nhau, hòa giải với nhau liền. Ông làm cách nào? Ông tìm trong quan điểm của
hai người, tất cả những chỗ mà ông cho là công bằng, ông đem phô bày ra và ca
tụng, không cho ai là trái hết, dù cuộc tranh biện kết cục ra sao cũng vậy.
Đó là quy tắc của mọi sự trọng tài: giữ thể diện
cho người ta.
Năm 1922, sau hai thế kỷ oán thù, dân Thổ Nhĩ Kỳ
quyết xua đuổi những kiều dân Hy Lạp ra khỏi nước, Mustapha Kémal hô hào quân
lính". Hỡi sĩ tốt, mục đích của chúng ta là Địa Trung Hải". Chiến
tranh đó giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, là một trong những chiến tranh cận đại đổ
máu nhiều nhất. Quân Thổ thắng và khi hai đại tướng Hy Lạp Tricoupis và Dionis
lại tổng hành dinh của Kémal để đầu hàng, dân Thổ trút lời nguyền rủa lên đầu
họ.
Nhưng Kémal không tỏ ra cho họ thấy rằng ông là
người thắng. Những bực vĩ nhân không phí thì giờ tự đắc, khoe những thành công
của mình.
Ông bắt tay hai đại tướng đó nói:
"Xin mời hai Ngài ngồi xuống đây, chắc hai
Ngài mệt lắm".
Rồi sau khi nói chuyện với họ về trận mạc, ông
xoa vết thương tự ái của họ: "Tôi xin lấy tư cách một quân nhân nói chuyện
với hai Ngài cũng là quân nhân. Tôi cho chiến tranh là một canh bạc, và những
người cao nhất cũng có khi thua".
Vậy, cả tới trong khi nỗi vui mừng thắng trận
kích thích ông, mà ông cũng không quên quy tắc quan trọng thứ 5 sau này:
"Giữ thể diện cho người"
Chương Sáu
Khích lệ người ta cách nào?
Tôi đã được biết anh Pete Barlow. Anh chuyên môn
dạy chó và ngựa làm trò trong những rạp xiếc. Tôi thích coi anh dạy chó lắm.
Khi một con chó hơi tấn tới một chút, anh vuốt ve nó, khen nó, thưởng nó thịt;
nói tóm lại, trọng thị sự thành công của nó.
Phương pháp đó không mới mẻ gì. Tất cả những
người dạy súc vật áp dụng nó đã nhiều thế kỷ rồi.
Tôi tự hỏi đối với loài người sao chúng ta không
dùng cách hợp lý đó? Tại sao ta không dùng thịt thay cho roi, lời khen thay cho
lời mắng? Chúng ta nên theo anh Pete Barlow: muốn khuyến khích ai thì dù người
đó tấn tới rất ít, ta cũng nên khen. Như vậy chúng ta khích lệ họ cho họ tiếp
tục gắng sức.
Lewis E. Lawes, giám đốc khám Sing Sing, công
nhận rằng những lời khuyến khích có nhiều kết quả rất tốt, cả với những tội nhân
chai nhất. Ông nói trong một bức thư:
"Tôi đã nhận thấy rằng muốn cho tội nhân
hợp tác với và trở lại con đường lương thiện thì khen những sự gắng sức của họ,
có hiệu quả hơn là rầy, phạt họ".
Tới bây giờ tôi chưa từng bị nhốt khám Sing Sing
và không biết bọn tội nhân nghĩ sao. Nhưng chỉ cần ngó về quá khứ của tôi, cũng
thấy rằng đời tôi có một đôi khi thay đổi do một lời khen hay khuyến khích. Và
bạn có như vậy không?... Quá khứ đầy những thí dụ chứng minh năng lực thần diệu
của lời khen.
Năm mươi năm trước, một đứa nhỏ 10 tuổi làm việc
trong một xưởng ở Naples. Nó mơ mộng muốn thành một danh ca. Chẳng may, ông
thầy đầu tiên dạy nó ca làm cho nó thất vọng: "Giọng mày ca như xé tai
người ta". Nhưng má nó, một người nhà quê nghèo an ủi nó, ôm nó vào lòng,
bảo rằng bà tin chắc nó có tài và đã thấy nó tiến tới rồi. Bà làm việc cực khổ,
nhịn ăn, nhịn mặc, đi chân không, để dành tiền cho con học âm nhạc... Những lời
khuyến khích của bà thay đổi hẳn đời đứa nhỏ. Chắc bạn đã được nghe người ta
nói tới nó: tên nó là Caruso.
Nhưng hoàn cảnh nó thiệt là trái ngược. Học thì
sơ sài, cha bị giam thâu (thiếu nợ mà bị giam) và chính nó nghèo lắm, nhiều khi
bị "lửa cơ đốt ruột". Sau cùng, nó kiếm được một việc làm là dán nhãn
lên trên những ve thuốc nhuộm trong một kho hàng đầy những chuột cống. Tối, nó
ngủ trên một gác thượng ghê tởm, sát mái nhà, cùng với bọn du côn cặn bã của
thành Luân Đôn. Nó không tin ở giá trị của nó và sợ người ta chế giễu tới nỗi
phải đợi trời tối như mực rồi mới dám lén lút đem bản thảo bỏ vào thùng thư.
Hết bản này đến bản khác bị từ chối. Sau cùng, một ngày tươi sáng tới: một
truyện nó viết được người ta nhận đăng. Đành rằng người ta không trả nó một xu
nhỏ nào hết, nhưng nó không cần. Nhà xuất bản khen nó, là đủ rồi! Có người nhận
là nó có tài rồi! Nó sung sướng tới nỗi nó đi lang thang ngoài phố, hai hàng lệ
ròng ròng trên má.
Từ lúc đó, nó hy vọng, tự tin và tương lai của
nó thay đổi hẳn. Nhưng nếu không có sự khuyến khích đó thì có lẽ nó còn làm
suốt đời trong những nhà máy đầy chuột cống. Người đó, cũng không xa lạ gì với
bạn. Chính là văn sĩ Anh Charles Dickens.
Nửa thế kỷ sau, một thanh niên khác ở Luân Đôn
làm việc trong một cửa hàng bán đồ nỉ. Dậy từ 3 giờ sáng, quét tiệm và nai lưng
ra làm 14 giờ một ngày. Được 2 năm, chịu không nổi, rồi một buổi sáng, không
điểm tâm, bỏ nhà ra đi, cuốc bộ trên 20 cây số về thăm bà mẹ làm quản gia cho
một chủ điền. Cậu than thở với mẹ, khóc lóc van lơn, thề nhất định tự tử, nếu
còn phải bắt buộc bước chân vào cửa hàng đó nữa... Rồi cậu viết một bức thư dài
cho ông giáo cũ, thú nhận rằng chịu không nổi đời được nữa, chỉ muốn quyên sinh
thôi. Ông giáo hồi âm, an ủi cậu, nói cậu rất thông minh, làm việc lớn được,
đời sẽ tươi sáng hơn và cuối thư, cho cậu một chân giáo viên.
Những lời khen an ủi đó, đủ thay đổi đời cậu và
có một ảnh hưởng sâu xa trong văn học nước Anh. Thực vậy, từ hồi ấy, nhân vật
đó đã viết 77 cuốn sách và dùng ngòi viết mà kiếm được trên một triệu mỹ kim.
Chắc bạn viết văn sĩ đó: Chính là H. G. Wells.
Năm 1922, ở Californie có một thanh niên nghèo
khổ, sống với vợ. Giọng chàng tốt; chủ nhật hát ở nhà thờ và thỉnh thoảng hát
trong những lễ cưới để kiếm vài mỹ kim. Nhưng khó đủ ăn lắm, chàng nhất quyết
xa châu thành về nhà quê mà đời sống ít đắt đỏ. Kiếm được một cái chòi ở giữa
vườn nhỏ rồi ở đó. Tiền mướn nhà tuy chẳng là bao, nhưng đối với chàng còn nặng
quá; chàng không trả nổi. Thiếu 10 tháng tiền nhà, chàng đành làm trong vườn
nho để trả nợ. Nhiều khi đói quá, được ít nho lót lòng chàng mừng lắm. Chàng
thất vọng đến nỗi muốn giải nghệ đi bán xe cam nhông... Chính lúc đó, văn sĩ
Rupert Hugles nghe chàng ca, khen chàng: "Giọng anh tốt lắm. Anh phải lên
Nữu Ước, kiếm thầy học, luyện thêm nó đi...".
Chính lời khen đó đã mở đầu cho quãng đường rực
rỡ của chàng. Chàng giãi bày tâm sự với tôi như vậy. Chàng liều mượn hai ngàn
rưỡi mỹ kim rồi đi về miền Đông. Thanh niên đó là nhà danh ca Lawrence Tibbett.
Nếu chúng ta biết đem ra ánh sáng những tài năng
sâu kín của những người ở chung quanh chúng ta, thì chẳng phải là ta chỉ dẫn
đạo, cải thiện, phân phát họ mà thôi, ta còn cải tạo họ nữa.
Bạn cho rằng tôi nói quá ư? Thì đây, xin bạn
nghe những lời chí lý sau này của giáo sư William James, một nhà tâm lý có lẽ
có tài nhất của châu Mỹ.
"Chúng ta hiện tại ra sao, và chúng ta có
thể trở thành một người ra sao, hai trạng thái đó khác nhau xa lắm, cũng như
một người chập chờn nửa thức nửa ngủ, so với một người tỉnh táo hẳn hoi vậy.
Chúng ta chỉ dùng một phần nhỏ những khả năng
vật chất và tinh thần của chúng ta. Nói chung thì loài người sống mà bỏ phí ít
nhiều khả năng lắm. Có đủ bảo vật mà không dùng tới".
Bạn cũng có "Những bảo vật mà bạn không
dùng tới", hoặc không biết lợi dụng nó tới cực độ. Trong những bảo vật đó,
có khả năng huyền diệu khích lệ người khác bằng những lời khuyến khích thành
thật và khả năng làm cho họ biết những năng lực tiềm tàng của họ.
Vậy muốn thay đổi một người mà không làm cho họ
phật ý, giận dữ, bạn phải:
"Lấy công tâm nhận những sự gắng sức của
họ, khen những tấn tới nhỏ nhất của họ. Lời khuyến khích của bạn phải thành
thật và nhân từ".
Đó là quy tắc thứ 6.
Chương Bảy
Vị tri kỷ giả, dụng
Một bà bạn tôi ở Nữu Ước, bà Gent, mướn một
người ở gái và hẹn chị ta thứ hai sau lại bắt đầu làm việc. Trong thời gian đó,
bà kêu điện thoại hỏi một người chủ cũ về hạnh kiểm của chị ta. Người chủ đó
không hài lòng về chị ta lắm... Nhưng khi chị lại, bà Gent nói: "Chị
Nellie, hôm nay tôi kêu điện thoại hỏi bà chủ cũ của chị. Bà ấy nói chị ngay
thẳng và đứng đắn, giỏi làm bếp và khéo săn sóc trẻ em. Nhưng bà ấy có thêm
rằng, chị không siêng năng, nhà không bao giờ lau chùi kỹ. Riêng tôi, tôi tin
rằng bà ấy nói quá đáng. Tôi coi người chị cũng biết chị cẩn thận. Chị sửa soạn
thật gọn gàng. Tôi chắc rằng chị chăm nom nhà cửa không có chỗ nào đáng chê,
cũng như cách ăn bận của chị vậy. Rồi chị coi, chắc chắn chị sẽ vừa ý tôi
lắm".
Và mọi sự được vừa ý thiệt. Chị Nellie muốn xứng
đáng với lời khen của bà chủ. Và chị xứng đáng thiệt. Nhà cửa sạch bóng. Mỗi
ngày chị làm phụ một giờ nữa để cọ, lau, chứ không chịu để cho bà Gent thất
vọng.
Ông hội trưởng Công ty Baldwin sản xuất đầu xe
lửa nói:
"Những người đã trọng ta, mà ta lại biết
mến tài họ, thì dễ chỉ huy họ lắm".
Tóm lại, nếu bạn muốn cho ai phát triển một đức
tính nào, bạn nên hành động như đức tính đó đã là một đặc sắc rõ ràng nhất của
người đó. Shakespeare nói: "Nếu bạn còn thiếu một đức tính, cứ xử sự như đã
có nó rồi". Muốn cải thiện một người, bạn cứ ra vẻ tin người đó có đức
tính này đức tính nọ đi. Tỏ ra tin cậy người đó đi, khen họ đi: Họ sẽ gắng sức
phi thường để xứng đáng với lời khen của bạn.
Trong cuốn "Ký ức cuộc đời sống chung với
Maeterlinck", bà Georgette Leblanc kể chuyện một sự thay đổi dị thường
trong đời một cô bé nước Bỉ.
Bà nói: "Tôi ăn cơm tháng tại một khách sạn
gần nhà và họ cho một người hầu gái đem lại nhà tôi. Tên chị là "Marie rửa
chén" vì hồi mới vô làm, người ta để chị rửa chén. Chị xấu như quỷ, mắt
lé, chân đi chữ bát, gây giơ xương, đần độn.
Một hôm, trong khi chị đặt bàn, tôi đột ngột bảo
chị:
''Chị Marie, chị có rất nhiều chỗ đáng quý, chị
có biết không?''.
Vì quen giấu tình cảm của mình, chị đứng thừ ra
một lúc, câm như hến và trơ như đá. Rồi đặt đĩa lên bàn, chị thở dài, ngây ngô
nói: "Thưa bà, thiệt tôi không bao giờ ngờ như vậy". Chị không hỏi
thêm một câu, lặng lẽ trở vô bếp và nhắc đi nhắc lại lời tôi đã nói cho mọi
người nghe.
Lòng tin của chị mạnh tới nỗi không ai nỡ chế giễu
chị, mà từ hôm đó, còn hơi nể chị nữa. Nhưng sự thay đổi lạ lùng nhất, chính là
sự biến hóa của thâm tâm chị. Tin chắc rằng chị có nhiều chỗ đáng quý mà không
ai biết, chị hăng hái sửa soạn, trau giồi nhan sắc đến nỗi tuổi xuân của chị mà
chị quên bẵng đi, trở lại rực rỡ trên nét mặt chị và người ta không thấy chị
xấu nữa.
Hai tháng sau, lúc tôi dọn nhà, chị cho tôi hay
sắp thành hôn với cháu đầu bếp chánh. Chị ta nói: "Tôi sắp được sang
trọng" và cám ơn tôi. Chỉ có một câu ngắn mà thay đổi cả đời chị ta".
Bà Georgette Leblanc đã khen chị Marie và lời
khen đó đã thay đổi hẳn người đàn bà đó.
Mới rồi tôi được hầu chuyện một ông giám đốc
Công ty "exchange Buffets". Hai mươi sáu tiệm, cao lâu hợp lại thành
công ty đó và cùng theo một chính sách đặc biệt, lấy "danh dự" làm
trọng.
Trong những tiệm đó, sáng lập từ năm 1885, không
bao giờ người ta đưa giấy tính tiền cho khách hàng hết. Bạn muốn kêu món gì thì
kêu, ăn xong rồi, bạn tính tiền lấy, rồi khi ra, đem lại quỹ trả. Không kiểm
soát gì hết, không có thẻ gì hết.
Tôi ngạc nhiên lắm, hỏi:
"Nhưng ông phải có vài người giám thị chứ?
Không thể tin hết thảy các khách ăn được".
- Chúng tôi không có người giám thị nào hết -
ông giám đốc trả lời - Có lẽ cũng có người ăn quịt, nhưng chúng tôi không cần
biết tới. Chúng tôi chỉ biết rằng chính sách của chúng tôi hẳn có chỗ hay, nếu
không thì sao đã thịnh vượng trong nửa thế kỷ nay được?
Tại những cao lâu đó, khách ăn được đãi như
người lương thiện, biết trọng danh dự. Cho nên hết thảy, giàu, nghèo, ăn trộm,
ăn xin... đều muốn được xứng đáng với lòng tin cậy của chủ tiệm.
Ông Lawes, giám đốc khám Sing Sing còn nói:
"Đối với một quân vô lại, muốn cho được
việc, chỉ có mỗi một cách là tỏ vẻ tin cậy nó, đãi nó như một công dân lương
thiện và đáng trọng, cứ nhận ngay rằng nó trung thực, đứng đắn. Được bạn tin
cậy, nó phỉnh mũi ra và có lẽ gắng sức để được xứng đáng lòng tin đó".
Lời đó hay và đúng đến nỗi tôi muốn nhắc lại
đây:
"Đối với một quân vô lại, muốn cho được
việc, chỉ có mỗi một cách là tỏ vẻ tin cậy nó, đãi nó như một công dân lương
thiện và đáng trọng, cứ nhận ngay rằng nó trung thực, đứng đắn. Được bạn tin
cậy, nó phỉnh mũi ra và có lẽ gắng sức để được xứng đáng với lòng tin đó".
Vậy, muốn sửa đổi một người mà không làm cho họ
phật ý, giận dữ:
"Bạn gây cho người ấy một thanh danh rồi họ
sẽ gắng sức để được xứng thanh danh đó".
Đó là quy tắc thứ 7.
Chương Tám
Hãy khuyến khích người
Một ông bạn của tôi, đã bốn chục cái xuân xanh,
gần đây mới đính hôn cùng một cô, và vị hôn thê của ông khuyên ông học khiêu vũ
- kể cũng hơi trễ!
Sau ông kể lể tâm sự với tôi:
"Trời biết cho rằng tôi nhảy dở hết chỗ
nói. Tôi khiêu vũ theo một lối cổ từ hai chục năm về trước. Cô giáo dạy tôi, nói
thẳng cho tôi biết rằng phải quên hết những điều cũ đi để bắt đầu học lại từ
đầu. Cô làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi xin thôi.
Lại học một cô khác. Cô này lấy lòng tôi, có lẽ
quá khen tôi một chút, nhưng tôi thích như vậy. Với một giọng tự nhiên, cô nói
rằng điệu bộ của tôi có lẽ hơi xưa, nhưng nguyên tắc thì đúng, và muốn học
những điệu mới không khó khăn chi hết.
Cô thứ nhất chê tôi mà làm tôi hết muốn học. Cô
thứ nhì, trái lại, làm bộ như không thấy những lỗi lầm của tôi mà không ngớt
khen những tiến bộ của tôi. Cô nói: "Trời phú cho ông cái giác quan về
tiết điệu; ông thiệt là người trời sinh ra để mà khiêu vũ".
Lương tri của tôi bảo tôi rằng trước cũng vậy mà
sau này cũng còn như vậy, tôi suốt đời sẽ chỉ là một "thằng" khiêu vũ
dở thôi. Nhưng trong thâm tâm tôi, tôi thích tin rằng không biết chừng lời cô
đó đúng cũng nên.
Thì cô ta ăn tiền của tôi, phải khen tôi là sự
dĩ nhiên... Nhưng nghĩ tới điều đó làm quái gì?
Dù sao đi nữa, từ bữa cô ta cho tôi tin rằng tôi
có "giác quan về tiết điệu" thì tôi khiêu vũ khá hơn trước nhiều. Lời
đó đã phấn phát tôi, làm cho tôi hy vọng và gắng sức tập tành cho khá thêm
lên".
Chê một đứa nhỏ, một đức lang quân hay một người
làm công rằng họ đần độn, không có một chút tài năng gì, rằng họ "đầy bị
thịt", "đoảng vị", chẳng được việc gì, không hiểu chút chi hết,
tức là diệt hết ý muốn tự cải của họ đi.
Nên thử phương pháp ngược lại. Khuyến khích họ
nhiều vào; nói rằng công việc dễ làm lắm. Tỏ ra rằng ta tin nơi tài năng họ,
rằng họ có tài mà họ không ngờ... và bạn sẽ thấy họ thức suốt đêm để tập tành
cho hoàn hảo.
Đó là phương pháp của nhà diễn thuyết Lowell
Thomas. Ông đó thực có khiếu, có thiên tài dẫn đạo người. Ông làm cho bạn tự
tin. Ông truyền cho bạn lòng tin chắc, sự bạo dạn, sức mạnh, làm cho bạn thay
đổi thành một người khác. Mới rồi, tôi đi nghỉ cuối tuần với ông bà Thomas.
Trong khi củi cháy lách tách trong lò sưởi, người ta mời tôi đánh bài bridge.
Đánh bài "Bridge"? Không! Không, không, không. Tôi không biết đánh!
Không biết chút chi hết. Không thể được!
Ông Thomas bảo tôi: "Này anh Dale. Đánh
bridge dễ lắm mà. Chỉ cần có trí nhớ và biết suy xét. Anh đã nghiên cứu về trí
nhớ. Đó là sở trường của anh. Anh thử chơi đi, anh sẽ mau biết lắm".
Và, tức thì, không kịp nghĩ ngợi gì hết, tôi đã
thấy tôi ngồi vào hội, lần đó là lần thứ nhất trong đời tôi. Ông Thomas chỉ bảo
tôi rằng tôi có thiên tư về bài, và đánh bài dễ lắm, là tôi liều chơi liền.
Ely Culbertson là vua bài bridge. Những sách ông
viết về nó được hoan nghênh nhiệt liệt và dịch ra mười hai thứ tiếng. Mà ông
thú với tôi rằng sở dĩ thành một nhà chuyên môn như vậy chỉ nhờ một người đàn
bà khuyến khích.
Ông đã thử đủ nghề nhưng chưa bao giờ có ý dạy
đánh bài hết. Không những ông đánh bài thấp mà còn ương ngạnh tới nỗi không ai
muốn đánh bài với ông.
Hồi đó ông gặp cô Josephine Dillon, trẻ đẹp, làm
giáo sư dạy đánh bài "bridge". Ông thương cô và cưới cô. Cô nhận thấy
ông phân tích giá trị từng quân bài kỹ lắm, và biểu ông rằng ông có thiên tư kỳ
dị và bất ngờ về lối chơi đó. Đó chỉ là lời khen, không hơn không kém, nhưng
lời khen đó đã xoay hẳn cục diện đời ông.
Vậy muốn thay đổi thái độ của một người mà không
làm cho người ấy phật ý, giận dữ, bạn phải:
"Khuyến khích họ, tức thì lỗi lầm gì cũng
dễ sửa, việc khó khăn gì cũng dễ làm".
Đó là quy tắc thứ tám.
Chương Chín
Làm sao cho người ta vui sướng mà làm
công việc bạn nhờ cậy
Hôm đó vào năm 1915. Đã trên một năm, các nước ở
châu Âu chém giết lẫn nhau ghê gớm chưa từng thấy trong lịch sử. Châu Mỹ ở
trong tình trạng kinh hoảng. Có thể lập lại hòa bình được không? Không ai biết
được.
Nhưng Tổng thống Wilson nhất quyết gắng sức làm
cho kỳ được. Ông sai một mật sứ đi hội nghị với các nhà cầm đầu châu Âu.
William Jennings Bryan, Tổng trưởng nội vụ, sứ
đồ của hòa bình, nóng lòng đi lắm. Ông thấy đó là một dịp phụng sự một lý tưởng
cao cả và trở nên bất hủ. Nhưng Tổng thống Wilson lựa một người khác, đại tá
House, bạn thiết của ông. Và ông cậy đại tá làm công việc khó khăn là báo tin
đó cho Bryan hay.
Đại tá chép cuộc gặp gỡ đó trong nhật ký của
ông:
"Bryan thất ý lắm, khi ông hay tin rằng tôi
được Tổng thống giao phó cho sứ mệnh mà ông ao ước".
Tôi trả lời ông ta: Tổng thống nghĩ nên giữ kín
cuộc vận động đó. Mà nếu Bryan đi, tên tuổi của ông mà ai cũng biết, đủ làm cho
người ta chú ý tới và tự hỏi ông tới với mục đích chi đây...".
Nghĩa là đại tá muốn cho ông Bryan hiểu rằng ông
là người quan trọng quá, không nên nhận sứ mệnh đó - và ông Bryan hài lòng.
Khôn khéo, lại có nhiều kinh nghiệm, đại tá
House đem thực hành một trong những quy tắc lớn nó điều khiển sự giao thiệp
giữa loài người. Quy tắc đó là: Làm sao cho người khác thấy vui sướng mà làm
công việc bạn cậy họ.
Khi Tổng thống Wilson mời ông Mc. Adoo giúp việc
trong văn phòng ông, ông cũng áp dụng quy tắc đó, mặc dù điều ông tin cậy không
phải là một sự hy sinh, mà chính là một danh dự vô cùng cho ông Mc. Adoo, ông
này thấy vui thích bội phần và kể lại như vầy:
"Ông (Wilson) bảo tôi rằng ông sẽ sung
sướng lắm, nếu tôi chịu nhận chức Tổng trưởng Quốc khố. Ngôn ngữ ông thiệt lịch
sự: ông cho tôi cảm tưởng rằng nếu tôi chịu nhận vinh dự lớn đó, thì tức là ban
cho ông một đặc ân".
Tôi biết một diễn giả được mọi nơi mời đến diễn
thuyết. Ông ta không thể làm vừa lòng mọi người được cho nên bắt buộc phải từ
chối, nhưng ông từ chối một cách khéo léo đến nỗi người ta vui vẻ ra về. Ông
làm cách nào? Tất nhiên ông không nói cụt ngủn rằng ông bận việc lắm... Không.
Sau khi cám ơn và tỏ lòng tiếc không nhận lời được, ông vội vàng giới thiẹu một
người có thể thay ông được. Nghĩa là không để cho người kia có đủ thì giờ thất
vọng trước sự từ chối của ông và ông làm cho tư tưởng người đó hướng ngay về
diễn giả mà ông giới thiệu.
Ông nói:
"Tại sao ông không cậy ông bạn tôi,
Cleveland Rodgers, nhà xuất bản tờ Brooklyn Eagle? Hoặc ông Guy Hickock? Ông ấy
đã viết báo 15 năm ở Paris và biết rất nhiều chuyện thú vị... Hay là ông lại
hỏi ông Livingston Longfellow xem sao? Chắc ông biết ông ấy có một cuốn phim
tuyệt đẹp về những cuộc săn bắn lớn ở ấn Độ...".
Ông Want, quản lý một nhà in lớn ở Nữu Ước, có
một người thợ máy mà ông nhất định muốn sửa đổi tính tình. Anh thợ đó phải
trông nom cho một loạt máy vừa sắp vừa đúc chữ và nhiều máy khác nữa, sao cho
những máy đó chạy đêm và ngày mà không hư hỏng, khỏi ngưng lại. Anh ta phàn nàn
công việc nặng nhọc quá, làm việc nhiều giờ quá, và xin thêm người phụ.
Ông Want không cho thêm người phụ, cũng không
rút công việc, rút giờ làm việc, mà anh ta vẫn vui lòng. Ông làm cách nào? Ông
cho riêng anh ta một phòng giấy với một tấm bảng treo ở cửa đề tên và chức mới
của anh. "Giám đốc phòng giữ gìn máy móc".
Thành ra anh thợ máy không phải là một nhân viên
hạ cấp, mà ai cũng có quyền sai bảo nữa, anh nay đã nghiễm nhiên là một viên
chỉ huy rồi. Người ta đã công nhận giá trị tài năng của anh. Tự thấy cái quan
trọng và uy thế mới của mình, anh hài lòng và tiếp tục làm không phàn nàn chi
hết.
Bạn cho vậy là con nít ư? Có lẽ là con nít
thiệt. Mà người ta cũng đã cho Nã Phá Luân đã dùng phương pháp con nít đó khi
ông lập ra huy chương Bắc đẩu bội tinh, phân phát một ngàn năm trăm chiếc cho
lính ông và thăng chức "Pháp quốc Thống chế" cho 18 đại tướng, gọi
đội quân của ông là "Đại binh".
Ai chế giễu ông rằng dùng đồ lòe loẹt vô dụng đó
để thưởng những người đã nhiều lần vào sanh ra tử với ông, ông đáp: "Loài
người vẫn bị cai trị bằng những đồ lòe loẹt đó".
Biết cách phân phát chức tước và uy quyền như Nã
Phá Luân, thì chúng ta cũng sẽ được những kết quả như vị anh hùng đó.
Trước nhà bà Gent, một bà bạn của tôi, mà tôi đã
có dịp nói tới, có một bãi cỏ đẹp mà tụi con nít thường tới giày xéo phá phách
mỗi ngày. Mắng, dọa, dỗ dành đều vô hiệu. Tức thì bà thay đổi chiến thuật. Bà
kêu đứa nhỏ ngỗ nghịch nhất, tặng cho nó chức "thám tử" và giao cho
trách nhiệm đuổi tất cả những đứa vô chơi trên bãi cỏ, bất kỳ là đứa nào. Và
vấn đề đó giải quyết xong lập tức. Viên "thám tử" nhóm lửa ở sau nhà,
nung một thanh sắt cho tới trắng ra và dọa sẽ dí vào đứa nhỏ nào dám dẫm lên
vườn cỏ!
Bản tính loài người như vậy. Cho nên muốn sửa
đổi một người mà không làm cho họ phật ý, giận dữ:
"Bạn phải xử trí ra sao cho người đó thấy
sung sướng làm công việc mà bạn đề nghị".
Đó là quy tắc thứ 9.