20/6/12

Chiếc Lexus và cây Ô liu - PHẦN IV (KT): HOA KỲ VÀ TOÀN CẦU HÓA


Thomas Friedman


Chương 17
Sự phấn khích hợp lý


Khi Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang đưa ra đánh giá nổi tiếng vào đầu năm 1997, cảnh tỉnh những nhà đầu tư ở thị trường chứng khoán Hoa Kỳ trước "sự phấn khích vô lý," trong cung cách họ kích giá của các cổ phiếu lên vượt quá các tính toán giá và lãi, tôi đã viết một cột báo, trong hình thức một bức thư gửi ông Greenspan, coi ông ta là một bác sĩ tư vấn cho tờ báo. Cột báo của tôi bắt đầu như sau: "Thưa bác sĩ Greenspan, tôi có một chứng bệnh tồi tệ. Tôi cảm thấy hớn hở một cách vô lý về thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mà không cách gì kìm lại được. Tôi biết ông đã nói "phấn khích một cách vô lý" thì sẽ không tốt cho sức khỏe, và tôi đã thử chữa bằng rất nhiều phương pháp: Thôi miên, thuốc an thần, bán đổ bán tháo. Thậm chí đã đọc lại bài phát biểu của ông hồi năm 1987. Nhưng vẫn không qua khỏi chứng bệnh đó. Mỗi lần tôi sang châu Âu hay Nhật Bản, thì khi quay về tôi lại muốn đầu tư thêm nhiều vào thị trường Hoa Kỳ. Làm ơn hãy giúp tôi. Trân trọng. Ký tên Người đầu tư qua hệ thống điện tử."
Sau đó tôi nói tiếp rằng tôi không biết về cái mức độ hoạt động đúng đắn mà thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ phải tuân thủ, và tin rằng nếu Hoa Kỳ không tiếp tục thực hiện những biện pháp căn bản như tăng năng suất và giữ lãi suất cùng lạm phát ở mức thấp, thì giá cả trên thị trường chứng khoán sẽ đi xuống. Nhưng điều tôi muốn nói là nếu có những sự nhiệt tình thái quá thể hiện ở các thị trường của Hoa Kỳ, thì đó là vì không những ở đó có nhiều những "sự phấn khích vô lý", mà còn có cả những phấn khích có lý về nước Mỹ.
Do thường ra nước ngoài nhiều và ít khi ở gần phố Wall, tôi thường nhìn nước Mỹ từ bên ngoài - và tôi thường chứng kiến những thái độ niềm nở có lý mà thế giới dành cho nước Mỹ. Sự niềm nở đó được xây dựng trên logíc sau đây: Nếu coi toàn cầu hóa là một hệ thống quốc tế chủ đạo ngày nay, và nhìn vào những đóng góp từ các công ty và nhà nước cho hệ thống đó, thì bạn có thể kết luận rằng Hoa Kỳ có nhiều tài sản nhất và ít nợ nần nhất trong hệ thống, hơn bất cứ nước lớn nào khác. Đó là điều tôi gọi là sự phấn khích có lý. Cảm giác chung trong giới đầu tư toàn cầu cho thấy trong khi nhiều nơi ở châu Âu và châu Á vẫn đang phải cố gắng điều chỉnh xã hội của họ để thích nghi với toàn cầu hóa, trong đó có những nơi chỉ mới bắt đầu, thì Chú Sam đã chạy được một quãng dài và đang tiếp tục tiến rất nhanh.
Một cách dễ hiểu để phân tích sự phấn khởi có lý nói trên là hãy đặt vấn đề sau đây: Nếu cách đây một trăm năm, đến gặp một nhà địa lý kiêm kiến trúc sư, bạn nói với ông ta rằng vào năm 2000 sẽ có một hệ thống thế giới gọi là "toàn cầu hóa," thì ông ta sẽ thiết kế một đất nước như thế nào để có thể cạnh tranh và thắng được trong thế giới đó? Câu trả lời sẽ là đất nước đó sẽ rất giống nước Mỹ ngày nay. Nghĩa là:
Trước hết, ông ta sẽ thiết kế một đất nước có vị trí địa lý có sức cạnh tranh lý tưởng. Ông sẽ thiết kế một cường quốc của cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, thoải mái trông ra cả hai hướng, ở trên bộ thì nối với Canada và Mỹ La tinh, khiến cho nó có thể tương tác được với ba thị trường chủ chốt của thế giới - Á, Âu và Mỹ. Thật tiện lợi.
Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có dân cư đa dạng, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa ngôn ngữ, những người có quan hệ tự nhiên với tất cả các lục địa trên trái đất, nhưng đồng thời được gắn bó bởi chỉ một ngôn ngữ - tiếng Anh - một thứ tiếng chủ chốt dùng trên Internet. Ông ta sẽ đặt vào đất nước này ít nhất là năm nền kinh tế địa phương nhưng chỉ một đồng tiền chung, đồng đô-la, cũng là đồng ngoại tệ mạnh, làm dự trữ ngoại tệ cho tất cả các nước trên thế giới. Một đồng tiền chung cùng với năm nền kinh tế địa phương là thứ tài sản quý báu, vì khi một vùng kinh tế gặp khó khăn thì lại có một vùng kinh tế khác ăn ra làm nên để bù đắp, lấp đi những khoản thiếu hụt trong chu kỳ thương mại. Đó là một điều tiện lợi.
Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có những thị trường tư bản hữu hiệu, đa dạng và đầy sáng tạo, nơi gọi vốn mạo hiểm được coi là một nghệ thuật đáng trân trọng, khiến cho bất cứ ai có sáng kiến (dù có vẻ hợp lý hay vô lý) trong nhà bếp hay ngoài gara cũng có thể tìm được người tài trợ cấp vốn. Thật là hay. Vì khi nói đến tốc độ, thì không đâu nhanh bằng các thị trường vốn của Hoa Kỳ trong việc ném tiền đầu tư cho những sáng kiến mới. Nếu bạn so sánh danh sách của 25 công ty lớn nhất châu Âu cách đây 25 năm với danh sách 25 công ty lớn nhất châu Âu ngày nay - thì thấy tên các công ty trong hai danh sách đó gần như không đổi. Nhưng nếu là như vậy đối với trường hợp Hoa Kỳ, thì thấy phần lớn trong danh sách ngày nay là các công ty mới mẻ, khác xưa. Tất nhiên các thị trường tài chính của Mỹ, với việc thường xuyên đòi hỏi thu lợi nhuận ngắn hạn và thu nhập theo quý, thường không muốn các tổng công ty "tốn tiền" vào những hoạt động dài hạn. Điều đó đúng. Nhưng cũng chính những thị trường đó có thể trong vòng một đêm ném tiền cho một cá nhân, tài trợ cho một người có chút ít ý tưởng chưa chín muồi, để sau đó người này cho ra đời một mẫu máy vi tính đời mới. Massachusetts có khu vực cấp vốn cho sáng tạo quy mô bằng cả châu Âu cộng lại. Các nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo là những nhân vật quan trọng nhất thời nay; không chỉ vì họ là những nguồn tiền bạc. Những người giỏi nhất trong số họ có thể cung cấp các kỹ năng để lập công ty. Họ có rất nhiều kinh nghiệm và thấu hiểu những giai đoạn mà các công ty trải qua để phát triển, và họ sẽ hỗ trợ trong nhưng khâu đó - những điều quý báu không kém gì tiền bạc.
Kiến trúc sư của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước có môi trường pháp lý và luật lệ trung thực nhất thế giới. Ở đất nước này các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu được hoạt động trên một sân chơi công bằng, với tương đối hiếm các hiện tượng tham nhũng, với rất nhiều luật lệ bảo vệ cho bất cứ người nước ngoài nào vào đầu tư, kiếm lời và chuyển tiền ra ngoài bất cứ lúc nào. Đất nước sẽ có nền pháp chế giúp cho thị trường và các hợp đồng được thực hiện và đảm bảo việc bảo vệ tác quyền cho các sáng chế. Các thị trường vốn của Hoa Kỳ ngày nay không những hữu hiệu hơn so với thị trường ở các nước khác, mà còn được coi là minh bạch nhất. Các thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ không chấp nhận chuyện giữ bí mật, những công ty được niêm yết sẽ phải thường xuyên báo cáo về thu chi, kiểm toán, lỗ lãi để có thể dễ dàng phát hiện và trừng phạt về những sai lầm trong quản lý và sử dụng tài lực.
Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có hệ thống luật và tòa án để xử phá sản, khuyến khích những ai làm ăn thất bát có thể tuyên bố phá sản và rồi lại bắt đầu từ đầu, làm đi làm lại, để rồi có ngày sẽ thành công, như Amazon.com chẳng hạn - họ sẽ không phải đeo đẳng tiếng xấu trong cuộc đời của họ. Trong Thung lũng Silicon, John Doerr, một nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo, cho biết, "thất bại cũng không sao, và trong thực tế, điều quan trọng là bạn hãy ngã khi đang dùng tiền của người khác." Trong Thung lũng Silicon, phá sản được coi là điều cần thiết và là một phần của chi phí cho sáng tạo, đó là thái độ khiến cho người ta chấp nhận mạo hiểm. Nếu không biết ngã thì sẽ không đứng vững được. Harry Sall, người sáng lập một trong những hệ thống sữa chữa phần mềm thành công nhất trong khu này, sau nhiều lần công ty của ông chết đi sống lại, đã nói với tôi trong một lần cùng uống cà phê ở Palo Alto: "Quan điểm ở đây cho rằng cứ mỗi lần ngã là một lần nên khôn. Chính vì thế những người ở đây khi thử nghiệm một điều gì đó mà thất bại, thì lần sau, khi họ đứng dậy thì họ dễ dàng tìm thấy tài trợ hơn lần trước. Người ta sẽ nói, "anh ta lần trước đã bị phá sản? Tôi cuộc rằng anh ta đã học được điều gì từ đó, và thế là tôi lại bỏ tiền đầu tư vào cho anh ta".
Ở châu Âu phá sản sẽ là tiếng xấu gắn cho bạn suốt đời. Làm gì thì làm, đừng có tuyên bố phá sản khi ở nước Đức: vì bạn, con cái của bạn, rồi cháu chắt của bạn sẽ phải mang tiếng trong xã hội người Đức. Nếu phải tuyên bố phá sản ở Đức thì tốt nhất là rời bỏ nước này mà đi. (Và bạn sẽ được chào đón ở Palo Alto.)
Nhân chủ đề đó, nhà thiết kế của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước sẵn sàng chào đón dân nhập cư mới, về nguyên tắc sẽ cho phép bất cứ ai lên được bờ biển nước Mỹ, thì theo hiến pháp, sẽ được đối xử như dân chúng trong nước. Điều đó khiến đất nước này có thể tận dụng được những bộ óc giỏi nhất thế giới, tập trung chúng vào những công ty, trung tâm y tế và các trường đại học. Khoảng một phần ba các kỹ sư và nhà khoa học ở Thung lũng Silicon là những di dân, sinh ra ở nước khác, những người đã đến đó, nghiên cứu rồi lại chuyển giao sản phẩm và giá trị khoa học ra thế giới. AnnaLee Saxenian, chuyên gia về đô thị của Đại học California ở Berkeley cho biết nghiên cứu của Viện Chính sách California năm 1996 tìm ra rằng: Di dân Trung Quốc và Ấn Độ trực tiếp điều hành 1.786 công ty kỹ thuật cao của Silicon, doanh thu tổng cộng 12,6 tỷ đô-la và 46.000 nhân viên. Donald Rice, cựu lãnh đạo công ty Teledyne, đã thành lập một hãng công nghệ sinh học, hãng UroGenesys vào năm 1997 để nghiên cứu các phương pháp chữa các bệnh tuyến tiền liệt. Ông ta đặt công ty mới của mình ở Santa Monika, California. Một hôm ông miêu tả cho tôi về đội ngũ nhân viên của ông: "Chúng tôi có 19 nhân viên. Ba trong số đó sinh ra ở Việt Nam, hai nhà khoa học và một nhân viên hành chính; hai người sinh ở Canada, cả hai là nhà khoa học; một người sinh ra ở Nhật, nghiên cứu; một khoa học gia sinh ở Peru; một khoa học gia sinh ở Malaysia; một khoa học gia sinh ở Trung Quốc; một khoa học gia sinh ở Iran; một sinh ở Ấn Độ. CÒn lại là người sinh ở Mỹ. Tôi không thể tìm một đất nước nào khác trên thế giới mà có thể có một đội ngũ như vậy." Đúng thế. Có ai đó đã cố gắng để vào quốc tịch Nhật Bản bao giờ chưa? Hay là quốc tịch Thụy Sĩ? Để trở thành người Nhật bạn hầu như phải là người sinh ra ở Nhật. Để trở thành người Thụy Sĩ bạn hầu như phải là người sinh ra ở Thụy Sĩ. Để trở thành người Mỹ bạn chỉ cần muốn thành người Mỹ. Nhưng khi quốc tịch chỉ là vấn đề pháp luật, không liên quan gì đến sắc tộc, chủng tộc hay quốc gia, thì sẽ dễ dàng hơn cho một đất nước thu phục tài năng. Một người bạn tôi trong Thung lũng Silicon hay nói: "Tôi không sợ người Nhật hay người châu Á nào khác. Người gốc Á của chúng tôi lúc nào cũng sẽ thành công hơn người Á ở châu Á."
Càng thu hút nhiều công nhân lành nghề sang nước bạn thì đất nước càng có cơ thành công. Nói về nước Mỹ, tôi mong muốn không chỉ thu hút những người giàu có và có trí tuệ. Tôi sẽ không bao giờ từ chối một thuyền nhân Haiti. Những người thông minh đến mức có thể dùng các thùng sữa để làm thành chiếc bè và vượt biển sang đến bờ của nước Mỹ sẽ đều là những người tôi muốn tiếp nhận. T.J. Rodgers, Tổng giám đốc điều hành công ty Cypress Semiconductor, khi phàn nàn về những hạn chế do Quốc hội Mỹ áp đặt đối với chế độ visa cho các kỹ sư nước ngoài vào làm việc, đã nhận xét: "Người thắng và kẻ thua trong thời đại thông tin chỉ khác nhau về đầu óc. Nhưng có những vị thượng nghị sĩ của chúng ta không nhìn ra điều đó, họ muốn đẩy những tri thức của thế giới ra xa để rồi chính những trí thức đó, từ đất nước của họ, sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh với chúng ta. Bốn trong số 10 chủ tịch của hãng chúng tôi vối là di dân. Khoảng 35 phần trăm các kỹ sư của tôi là người di dân. Phó chủ tịch của tôi phụ trách nghiên cứu - người đã thiết kế chíp vi tính tiên tiến nhất của hãng - là người đến từ Cuba." Liệu bạn có muốn công việc trong đất nước của bạn chỉ do các chuyên viên nội địa đảm trách, hay bạn muốn vươn tới số 10 phần trăm các chuyên viên giỏi nhất thế giới? Hoa Kỳ ngày nay là đất nước duy nhất làm được điều đó. Nhật Bản, Thụy Sĩ, Đức - họ không có truyền thống di dân thực sự, và đó là điểm yếu của họ.
Nhà kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước với hệ thống chính trị dân chủ và liên bang, đặc điểm uyển chuyển, cho phép tản quyền chính trị và do đó khuyến khích các vùng và địa phương điều chỉnh chính sách của họ với các khuynh hướng trên thế giới, mà không phải đợi sự phê duyệt của chính quyền liên bang. Một hệ thống liên bang - với 50 bang có khả năng cạnh tranh và thử nghiệm để tìm giải pháp cho các vấn đề giáo dục, an sinh xã hội và y tế - là một thế mạnh trong toàn cầu hóa. Nó được dùng để thử nghiệm, tìm tòi nhằm ứng phó với tính phức tạp của các vấn đề nói trên.
Nhà kiến trúc đó chắc chắn sẽ tạo ra một đất nước có thị trường lao động linh hoạt nhất thế giới - thị trường cho phép nhân công di chuyển từ vùng kinh tế này sang vùng khác, cho phép các công ty tương đối dễ dàng tuyển dụng hay sa thải nhân công. Trong một thời kỳ phát triển nhanh chóng thì khả năng di chuyển dễ dàng thật là quan trọng. Ở Hoa Kỳ, hôm nay bạn mất việc ở Maine thì ngày mai bạn có thể tìm được việc mới ở San Diego, nếu bạn sẵn sàng đi lại. Nếu ở Tokyo mà bạn mất việc hôm nay thì theo tôi bạn không nên tìm việc mới ở Seoul ngày hôm sau. Nếu ngày hôm nay bạn bị mất việc ở Munich, ngay cả khi châu Âu đã trở thành một liện hiệp với đồng tiền và thị trường chung, thì bạn vẫn rất khó tìm việc ở Minlan vào ngày hôm sau. Đó là những khó khăn nhãn tiền đối với thế giới ngoài nước Mỹ.
Hơn nữa, càng dễ dàng sa thải công nhân thì các hãng xưởng càng dễ dàng tìm người mới. Điều đó có vẻ nghịch lý lại được dùng để giải thích cho những tiến bộ - trong những năm 90, Hoa Kỳ nhờ có chính sách nhân lực uyển chuyển đã vượt châu Âu và Nhật Bản rất nhanh chóng trong việc hấp thụ cách mạng thông tin vào nền kinh tế. Hãy tự hỏi một câu đơn giản: Vì sao trong khi công nghệ, với Internet và máy tính cá nhân sẵn có cho mọi quốc gia phát triển, vậy mà có quốc gia tận dụng chúng nhanh nhẹn vào thương mại, trong khi có những quốc gia khác không làm được điều đó? Câu trả lời ngắn gọn là phần lớn các công nghệ mới đó đã làm tăng năng suất của một nhà máy, và mức sống trong một xã hội, bởi vì chúng giúp loại bỏ bớt nhân lực. Các robot làm việc hiệu quả hơn so với công nhân làm bằng tay trong dây chuyền sản xuất. Thiết bị trả lời tự động trong điện thoại của bạn làm việc hiệu quả hơn nhân viên trực tổng đài. Nói cách khác, chìa khóa để vào cách mạng thông tin không phải là do nó làm tăng chi phí cho đầu ra, mà là nó làm giảm chi phí nhân công cho đầu vào - tiết kiệm và tăng hiệu quả sản xuất. Công việc làm bằng tay giảm đi. Có nghĩa là nếu có một thứ môi trường văn hóa và xã hội cho phép bạn giảm bớt nhân lực bằng cách áp dụng công nghệ mới thì bạn sẽ kiếm lời do tăng năng suất, tăng lợi nhuận, tăng tài sản và sau cùng sẽ tăng công ăn việc làm.
Tất cả các yếu tố đó tập hợp trở thành một đất nước có khả năng cạnh tranh. Hoa Kỳ ngày nay đã có được một nền văn hóa và xã hội trong đó cho phép phá cũ, sáng tạo và xây mới. Alan Greenspan một lần đã chỉ ra rằng vào giữa năm 1999, mỗi tuần có khoảng 300.000 việc làm ở Mỹ bị công nghệ mới xóa sổ. Nhưng chính công nghệ mới đã tạo ra 300.001 việc làm mới trong một tuần sau đó, cũng ở Mỹ. Chính vì thế nạn thất nghiệp ở Mỹ vẫn được giữ ở mức thấp. Các công ty Mỹ dễ dàng sa thải nhân viên, dùng máy móc thay thế họ, không ngần ngại mua kỹ thuật mới. Nhưng khi làm điều đó, họ có thêm khả năng dễ dàng tuyển dụng nhân viên mới.
Ngược lại, ở châu Âu và Nhật Bản, rất khó có thể sa thải công nhân. Hãy tưởng tượng khi linh kiện tự động trả lời điện thoại được sử dụng giúp bạn có thể dẹp đi 10 nhân viên tổng đài. Nhưng một công ty ở Tây Âu sẽ mua linh kiện đó nhưng vẫn giữ 10 nhân viên tổng đài đó lại, hoặc trả rất nhiều tiền đền bù cho họ thôi việc. Kết quả sẽ là hoặc công ty đó rất ngần ngại trong việc tuyển người mới, hoặc ngần ngại trong việc mua và áp dụng kỹ thuật mới vì nó sẽ không đủ tiền để mua kỹ thuật đồng thời trả lương cho những nhân viên mà kỹ thuật đó thay thế nhưng vẫn nằm lại công ty, hoặc có thể họ ra đi nhưng phải được đền bù nhiều. Như vậy đầu tư mới sẽ không mang lại lợi nhuận đáng kể. Nhân nói về đều này ta có thể nhân xét rằng bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ trước khi bước sang thiên niên kỷ mới là khi Ronald Reagan quyết định sa thải toàn bộ số nhân viên hoa tiêu hàng không đã đình công vào năm 1981. Không một sự kiện nào lớn hơn thế trong việc đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa chủ và nhân viên, mở đường cho các công ty Mỹ mặc sức sa thải nhân viên, áp dụng kỹ thuật, rồi lại mặc sức tuyển lao động mới. Chẳng có thế mà sau đó, hàng triệu việc làm ở Mỹ đã bị xóa sổ đồng thời hàng triệu việc làm mới được hình thành cũng ở Mỹ trong những năm 90. Trong khi đó các thị trường nhân lực ở châu Âu tiếp tục trì trệ, và mức thất nghiệp đứng ở 12 phần trăm.
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó ngườ ta căm ghét những tập đoàn được chính phủ bảo hộ, buộc mỗi công ty và mỗi ngân hàng phải vật lộn để tự tìm chỗ đứng, nhưng sự độc quyền thì sẽ không được dung tha. Đó là điều quan trọng, bởi vì khi một công ty Mỹ, như Microsoft chẳng hạn, trở thành đầu tàu được ngưỡng mộ trên thế giới, thì nó vẫn phải ra trước cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư Pháp Mỹ để chịu chất vấn. Đó là một trong những thế mạnh tiềm ẩn lớn nhất của Mỹ. Những người cho rằng để bảo tồn sức mạnh, nước Mỹ sẽ phải dung túng những công ty như Microsoft chẳng hạn - cho nó làm gì tùy ý - đã hoàn toàn sai lầm. Thực tế cho thấy một nhóm người trong Bộ Tư Pháp, lương 75.000 đô-la Mỹ mỗi năm, có thể đứng ra thách thức Micosoft, một công ty lớn nhất nước Mỹ, và thắng cuộc - đó chính là nguồn sức mạnh của Mỹ. Bao giờ cũng có thể có một công ty khác xuất hiện, cạnh tranh với Microsoft, một khi cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư Pháp vẫn còn đó và có khả năng dẹp bỏ các tập đoàn độc quyền, và một khi vẫn có những chánh án như Thomas Penfield Jackson, dũng cảm phân xử và kết án các tập đoàn độc quyền. Điều trớ trêu là tháng 11 năm 1999, khi Jack phán quyết rằng Microsoft có hành vi độc quyền và gây hại đối với người tiêu dùng ở Mỹ, trùng vào tuần lễ kỷ niệm 10 năm Bức tường Berlin sụp đổ. Những người đạp đổ bức tường đó đã nóng lòng mong đợi những gì bên kia bức tường? Chắc chắn là họ mong những thứ mà Bill Gates bán - Windows, Disney World, McDonald's và một cuộc sống tốt đẹp. Nếu có một điều những xã hội hậu công sản nhận ra trong vòng 10 năm qua, thì đó chính là việc pháp chế đóng vai trò nền móng của sự thịnh vượng của nước Mỹ. Như nước Nga đã nhanh chóng nhận thấy nếu không có nhà nước pháp quyền thì sẽ không có thịnh vượng. Chính hệ thống quản lý bằng luật pháp của Hoa Kỳ, trong đó không một cá nhân hay công ty nào đứng trên luật pháp, là cốt lõi của phong cách Mỹ. Cũng như những người khác, tôi rất buồn khi nghe tin có người Trung Quốc bị tố cáo đã đánh cắp các bí mật hạt nhân của Mỹ hồi năm 1999. Không thể dung tha được điều đó. Nhưng tôi cũng cảm thấy nếu quả thực họ đã làm điều đó thì cũng vô ích. Vì bí mật lớn nhất của chúng tôi - nguồn sức mạnh của người Mỹ - là điều mà không ai có thể đánh cắp. Đó là lối sống Mỹ. Nhưng nếu họ bắt đầu bắt chước lối sống đó, thì tôi sẽ bắt đầu lo lắng. Nếu họ chỉ đánh cắp các bí mật quân sự thì họ phải hiểu rằng, ngay sau khi bị mất cắp, thì hệ thống của chúng ta sẽ cho ra đời một phát kiến tốt hơn.
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có lòng bao dung với những người có lối sống khác thường, ví dụ những anh chàng để tóc kiểu đuôi ngựa, hay những cô nàng gắn vòng lên cánh mũi, chính họ cũng có thể là những người giỏi toán và giỏi thiết kế phần mềm vi tính. Hoa Kỳ là đất nước mà phút trước có người đứng lên bỏ cuộc: "Điều đó không thể làm được, "thì sẽ có ngay một người khác bước vào tuyên bố: "Tôi vừa thực hiện thành công điều đó." Avram Miller, Phó chủ tịch của hãng Intel, nói: "Người Nhật không hiểu được điều đó, vì họ chú trọng sự đồng bộ. Nếu phải sản xuất hàng tỷ mặt hàng giống hệt nhau, thì người Nhật là chuyên gia hàng đầu trên thế giới, và chúng tôi vì thế cứ nghĩ họ là thần đồng. Nhưng ngày nay, thế giới không muốn có nhiều mặt hàng giống hệt nhau, đồng bộ. Và trong thế giới ngày nay, nơi có người này thích thứ này, người kia thèm thứ khác - và công nghệ cho phép có thể sửa đổi điều chỉnh [cho thị hiếu riêng của từng khách hàng] - thì Hoa Kỳ quả là có lợi thế."
Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó các tập đoàn công ty, không như loại ở châu Âu và Nhật Bản giữa những năm 90, sẵn sàng giảm biên chế, rút gọn sản xuất, tư hữu hóa, mở rộng quan hệ đối tác, thay đổi cấu trúc quản lý... để tận dụng các trào lưu dân chủ tài chính, thông tin và công nghệ, và tránh được chứng suy giảm hệ miễn nhiễm đối với microchip. Nước Mỹ xưa kia đã thắng trong cuộc chạy đua trong không gian, ngày nay nước Mỹ đang thắng thế trong cuộc cạnh tranh điện toán. Tính bình quân đầu ngườ, các công ty Hoa Kỳ tiêu tiền vào công nghệ thông tin cao hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước làm ăn hăng say và một hệ thống thuế cho phép các nhà đầu tư và nhà cải tiến thành công có thể giữ lại những phần doanh thu của họ do được hưởng ưu đãi thuế, và như thế khuyến khích người ta ngày càng làm giàu thêm. Trong một đất nước lý tưởng, Horatio Alger sẽ không phải là một nhân vật tưởng tượng, mà có thể là người hàng xóm của chúng ta - một người bình thường, kỹ sư của Intel hay America Online khi mới khởi nghiệp, và được trả quyền tùy chọn cổ phiếu nay có giá trị khoảng 10 triệu đô-la.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước vẫn bảo tồn được những khu vực môi trường hấp dẫn, mở rộng, những thị trấn nhỏ và xinh để hấp dẫn các nhân lực tri thức. Vì ngày nay, nhờ có Internet, máy fax và dịch vụ chuyển phát nhanh, các hãng công nghệ cao và nhân lực trí thức của họ có thể chạy trốn khỏi những trung tâm thành phố đến đó ở bất cứ nơi nào họ muốn. Có được những thung lũng xanh tươi, gần biển và gần núi là điều lý tưởng. Chính vì thế những bang Idaho, Washington, Oregon, Minnesota và Bắc Carolina đang trở thành các trung tâm công nghệ cao ngày nay.
Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước coi trọng sự lưu thông thông tin đến mức nó bảo vệ quyền của cả những người hoạt động trong ngành tranh ảnh khiêu dâm và những kẻ phân biệt chủng tộc tồi tệ nhất. Đó cũng là một lợi thế. Vì trong một thế giới mà thông tin, tri thức, hàng hóa và dịch vụ trôi nổi qua lại nhanh chóng, kể cả trên mạng điện toán, những đất nước duy trì được sự cởi mở, ứng phó được với những hỗn loạn thỉnh thoảng vẫn xảy ra, những đất nước cạnh tranh trên cơ sở tri thức, không lẩn tránh - sẽ có lợi thế. Hoa Kỳ, với Bộ luật Tự do Thông tin, không cho phép chính phủ giữ bí mật được lâu, đã xây dựng được một nền móng văn hóa của sự cởi mở và minh bạch.
Và, quan trọng nhất, kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có những công ty đa quốc gia cùng những doanh nghiệp nhỏ tiếp tục nhìn xa trông rộng, nhìn toàn cầu và phát triển trong một môi trường tốc độ nhanh, nhẹ, kết nối, và giàu tri thức. Hoa Kỳ hiện đạt được mức hoàn hảo trong các ngành thiết kế phần mềm, vi tính, thiết kế, tiếp thị qua Internet, ngân hàng thương mại, email, bảo hiểm, cải biến gene, tri thức nhân tạo, ngân hàng đầu tư, y tế, đại học, chuyển phát nhanh, thức anh nhanh, quảng cáo, công nghệ sinh học, truyền thông, giải trí, khách sạn, xử lý rác, dịch vụ tài chính, viễn thông và công nghệ cho môi trường. Đó là thế giới hậu công nghệ, và Hoa Kỳ ngày nay đang đi đầu trong tất cả các ngành hậu công nghiệp.
Trong một thế giới được-thì-ăn-cả, Hoa Kỳ giờ đây đã hình thành ít nhất là một hệ thống được-thì-ăn-nhiều. Điều đó khiến Hoa Kỳ trở thành một siêu cường độc đáo. Sức mạnh của nó đã vượt khỏi mức thông thường. Nó có một đội quân thường trực lớn mạnh, có hàng không mẫu hạm, phản lực, máy bay vận tải vả vũ khí hạt nhân nhiều hơn trước, vì thế, hơn những nước khác, nó có thể chuyển quân đi xa và đi sâu vào thế giới. Việc Hoa Kỳ có máy bay ném bom tàng hình tầm xa B-2 và đang phát triển máy bay tầm gần F-22 có nghĩa là Hoa Kỳ có thể bay vào không phận của bất cứ quốc gia nào mà vẫn không bị phát hiện. Đồng thời, như nói chi tiết ở trên, Hoa Kỳ đã đi đầu trong tất cả những lĩnh vực thuộc thời toàn cầu hóa.
Nhưng xin nhớ cho: Mới một thập kỷ trước, người Á và người Âu dường như chiếm thượng phong, lúc đó ai ai cũng tin rằng Hoa Kỳ đang vào thời suy vong. Giờ đây, như John Neuffer, một nhà phân tích người Mỹ ở Viện nghiên cứu Tokyo nói với báo The New York Times, mọi sự đã xoay chiều: "Nhật Bản chưa thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, và Hoa Kỳ chưa thấy được bờ vực để rơi."
Điều đó không có nghĩa là sẽ không có cái bờ vực đó. Bao giờ cũng sẽ có loại bờ vực đó. Với bất cứ lợi thế mà Hoa Kỳ tự có, nước này vẫn phải tự sắp xếp những điều kiện và khả năng đúng đắn để có thể cạnh tranh. Hoa Kỳ vẫn phải đảm bảo rằng năng suất - khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá thấp và chi phí thấp, để tiền lương có thể tăng nhưng lạm phát vẫn bị kiểm soát - tiếp tục tăng. Mức tăng năng suất nhanh chóng ở Mỷ trong những năm 90 là một hiện tượng do tiến bọ kỹ thuật tác động, nhưng giờ đây chưa ai có thể đoán được mức tăng trưởng của Hoa Kỳ sẽ nhanh hay chậm trong thời gian tới. Nhật Bản, hiện nay vẫn còng nhiều thế yếu, nhưng họ vẫn là chủ của nhiều ngành sản xuất rất hiệu quả, với mức tích lũy cao và một đội ngũ nhân lực rất cần mẫn. Nhật Bản vẫn là đầu tàu sáng tạo trong những lĩnh vực như sản xuất dùng kỹ thuật cao, quản lý sản xuất và hàng điện tử. Có rất nhiều thương gia giỏi người Nhật đang bị cơ chế của Nhật khiến cho khó phát huy tài năng. Những sự bấp bênh trong kinh tế vĩ mô của người Nhật trong những năm 90 đã không kích thích tăng trưởng ở nước này - ngược lại chúng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Khi mà người Nhật và Tây Âu vẫn bám giữ những cơ chế cứng nhắc và bao cấp của họ - khiến cho tư bản không năng động, sáng kiến bị thui chột, thì họ chưa thể là đối thủ của người Mỹ. Nhưng trong toàn cầu hóa, khi nước Mỹ càng tiến xa hơn, thì tôi dự kiến, những nước đó sẽ bắt chước. Những sự điều chỉnh không tránh được này có thể gây đau thương, nhưng là điều bắt buộc đối với họ, nếu họ muốn duy trì mức sống như ngày nay.
Không phải vì trong những xã hội đó không có những bộ óc doanh nghiệp phù hợp với thời đại. Óc của Pháp cũng giống óc của Mỹ. Câu hỏi duy nhất là: bối cảnh kinh tế và xã hội ra sao để phát huy tài năng từ những bộ óc đó? Lý do vì sao nhiều kỹ sư phần mềm người Pháp theo nhau sang Thung Lũng Silicon là vì họ cảm thấy không thể làm ăn được trong hệ thống của nước Pháp ngày nay. Ngày 21/3/1998, tờ Washington Post đăng bài về nạn chảy máu chất xám từ Pháp snag Thung lũng Silicon, chỉ ra nguyên nhân nằm ở chỗ khả năng linh hoạt của hệ thống Hoa Kỳ: Reza Malekzadeh, một sinh viên 24 tuổi, tốt nghiệp từ một trong những đại học về thương mại tốt nhất của Pháp đã chuyển sang Hoa Kỳ, đổi việc làm ba lần trong ba năm và đã trở thành giám đốc điều hành cho hãng Softway International, Inc., tại San Francisco. "Ở Pháp tôi không thể làm được những điều như tôi đang làm ở đây," anh này nói. ""Ở Pháp, đến lúc bạn 50 tuổi mà người ta vẫn nói về bạn như là một [sản phẩm] của cái trường mà bạn đi học. Ở đây người ta chỉ quan tâm tới những gì bạn làm được, không quan tâm đến bạn bao nhiêu tuổi hay đi học trường nào 15 năm trước đây." Anh ta nay là một trong số 40.000 công dân Pháp đang sống ở vùng Bắc California. Nếu hoàn cảnh ở Pháp thay đổi thì chắc chắn những người Pháp đó sẽ lại theo nhau hồi hương, và những người Pháp khác sẽ ít sang Thung lũng Silicon hơn.
Đó là lợi thế mà Hoa Kỳ lúc này cần tận dụng, để đối phó với những khó khăn thực sự: nạn tội phạm trong các thành phố, sự thiếu thốn luật pháp trong việc kiểm soát vũ khí, hố ngăn cách giàu nghèo, trường công lập thiếu vốn, nền văn hóa thích khiếu kiện khiến nản lòng những doanh nghiệp lớn nhỏ, một hệ thống an sinh xã hội không đủ tài chính, một hệ thống thẻ tín dụng khiến cho dân chúng chi nhiều hơn thu rồi lâm vào nợ nần, và cả một hệ thống chính trị ngày càng bị tham nhũng và gây hại khiến các luật lệ về thương mại không còn chặt chẽ. Giải quyết những khó khăn đó sẽ làm cho việc hội nhập toàn cầu hóa sẽ thuận tiện hơn.
Tôi rất hy vọng là Hoa Kỳ sẽ tận dụng một cách thông minh những nguồn tài sản của mình, và tôi không nghĩ chỉ có mình tôi là người có tư tưởng lạc quan đến thế. Nhưng nếu Hoa Kỳ chủ quan thì phát triển sẽ trở thành trì trệ - mặt trời lên thì sẽ có lúc mặt trời lặn. Chính vì thế bao giờ tôi cũng tin vào câu nói của Bộ trưởng Tài chính Larry Summers, nói về Hoa Kỳ trong những năm 90: "Điều duy nhất khiến chúng ta lo sợ chính là khi nghĩ rằng chúng ta không sợ một điều gì cả."
Chương 18
Cách mạng Mỹ


Trước sau rồi ai cũng sẽ nói đến McDonald's:
O.J ăn ở đâu trước khi Nicole bị sát hại? McDonald's.
Bộ trưởng Thương mại Ron Brown mời lính Mỹ ăn gì trước khi ông ta từ trần? McDonald's
- Những trích dẫn trong văn phòng báo chí của tổng hành dinh McDonald's, Oak Brook, Illinois
Sao anh lại có thể hô "Mỹ chết đi!" trong khi anh đang mặc quần jeans?
- Một nữ sinh Iran, 21 tuổi, nói với phóng viên John Burns của tờ The New York Times, khi bình luận về việc sinh viên tụ tập chống đối ở Teheran, đánh dấu kỷ niệm lần thứ 20 ngày cách mạng Iran, 4/11/1999.
Ôi, sức mạnh mà thần linh ban cho chúng ta.
Để ta có thể tự xem chính ta bằng con mắt của người khác.
-Robert Burns
Tôi là người tin vào cái triết lý về năm cây xăng trên thế giới. Đúng thế: tôi tin rằng bạn có thể rút gọn các nền kinh tế thế giới ngày nay thành năm cây xăng khác nhau.
Trước hết là cây xăng Nhật Bản. Giá 5 đô-la một gallon. Bốn nhân viên mặc đồng phục và đeo găng tay trắng, hưởng biên chế suốt đời, phục vụ bạn. Họ bơm xăng vào xe của bạn. Họ thay dầu. Họ rửa kính xe, và họ vẫy theo bạn với những nụ cười, bạn ra đi thảnh thơi.
Cây xăng thứ hai nằm ở Mỹ. Giá xăng chỉ có 1 đô-la một gallon, nhưng bạn phải tự bơm lấy xăng, tự rửa kính xe, tự bơm lốp xe. Và khi bạn lái xe ra khỏi đó thì có những kẻ vô gia cư sẽ nhăm nhăm để vặt nắp đậy bánh xe của bạn.
Cây xăng thứ ba ở Tây Âu. Giá xăng cũng là 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên ra phục vụ. Anh ta miễn cưỡng bơm xăng cho bạn, phụng phịu thay dầu, và cằn nhằn suốt buổi rằng nghiệp đoàn của anh ta nói anh chỉ làm có thế - bơm xăng và thay dầu. Anh ta không rửa kính xe. Anh ta chỉ làm có 35 giờ một tuần, mỗi ngày nghỉ trưa một tiếng rưỡi, trong thời gian đó, cây xăng sẽ đóng cửa không phục vụ. Mỗi năm anh ta có sáu tuần nghỉ phép ở vùng phía Nam nước Pháp. Bên kia đường là nơi ở của hai người anh và một ông cậu của anh ta, cả ba người không có công ăn việc làm suốt 10 năm vì chế độ bảo hiểm ở đây trả cho họ hậu hĩnh hơn là công việc trước kia họ có. Họ dành thời gian chơi bóng với nhau.
Cây xăng thứ tư ở một nước đang phát triển. Có 15 nhân viên phục vụ, tất cả bọn họ có quan hệ họ hàng với nhau. Khi bạn lái xe vào thì chẳng ai để ý đến bạn vì họ đang mải nói chuyện với nhau. Xăng có giá chỉ 35 xu đô-la một gallon vì được nhà nước trợ giá. Nhưng trong sáu vòi bơm chỉ thấy có một vòi hoạt động. Những vòi khác bị hỏng. Mọi người đang chờ linh kiện thay thế gửi từ châu Âu sang. Cây xăng có nhà xưởng xộc xệch vì người chủ sống ở Zurich và khi về đã mang theo toàn bộ doanh thu. Nhưng người chủ không biết rằng một nửa số nhân viên của ông ta đêm đến thì vào ngủ trong xưởng và dùng vòi nước rửa xe để tắm táp. Phần lớn những khách hàng ở các nước đang phát triển đi bằng xe Mercedes hoặc xe máy - không có thứ xe nào khác. Nhưng cây xăng vẫn là nơi bao giờ cũng bận rộn, vì có nhiều người đi xe đạp vào dùng bơm miễn phí để bơm săm xe đạp của họ.
Sau cùng là cây xăng trong một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp. Giá xăng ở mức 50 xu đô-la một gallon - nhưng không có xăng trong téc - vì bốn nhân viên ở đó đã đem xăng bán ở chợ đen với giá 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên có mặt làm việc, vì ba người kia đang làm nghề phụ ở đâu đó cũng để phục vụ cho nền kinh tế chợ đen. Mỗi tuần họ có mặt một lần để nhận lương.
Và đại thể, thì trong thời toàn cầu hóa, ai ai cũng bị lôi cuốn tới cái trạm xăng của Hoa Kỳ. Nếu bạn không phải là người Mỹ, không biết tự bơm xăng lấy, thì tôi gợi ý bạn nên sớm đi học cách bơm xăng. Sau chiến tranh lạnh, toàn cầu hóa đang khoác chủ nghĩa tư bản phong cách Anglo-Mỹ và chiếc áo nịt nạm vàng lên toàn thế giới. Nó áp đặt lên toàn cầu thứ văn hóa và hình tượng văn hóa kiểu Mỹ. Nó áp đặt lên toàn cầu cả giá trị lẫn rác rưởi của Mỹ. Nó áp đặt cuộc Cách mạng Mỹ và cây xăng theo lối Mỹ.
Không phải ai cũng thích cây xăng của Mỹ và những điều nó tượng trưng, và bạn hiểu rõ lý do vì sao. Thể hiện trong những cây xăng Tây Âu, Nhật Bản v.v... là những giao kèo xã hội rất khác của Mỹ, và những cách nhìn nhận rất khác nhau về cung cách hoạt động của thị trường, cũng như phương pháp kiểm soát thị trường. Người châu Âu và Nhật Bản tin vào việc nhà nước có quyền kiểm soát dân chúng và thị trường, trong khi người Mỹ thì tin rằng hãy để dân chúng nắm quyền và trả tự do cho thị trường tới mức nhất định, để cả hai tự phân định ra kẻ thắng người thua.
Do những người Nhật, Tây Âu v.v.. không cảm thấy thoải mái trong các thị trường hoàn toàn tự do, với những lợi nhuận và trừng phạt sinh ra trong thị trường này, nên những cây xăng của họ được thiết kế để thể hiện những tấm đệm giữa những sự bất bình đẳng và để phân chia đồng đều các lợi nhuận. Các cây xăng cũng thể hiện truyền thống và giá trị riêng của những cộng đồng của họ. Người Tây Âu thể hiện bằng cách cắt giảm số nhân công, tuyển ít người đi nhưng trả lương cao hơn, thu nhiều thuế hơn, để có thể hỗ trợ cho giới thất nghiệp và làm từ thiện. Người Nhật Bản thể hiện điều đó bằng cách trả lương cho nhân viên ít đi nhưng đảm bảo biên chế cho họ suốt đời, rồi bảo hộ những công việc và phúc lợi thuộc về biên chế đó bằng cách hạn chế các đối thủ cạnh tranh người nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại cây xăng của người Mỹ là một nơi thuận tiện cho xe ra vào: khách hàng là thượng đế; cây xăng không phải là nơi bảo tồn các giá trị xã hội; trách nhiệm ở đó là cung cấp xăng với giá thấp nhất. Nếu có thể cho phép không có nhân viên phục vụ ở đó thì càng tốt. Thị trường linh hoạt có thể cho phép dân chúng tìm việc nơi khác. Bạn nói rằng như thế lạnh lùng quá? Cũng có thể. Nhưng dù muốn hay không muốn thì đó sẽ là mô hình mà toàn thế giới đang ngày càng bị buộc phải dùng.
Hoa Kỳ bị mọi người chỉ trích về điều đó vì, trong nhiều phương diện, toàn cầu hóa chính là Hoa Kỳ - hay ít nhất, đó là cách hiểu của dân chúng ở nhiều nơi trên thế giới. Ba cuộc dân chủ hóa phần lớn trưởng thành ở Mỹ. Chiếc áo nịt nạm vàng đã được dệt ở Mỹ và Anh. Bầy Thú Điện Tử do những con bò một phố Wall dẫn đầu. Lực lượng đang gây sức ép khiến các nước phải mở cửa cho phép thương mại và đầu tư tự do là Chú Sam, và lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ đang gìn giữ những thị trường tự do và những tuyến vận chuyển biển trong thời toàn cầu hóa hiện nay, tương tự như cách mà hải quân Anh đã từng làm trong thời toàn cầu hóa lần thứ nhất hồi thế kỷ 19. Joseph Nye, Jr., Hiệu trưởng trường Kennedy của Đại học Harvard đã tóm tắt thực tế đó rất hay, khi ông ta chỉ ra: "Trong những thể hiện gần đây, dấu vết của toàn cầu hóa có thể được tìm thấy ở chiến lược của Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và nguyện ước tạo dựng một nền kinh tế quốc tế để ngăn chặn khả năng một cơn khủng hoảng khác, đồng thời đối trọng với Liên Xô và kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. Khuôn mẫu căn bản và những sức ép chính trị đòi mở cửa kinh tế là một sản phẩm của sức mạnh và chính sách của Hoa Kỳ. Chúng đã được tiếp sức bởi sự phát triển của công nghệ giao thông và viễn thông. Điều đó khiến cho những quốc gia muốn cưỡng lại sức mạnh của thị trường sẽ ngày càng phải trả giá đắt hơn." Nói cách khác, ngay trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế toàn cầu để phục vụ mục đích kinh tế và chiến lược của mình. Kết quả là khi cuộc cách mạng thông tin và ba trào lưu dân chủ hóa hợp lực hồi cuối những năm 80, đã xuất hiện một cơ cấu quyền lực có khả năng tiếp thụ những khuynh hướng và công nghệ đó và tiếp tục hỗ trợ cho chúng lan tràn trên khắp thế giới. Như đã nói trước đây, sự kếp hợp giữa sức mạnh và những lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, kết hợp vớ Cách mạng Thông tin sản xuất tại Mỹ, đã tạo ra thời đại toàn cầu hóa thứ hai và gắn vào đó bộ mặt Hoa Kỳ.
Ngày nay toàn cầu hóa thường có cái tai của chuột Mickey, ăn McDonald's, uống Coke hay Pepsi và sử dụng máy tính IBM PC, dùng hệ điều hành Windows 98, với bộ vi xử lý Intel Pentium II trong một mạng nội bộ nối với Cisco System. Chính vì thế trong khi sự khác biệt giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa thường rất rõ với người Mỹ; không may thay lại chẳng rõ chút nào với những người khác trên thế giới. Trong phần lớn các xã hội, dân chúng không phân biệt giữa sức mạnh Mỹ, hàng Mỹ, những sự tấn công về văn hóa Mỹ, những sản phẩm văn hóa Mỹ với những yếu tố toàn cầu hóa đơn thuần. Chúng đang lẫn vào nhau. Tôi không phải là người muốn đánh đồng giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa - và chỉ muốn nói là những yếu tố đó bị nhiều người lẫn với nhau. Chẳng lạ gì báo Nhật Bản, tờ Nihon Keizai Shimbun đang một hàng tít vào ngày 4/6/1999, về một hội nghị về toàn cầu hóa ở Tokyo, đã nói về một hiện tượng "toàn cầu hóa do Hoa Kỳ khởi đầu." Khi dân chúng từ các nước đang phát triển nhìn vào hệ thống toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường thấy một tấm quảng cáo tuyển mộ mang nội dung: CHÚ SAM MUỐN BẠN (để đưa bạn đến với Bầy Thú Điện Tử).
Martin Indyk, Đại sứ Mỹ ở Israel đã kể cho tôi một câu chuyện minh họa rất hay cho điểm này. Là Đại sứ, ông ta được mời đến lễ khai trương một tiệm McDonald's ở Jerusalem. Tôi hỏi ông ta rằng ông đã nói gì trong dịp đó, dịp McDonald's được khai trương ở một thành phố đầy tín ngưỡng, và ông nói: "Thức ăn nhanh dành cho quốc gia phát triển nhanh." Nhưng điểm hay nhất mà ông ta kể lại sau đó là McDonald's đã tặng ông ta một chiếc mũ đánh bóng chày nhiều màu với logo của hãng, và mời ông tới ăn ở tiệm ăn được khai trương nọ. Truyền hình Israel đã tường thuật từng chi tiết của buổi lễ và phát trong bản tin tối của họ. Ở tiệm ăn hôm đó có đông đảo thanh niên Israel. Khi ông Đại sứ chuẩn bị ăn món ăn đầu tiên của tiệm thì một thanh niên Israel bước qua đám đông đến bên ông ta. Thanh niên này mang theo cùng một chiếc mũ của McDonald's, đưa cho ông và nói, "Ông là ông Đại sứ? Xin ông cho một chữ ký lưu niệm."
Hơi ngượng nghịu, Đại sứ Indyk trả lời, "Được thôi. Chưa bao giờ có ai xin tôi chữ ký lưu niệm cả."
Khi vị Đại sứ cầm lấy chiếc mũ và sắp ký lên đó, thanh niên này nói, "Cảm tưởng của ông khi làm Đại sứ cho McDonald's ra sao? Ông được đi lại trên thế giới và khánh thành tiệm McDonald's ở khắp mọi nơi?"
Ngạc nhiên quá đỗi, Đại sứ Indyk nhìn thanh nhiên này vào nói, "Không, không. Tôi là Đại sứ của nước Mỹ - không phải là Đại sứ của hãng McDonald's!"
Thanh niên Israel này bỗng tiu nghỉu. Đại sứ Indyk mô tả điều xảy ra sau đó: "Tôi nói với anh ta, "vậy có nghĩa là anh không muốn chữ ký lưu niệm của tôi nữa phải không?" Và thanh niên này nói: vâng, anh ta lấy lại chiếc mũ và bước đi chỗ khác."
Quả thực là cái quan hệ lúc ghét - lúc thương giữa nước Mỹ và thế giới giờ đây đã trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Đối với một số ngườ, Mỹ hóa toàn cầu hóa dường như là một con đường hấp dẫn, rộng rãi thoải mái đưa họ tới một mức sống khá hơn. Với những người khác, Mỹ hoá - toàn cầu hóa đã hun đúc trong lòng họ một sự ganh tị và căm ghét đối với nước Mỹ - ganh tị khi Mỹ có vẻ giỏi giang trong việc điều khiển con hổ toàn cầu hóa, căm ghét là vì dường như trong cái trục Mỹ hóa - toàn cầu hóa, Hoa Kỳ đang ra roi quất lên các dân tộc khác, bắt họ phải chạy cho nhanh, nối mạng cho nhanh, cắt giảm biên chế cho nhanh để theo kịp nước Mỹ hội nhập vào Thế giới Đi nhanh. Tôi vẫn tin rằng có nhiều người yêu nước Mỹ hơn là ngược lại, nhưng trong chương này, tôi chỉ muốn nói về những người căm ghét nước Mỹ. Tôi muốn nói về một sự chống đối khác, nhằm vào toàn cầu hóa - sự căm ghét đang tăng lên nhằm vào Hoa Kỳ, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, kỷ nguyên được đánh dấu bằng những biểu tượng, thị trường và sức mạnh của nước Mỹ.
Nhà sử học Ronald Stell có lần đã nói: "Chúng ta tin rằng những định chế của chúng ta phải giam hãm những định chế khác vào đống tro tàn của lịch sử. Chúng ta định hướng cho một hệ thống kinh tế đã thực sự chiến thắng các mô hình sản xuất và phân phối khác - để lại đằng sau những tài sản lớn cũng như những đống rác không nhỏ. Thông điệp văn hóa mà chúng ta truyền đạt thông qua Hollywood và McDonald's lan tràn trên thế giới đã trói buộc và tàn phá các xã hội khác. Không giống như những cuộc chinh phục trước đây, chúng ta không chỉ bắt người khác đầu hàng: Chúng ta khăng khăng buộc họ phải thay đổi, phải giống như chúng ta. Và dĩ nhiên làm như thế là để có lợi cho họ. Chúng ta là những nhà truyền giáo không ngừng nghỉ của thế giới. Thế giới phải trở nên dân chủ. Phải theo tư bản chủ nghĩa. Phải bị ràng buộc vào điện toán toàn cầu. Chính vì thế có nhiều người đã cảm thấy bị đe dọa bởi những gì chúng ta đại diện."
Một chân dung nước Mỹ tiêu biểu được khắc họa trong bức tranh Mái vòm nước Mỹ của tác giả Grant Wood, trong đó đặc tả cảnh một cặp vợ chồng cầm trong tay gậy xỉa rơm, mặt mũi nghiêm trang, đứng trong một trang trại nhìn ra ngoài. Nhưng ngày nay đối với nhiều người, hình ảnh nước Mỹ sẽ là một cặp thanh niên khoảng ngoài 20 tuổi, kỹ sư phần mềm máy tính, tóc dài, đi dép xăng đan, cổ đeo chuỗi hạt, mũi xăm trổ, và chân dính sơn. Đó là hình ảnh của họ khi xuất hiện ở nước ngoài. Họ đến đạp cửa trước của nhà bạn, vào nhà thay đổi vị trí đồ đạc, nhồi vào miệng của bạn đầy một thứ bánh McDonald's, nhồi sọ con cái của bạn những ý tưởng quái lạ, ném một thiết bị thu truyền hình cáp lên TV nhà bạn, gắn một thiết bị nối Internet vào máy vi tính của bạn và nói: "Truy cập hay là chết."
Chúng ta là thế đó. Chúng ta, những người Mỹ, là những vị tông đồ của Thế giới Đi nhanh, là kẻ thù của các truyền thống, là những vị tiên tri của thị trường tự do và cha xứ truyền bá công nghệ cao. Chúng tôi muốn mở rộng những giá trị của bạn lẫn những tiệm bánh Pizza Huts của chúng tôi. Chúng tôi muốn thế giới đi theo sự dẫn đường của chúng tôi và trở nên dân chủ, gắn mạng Internet lên mỗi dụng cụ gia dụng, ai cũng phải uống Pepsi, mỗi máy tính đều phải có hệ điều hành Windows và trên hết - trên hết - ai ai, ai ai cũng phải biết tự bơm xăng vào xe hơi của mình.
Khi bước vào khách sạn Homa Hotel ở trung tâm Teheran, tháng 9/1996, đập ngay vào mắt tôi là một tấm biển. Trên tấm biển là dòng chữ "Đả đảo Mỹ." Đó không phải là một biểu ngữ tạm thời. Đó không phải là một dòng chữ viết bậy. Đó là một tấm biển bằng đá, ốp lên tường.
Tôi tự nhủ, "Kỳ lạ chưa. Tấm biển được gắn trên tường. Dân chúng ở đây thực sự có vấn đề đối với Hoa Kỳ."
Ngay sau đó tôi nhận thấy các bậc trưởng giáo Iran, những người rất quan tâm đến những bước thăng trầm của sức mạnh quân sự và văn hóa Mỹ, đã bắt đầu gọi nước Mỹ bằng cái tên khác, chứ không phải những danh hiệu thường thấy trước kia như "đại quỷ sa tăng" và thành trì của "đế quốc và chủ nghĩa Zion." Người Iran đã bắt đầu gọi nước Mỹ là "thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu." Tôi thấy cách gọi đó thể hiện ngấm ngầm một sự thay đổi. Lãnh đạo Iran dường như đã hiểu sự khác biệt giữa "sự ngạo mạn toàn cầu" và chủ nghĩa đế quốc. Đế quốc chủ nghĩa là khi bạn dùng vũ lực vào chiếm đóng dân tộc khác và ép buộc họ theo bạn. Sự ngạo mạn toàn cầu là khi văn hóa và kinh tế của bạn mạnh đến mức bạn hiểu là không cần phải xâm lăng nước khác mà người ta vẫn phải chịu ảnh hưởng của bạn. Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ, ông Shri Yashwant Sinha, có lần đã nói với tôi về quan hệ giữa Mỹ và thế giới ngày nay: "Không còn đối trọng, không còn sự cân bằng. Những gì các vị nói đã trở thành luật lệ."
Và đó là điều ngày nay đang gia cố cho sự kết dính giữa Mỹ hóa và toàn cầu hóa. Điều khiến nhiều người lo sợ về nước Mỹ ngày nay không phải là khả năng Mỹ có thể gửi quân đi mọi nơi, mà là Mỹ có thể truyền bá văn hóa, giá trị, kinh tế và công nghệ và lối sống đến mọi nơi - dù người Mỹ hay người khác muốn hay không muốn. "Mỹ là khác biệt," Josef Joffe, chuyên gia về chính sách đối ngoại người Đức nhận xét năm 1997 trong tạp chí Foreign Affairs. "Nó làm mình làm mẩy và hay lấn lướt. Nhưng nó không đi xâm lược. Nó cố gắng kiểm soát và bẻ cong luật pháp. Nhưng nó không tuyên chiến để chiếm đất và hưởng vinh quang... Hoa Kỳ có một bộ máy quân sự tinh vi nhất, dù không đông nhất. Nhưng rõ ràng là không ai bằng Hoa Kỳ trong những cuộc chơi ngoại giao. Trên bàn ngoại giao, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản, thậm chí Tây Âu không có nhiều tiền đặt cọc bằng Hoa Kỳ. Dân chúng liều chết vượt biển để sang Mỹ, chứ không sang Trung Quốc. Hiện không thấy thanh niên chen chân sang học thạc sĩ quản trị kinh doanh ở Đại học Moskva, hay lại đi ăn mặc hay nhảy đầm theo lối Nhật Bản. Tồi tệ hơn, ngày càng hiếm người muốn theo học tiếng Pháp hay tiếng Đức. Tiếng Anh, giọng Mỹ, đã trở thành thứ ngôn ngữ của thế giới. Một sức mạnh như thế - một thứ văn hóa đang lan tràn ra ngoài và một thứ thị trường theo lối vơ vào - lôi kéo chứ không xô đẩy; thuyết phục chứ không chinh phục. Tồi tệ hơn, một thứ quyền lực không thể bị thu phục, không thể đối trọng. Trong cuộc chơi ngày nay, tất cả các thế lực - châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga - không thể hợp lực trong cái mô hình liên minh thuở xưa để chống lại Mỹ. Tất cả các trường quay phim của họ không thể thoát khỏi cái vòng khống chế của Hollywood. Không có một tập hợp các trường đại học nào trong số họ có thể lật đổ được ngai vàng của Đại học Harvard... Điều đó giải thích vì sao "Quan hệ đối tác chiến lược" giữa Nga và Trung Quốc đã trở nên quá lỗi thời vào năm 1997. Họ sẽ làm gì được đối với Hoa Kỳ? Boris Yeltsin sẽ không bao giờ muốn thu thập các bí quyết làm ăn và máy vi tính ở Bắc Kinh. Và Trung Quốc sẽ không bao giờ đánh liều bỏ rơi thị trường hàng xuất khẩu quan trọng nhất của họ."
Trong ngắn hạn, tình thế sẽ trở nên tồi tệ hơn vì hố ngăn cách về sức mạnh kinh tế giữa Mỹ và thế giới sẽ ngày càng rộng hơn, trước khi có thể bị thu nhỏ lại. Bạn chỉ cần nhìn vào không gian điện toán để hiểu điều đó. Có một sự tranh cướp đang xảy ra - tranh cướp xem ai chiếm được những trang web mang tính thương mại chiến lược và những đầu mối Internet chủ chốt trên toàn cầu. Chợ Internet là một nơi đấu giá hai chiều với hàng loạt các bên mua đấu giá mua các mặt hàng từ hàng loạt các bên bán. Chúng bắt đầu từ những thị trường lẻ tẻ - những điểm bán bớt các mặt hàng dư thừa như dầu thô, sắt thép, chíp vi tính và những mặt hàng không được đảm bảo tiêu chuẩn. Rồi nhờ công nghệ điện toán, những thị trường lẻ tẻ đó sẽ nhanh chóng được mở rộng thành các siêu thị tinh vi hơn.
Điển hình của các thị trường trong không gian điện toán là trang đấu giá eBay - trong đó người ta có thể ngồi nhà mà mua bán. Nhưng hãy tưởng tượng, eBay được thực hiện trong một loạt các ngành công nghiệp, trong đó hàng hóa và dịch vụ của những ngành đó cũng có thể được trao đi đổi lại giữa người mua và kẻ bán. Chẳng hạn, hiện nay ta có Metalsite.com nơi các hãng xây dựng trên thế giới sẽ hưởng nhu cầu của họ tới các nhà cung cấp sắt thép với giá rẻ nhất. E-Chemicals.com và Chemdex.com đã xuất hiện để trao đổi hóa chất và sản phẩm khoa học ứng dụng. Và rồi sẽ có sớm những E-rubber [cao su], E-plastic [nhựa], E-cement [xi măng], E-paper [giấy], và E-Insurance [bảo hiểm].
Xưa kia một công ty đảm bảo có được một nguồn cung cấp nguyên liệu và phụ tùng đều đặn bằng cách lựa chọn kỹ càng các nhà cung cấp, xây dựng quan hệ lâu dài thông qua sự tín nhiệm, hiểu biết rõ các nhu cầu của nhau. Nhưng khi ngày càng nhiều lĩnh vực đã trở thành hàng hóa, một công ty như IBM chẳng hạn sẽ đưa các yêu cầu chi tiết của họ lên mạng điện toán, chẳng hạn chi tiết chíp vi tính, giấy toilet, thậm chí nguồn năng lượng,... các nhà cung cấp sẽ lên mạng và theo đó đấu giá để nhận hợp đồng cung cấp cho IBM theo đúng yêu cầu. Trong một thế giới không còn rào cản, những trao đổi trên toàn cầu như vậy sẽ trở thành những yếu tố định hình cho luật lệ và các tiêu chuẩn trong đó hàng hóa và dịch vụ được mua bán và trao đổi ở mọi nơi. Và vì Hoa Kỳ dẫn đầu trong không gian điện toán, nhưng hệ thống trao đổi như trên hiện đang được các công ty Mỹ mở ra trên đất Mỹ.
"Hầu hết những điều đó chưa thực sự xảy ra trên quy mô lớn và mọi người chưa có khái niệm rõ ràng về chúng," Joel Cawley, Giám đốc phụ trách Chiến lược Doanh nghiệp của hãng IBM giải thích cho tôi hồi đầu năm 2000. "Nhưng chúng đang dần có tầm quan trọng cao hơn. Người ta phỏng đoán những giao dịch điện tử như thế sẽ chiếm từ 30-40 phần trăm thương mại điện tử vào năm 2004. Một khi những giao dịch điện tử được thiết lập và vận hành được mọi người biết đến thì sẽ quá muộn cho những kẻ muốn bắt chước. Những kẻ thắng là những kẻ biết nhìn xa, có nền móng vững chắc. Lúc đó thì thật là khó và đắt đỏ nếu muốn thay đổi hay xây dựng các điểm giao dịch.
Hãy nhìn hiện tượng Enron (thật ra công ty này sau đó lâm vào tình trạng phá sản- ND). Công ty này đã thiết lập một thị trường trên mạng trong đó các công ty trên thế giới có thể mua bán khí thiên nhiên, điện, than, nhựa, bột giấy, giấy và dầu mỏ - và sẽ có sản phẩm mới là băng thông. Băng thông là đường truyền điện tử trong đó giao thông Internet đi lại. Thông qua các tổng đài Internet của Enron - nơi những người mua và kẻ bán hợp đồng băng thông gặp gỡ nhau - một trường học có đường truyền rỗi rãi trong mùa nghỉ hè sẽ có thể bán lại quyền sử dụng trong thời gian đó cho một công ty có nhu cầu. Những hợp đồng như vậy thường phải mất hàng tháng mới ký được, nay có thể được dàn xếp trong vài giây đồng hồ.
"Chúng tôi là công ty đầu tiên đưa ra dịch vị này để có thể bán khí đốt và điện," Tổng giám đốc Kenneth Lay của Enron cho biết, " nhưng chúng tôi nghĩ thị trường dịch vụ băng thông sẽ trở nên lớn nhất. Hiện nay có giá trị 30 tỷ đô-la, và trong khoảng ba năm tới nó sẽ lên tới 90-100 tỷ đô-la. Và nó sẽ có tầm vóc toàn cầu."
Nền kinh tế Internet dựa trên băng thông, vậy nếu những tổng đài của Enron mà thành công thì sẽ có ý nghĩa như việc khám phá ra dầu mỏ trong không gian điện toán vậy - cho bản thân Enron và cho nước Mỹ.
"Có những lợi thế khi bạn trở thành người đi đầu trong những thị trường toàn cầu kiểu này," Lay nói. "Khi bạn là người đi đầu, bạn nâng được quy mô rất nhanh chóng, và cùng với điều đó là khả năng kinh tế giúp cắt chi phí giao dịch và tăng khả năng thanh toán và khả năng mở ra những thương vụ tinh vi hơn cho bạn. Chúng tôi rồi cũng có các đối thủ, tôi chắc như vậy. Những thời điểm này là lúc kẻ thắng sẽ được ăn cả. Vậy càng sớm đi đầu vào trong các thị trường thì càng có thể định hướng được thị trường. [Và] một khi có một thực thể đứng ra thiết lập một vị trí vững chắc trong loại thị trường toàn cầu đó thì sẽ rất khó có thể lật nhào được nó."
Điều này cũng mang lại hàm ý địa-chính trị. Nếu bạn nghĩ rằng người Âu đã không thích thú gì cung cách làm ăn nào đó của người Mỹ, thì hãy đợi một hai năm, khi họ thức tỉnh và nhận ra rằng các công ty Mỹ đã chiến thắng trong cuộc tranh chấp không gian điện toán, định hình luật lệ và tiêu chuẩn cho cả một hệ thống thị trường điện tử.
Đến lúc đó người Pháp sẽ gọi người Mỹ là gì nhỉ? Vào cuối thế kỷ 20 họ đã cho ra đời một thuật ngữ để gọi Hoa Kỳ. Mỹ không còn là một siêu cường. Người Pháp quyết định rằng Mỹ phải được đặt vào một thể loại riêng. Nước Mỹ, theo nhận xét của một nhà ngoại giao Pháp trong tổng hành dinh NATO nói với tôi, nay là một "quốc gia quá quắt." Chẳng lấy làm ngạc nhiên, khi tôi qua lại trên thế giới tôi, đã nghe người Iran trực tiếp gọi Mỹ là "thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu," nhưng, sau lưng người Mỹ thì dân chúng ở Pháp, Malaysia, Nga, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc và Đức - và tất cả các nơi khác, đều coi Mỹ cũng vậy. Tổng thống Saddam Hussein của Iraq, cũng như người Iran, thì bao giờ cũng nhạy cảm đối với những thay đổi, dù nhỏ nhất, trong vị thế quốc tế của Hoa Kỳ, đã có những thay đổi trong cách tuyên truyền để nâng bản thân của ông ta lên. Đầu những năm 90, trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam đã tự coi mình là Robin Hood của người Ả rập, đứng ra cướp của những người Ả rập giàu có để giúp người Ả rập nghèo khó. Trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh lần thứ hai vào cuối những năm 90, Saddam tự coi mình là Luke Skywalker [nhân vật anh hùng trong phim viễn tưởng Star Wars] đứng lên chống lại con Quỷ đế quốc Mỹ. Mỗi khi được phỏng vấn trên truyền hình, Ngoại trưởng Iraq phàn nàn rằng Hoa Kỳ cư xử như cái lối "ngày tàn của Đế quốc La Mã". Đó là nội dung chủ yếu của sự tuyên truyền của Iraq, từ trong chính phủ ra ngoài công chúng. Một hôm tôi xem truyền hình CNN và nghe họ phỏng vấn một "người dân trên đường phố Baghdad," người này nó về nước Mỹ như "một con quỷ khát máu đang hút máu của dân chúng trên toàn thế giới."
OK. OK., vậy là cả thế giới nghĩ rằng những người Mỹ là những kẻ đi bắt nạt mà họ tức tối muốn đá đít. Thì đã sao? Như thế sẽ tác động gì đến quan hệ giữa Hoa Kỳ và những chính phủ khác? Câu trả lời ngắn gọn là quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia khác ngày nay đã trở nên phức tạp hơn. Có những nước ra sức vặn mỏ nước Mỹ; có quốc gia thì ngồi mát ăn bát vàng, tận dụng cơ hội - họ để cho nước Mỹ thành một thứ cảnh sát toàn cầu, chi trả những chi phí trong việc đối phó với Saddam Hussein và những nước bất trị khác, thủ lợi trong khi tiếp tục phàn nàn về nước Mỹ; có những nước thì tiếp tục căm ghét sự thống trị của Mỹ; và có những nước thì lặng lẽ thích nghi với điều đó.
Trong thực tế, quan hệ của Hoa Kỳ và thế giới trong thời gian bước sang thiên niên kỷ mới không khác gì mối quan hệ của Michael Jordan - trong khi anh ta còn nổi tiếng - với NBA. Mỗi cầu thủ hay đội bóng khác trong hiệp hội đều muốn vượt lên trên Jordan; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều căm ghét anh ta vì anh ta đã vạch trần những yếu kém của họ; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều so sánh bản thân với anh ta, và trong thâm tâm đều dùng anh ta làm điển hình; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều thường xuyên phàn nàn là trọng tài đã thiên vị, bỏ qua những lỗi lầm của Jordan. Nhưng dẫu có thế nhưng không có đội nào muốn Jordan bị thương hay về vườn cả. Vì mỗi lần đi thi đấu, ở đâu có Jordan thì người ta thường bán hết sạch vé. Anh ta là chiếc ống hút, khuấy những cốc nước ngọt mà họ đang uống.
Hãy xem một số ví dụ liên quan đến hiện tượng đó: Khi Antaly Chubais, một trong những công trình sư của chương trình tư hữu hóa của nước Nga, sang đàm phán để IMF tài trợ cứu giúp kinh tế Nga, IMF thường đưa ra những điều kiện ngặt nghèo hơn, và Chubais không có cách nào hơn là phải tuân thủ. Trong đỉnh điểm của những cuộc đàm phán, truyền hình Nga đưa lên chương trìnhKukli, trong đó có những con rối ăn mặc như những lãnh tụ Nga, diễn câu chuyện phỏng theo tích "Cô bé khăn quàng đỏ." Boris Yeltsin là nhân vật bà ngoại, trong khi Thủ tướng Nga lúc đó là Kiryenko là cô bé khăn đỏ. Kiryenko cố gắng đi trước những người khác, để vận động Yeltsin hãy gây ảnh hưởng đối với những kế hoạch cứu vãn về tài chính. Khi Kiryenko đến nhà bà ngoại Yeltsin thì thấy Chubais đã ở đó. Chubais trong vai nhân vật du hành không gian, trên áo đeo logo "IMF" và một lá cờ Mỹ. Chubais là một nhân vật đến từ hành tinh America để chỉ đạo người Nga. Khi Kiryenko nhìn thấy Chubais ở đó bên cạnh Yeltsin, anh ta đã quay ra nói với khác giả, "Chắc là tôi đến muộn quá rồi."
Trong diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos 1999, Minoru Murofushi, Chủ tịch tập đoàn thương mại khổng lồ Itochu của Nhật Bản, ngồi cùng bàn chủ tọa với Thủ tướng Nga lúc đó là Yevgeny Primakov. Murofushi, trong khi đang bình luật về những cố gắng của Primakov chống khủng hoảng kinh tế, đã lỡ lời để lộ bản thân mình. Thương gia người Nhật này nói, "Tôi biết là ông Primakov sẽ có cuộc gặp với ông Fischer của IBM - xin lỗi, ý tôi nói là IMF." Ồ, IMF, IBM, khác nhau chỗ nào đâu - đều là của người Mỹ cả mà!
Yuan Ming, Giáo sư quan hệ quốc tế của Đại học Bắc Kinh là một trong những chuyên viên hàng đầu về Hoa Kỳ của Trung Quốc. Có lần bà này nói với tôi một câu chuyện có hàm ý cho rằng Trung Quốc có thể phản ứng đối với sự ngạo mạn của nước Mỹ bằng cách trưng ra sự ngạo mạn của chính mình: "Các nhà lãnh đạo chính trị của chúng tôi khi phát biểu trước công chúng thường không dùng từ "toàn cầu hóa", họ dùng từ "hiện đại hóa." Có một lý do mang tính văn hóa trong đó. Một bài học lịch sử chưa phai mờ trong đầu óc người Trung Quốc là thời thế kỷ trước, đất nước của họ đã bị họng súng của các tàu chiến ép buộc hội nhập với cộng đồng quốc tế - vậy thì toàn cầu hóa không phải là điều người Trung Quốc đang theo đuổi, mà là điều Hoa Kỳ và phương Tây đang áp đặt. Mặt khác, hiện đại hóa là điều chúng tôi có thể kiểm soát được. Kênh truyền hình nhà nước hàng năm có một chương trình dành cho Tết Nguyên đán. Đó là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong năm ở Trung Quốc. Gần một tỷ dân xem chương trình này. Thường thường trong chương trình có ca sĩ và những màn trào phúng. Nhưng cách đây ba năm, [1995] chương trình này có một tiểu phẩm trào phúng về hai bố mẹ ở một vùng thôn quê gọi cho con trai của họ đang theo học ở Mỹ. Họ hỏi con trai, "Hôm nay ngày tết, con khỏe không?" Cậu nói rất khoẻ và có kế hoạch sẽ về quê hương sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ của cậu ở Mỹ. Bố mẹ rất mừng khi nghe điều đó. Câu thoại mà tôi nhớ nhất là bố mẹ nói với cậu con trai rằng Trung Quốc giờ đây có nhiều điều cũng tốt đẹp như ở nước Mỹ vậy. Họ nói: "Con sang đó rửa bát cho người Mỹ. Giờ đây chúng ta nên có những người Mỹ sang đây rửa bát cho chúng ta."
Ngày 14/12/1997 khi đang bay từ Nhật Bản về Mỹ, tôi đọc phần thư gửi tòa soạn trong tờ japan Times số ngày hôm đó. Tôi rất thích mục này trên báo chí của bất cứ nước nào khi sang đó công cán, vì tôi bao giờ cũng tìm được những mẩu nhận xét rất lý thú. Lần này tôi thấy có thư của thính giả mang tựa đề "Sự xấc ngược của Mỹ," thư này mang ý kiến chung của rất nhiều người. Nội dung viết là: "Không bút nào tả xiết về những chiến thuật ăn hiếp đang tiếp tục của Hoa Kỳ. Lần này, tôi đọc thấy Hoa Kỳ khước từ ký vào bất cứ hiệp định nào [tại Hội nghị về thay đổi khí hậu Kyoto], nếu ba "đòi hỏi" của họ không được đáp ứng... Tôi không bao giờ coi nhẹ thực tế trong lịch sử: Hoa Kỳ thường ra tay "giúp đỡ" nếu có thể - nhưng "đất nước vĩ đại nhất của thế giới" (họ tự xưng, không phải tôi đặt danh hiệu cho họ như thế) phải học hỏi về sự khiêm nhường. Những sự việc gần đây cho thấy nước Mỹ bước lên địa vị vinh quang chỉ là do những thất bại về chính trị và kinh tế của những đối thủ của nó. Nhưng lòng tự hào rồi sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Chính phủ Mỹ hãy nhớ điều đó." Ký tên: Andrew Ogge. Tokyo.
Tôi đến Ấn Độ vào năm 1998 sau khi có cuộc thử nghiệm hạt nhân ở đó và Trung tướng Ấn Độ đã nghỉ hưu V.R. Raghavan, vốn là tư lệnh hành quân của Lục quân Ấn Độ, nay là nhà phân tích cho Nhóm Chính sách Delhi, kể với tôi rằng ông vừa tham gia một hội thảo quốc tế về vấn đề hạt nhân. Đến dự gồm đại diện người Anh, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ, cùng nhiều nước khác. "Vào một lúc giải lao chúng tôi đã đi thăm một ngôi làng nhỏ của Ấn Độ, tôi chỉ cho khách những cửa hiệu, nhà cửa và việc phân bò được sử dụng làm chất đốt," Tướng Raghavan nói. "Nhưng lý thú nhất là khi chúng tôi đến thăm một ngôi trường ở giữa làng. Có khoảng ba chục cháu trên mười tuổi, một vài thầy giáo. Một số vị khách muốn bắt chuyện với họ. Chúng tôi bày bàn ghế và bắt đầu trò chuyện. Có một luật sư trong đám khách hỏi đám trẻ rằng họ nghĩ gì về Hoa Kỳ và Trung Quốc. Không cần chỉ dẫn, những đứa trẻ đó nói Trung Quốc là nước láng giềng vĩ đại của chúng tôi, mặc dù có thời chiến tranh với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc bao giờ cũng đứng lên bênh vực kẻ yếu và chúng tôi không có trục trặc gì với Trung Quốc. "Thế còn Hoa Kỳ?" Vị khách hỏi tiếp. Lũ trẻ nói Hoa Kỳ là một kẻ hay ăn hiếp, bắt nạt mọi người và bao giờ cũng chỉ nghĩ cho riêng mình. "Các vị trong đám khách chịu không thể tin được rằng họ đã nghe được những điều đó."
Năm 1997, tôi dự một hội nghị tại Ma rốc mang chủ đề "Toàn cầu hóa với thế giới Ả rập." Hầu hết các đại biểu Ả rập đều được đào tạo theo văn hóa Pháp, đến từ Bắc Phi và Pháp. (Một tri thức Ả rập cộng văn hóa Pháp thường là người có khả năng tồi nhất để hiểu biết về toàn cầu hóa. Tựa như hai lần bị thương vậy - hai thứ văn hóa Pháp và Ả rập đều chống lại toàn cầu hóa). Tôi được yêu cầu phát biểu khái quát về toàn cầu hóa, và tôi đã phát biểu. Sau tôi là một cựu Thủ tướng Algeria, đang sống lưu vong, người được mời phản biện phát biểu của tôi. Dùng tiếng Pháp, ông ta bác bỏ tất cả các luận điểm của tôi. Ông ta nói rằng "cái thứ toàn cầu hóa mà ông nói chẳng qua là một âm mưu của Hoa Kỳ nhằm tiếp tục dìm thế giới Ả rập xuống, không khác gì chủ nghĩa Zion và chủ nghĩa đế quốc." Tôi lịch sử lắng nghe lập luận của ông ta, lập luận kéo dài theo hướng đó, và sau đó tôi đã phản bác lại một cách khiêu khích có chủ định với hy vọng sẽ khiến ông ta vỡ ra chút ít trong đầu. Tôi nói đại thể như sau (tôi đã cắt đi những lời gay gắt): "Thưa ngài Thủ tướng, ông nói toàn cầu hóa là một âm mưu của Mỹ nhằm phá hoại người như ông. Xin để tôi nói với ông một điều - toàn cầu hóa còn tồi tệ hơn. Tồi tệ hơn thế. Ông nghĩ là ở Washington người ta nghĩ đến ông và ngày đêm tính kế để phá hoại ông, gọi điện, dùng đòn bẩy để làm những điều đó. Tôi chỉ ước mong họ làm điều đó. Lạy chúa, tôi những mong họ làm được điều đó. Vì nếu có người làm thế thì có người khác sẽ làm ngược lại và nâng ông lên. Nhưng sự thực là, chúng tôi hoàn toàn không quan tâm đến các vị. Không một phút nào. Chúng tôi hoàn toàn không mảy may đếm xỉa đến quí vị. Đó không phải vì chúng tôi có ác ý. Đó là vì chúng tôi cũng đang bị giam trong cùng những áp lực giống như quý vị, và chúng tôi cũng đang cố tiến cho được một bước đi tới trong cuộc cạnh tranh, cũng giống như điều quý vị đang làm, và cũng như quý vị, chúng tôi rất lo là những thị trường trái phiếu sẽ phản ứng ra sao trong thời gian sắp tới. Chính vì thế tôi ước rằng có thể xác nhận là có một âm mưu muốn làm hại ông. Nhưng tôi không thể... Giờ đây nếu muốn xây dựng một chiếc cầu Hồi giáo đến với con tàu toàn cầu hóa, thì cứ việc. Nếu muốn xây chiếc cầu chủ nghĩa Mao đến với toàn cầu hóa, thì cứ việc. Cầu Jefferson, cứ việc. Nhưng xin hãy hứa một điều - là ông sẽ xây một chiếc cầu, cầu gì cũng được, nhưng phải là cầu. Và đoàn tàu toàn cầu hóa rồi sẽ không chờ quý vị đâu."
Nhưng nếu có một người vùng Bắc Phi chống lại cái cụm Mỹ hóa - toàn cầu hóa thì sẽ có một người khác thích nghi và tận dụng nó. Khi tôi sang Casablanca năm 1997, thì tàu tên lửa USS Carr cũng vào thăm cảng nước này. Tổng lãnh sự Mỹ ở vùng này đã tổ chức chiêu đãi cho các quan chức địa phương và khách mời trên boong tàu, tôi cũng được mời. Trong khi vài cô gái địa phương chen chúc để được chụp ảnh của các thủy thủ và chủ cùng khách ngồi ăn cánh gà bên những lon bia Budweiser, thì tôi được gặp và trò chuyện với Thống đốc vùng Casablanca. Mặc một com lê kiểu cách, viên chức người Ma rốc này, bằng tiếng Pháp, giải thích một cách đầy tự hào về lý do vì sao ông ta gửi hai con của ông đến ngôi trường của người Mỹ ở trong vùng, chứ không đến trường Pháp, nơi xưa kia ông được đào tạo.
"Hai lý do," ông ta nói. "Thứ nhất, trong thế giới tương lai nếu bạn không nói tiếng Anh, thì bạn là người thất học. Thứ hai, hệ thống của Pháp dạy cho bạn thành một người quản trị hành chính. Hệ thống của Mỹ lại dạy cho bạn cách tồn tại độc lập. Đó là điều tôi muốn con tôi phải hiểu."
Mặc dù văn hóa và giáo dục của Pháp ăn sâu vào những thành phố lớn của Ma rốc từ năm 1912, hiện nay có ba trường của Mỹ được thành lập ở đó - học sinh nối đuôi nhau chờ để nhập học. Thật ra hiện nay đang có sự cạnh tranh thực sự về văn hóa giữa Pháp và Mỹ để chiếm con tim và khối óc của thế hệ mới ở Bắc và Tây Phi, vốn là vùng ảnh hưởng truyền thống của Pháp. Và trong sự cạnh tranh đó thì Mỹ đang dần thắng thế - mà cũng không cần cố sức cho lắm. Tất cả là do nhu cầu. "Giáo dục đại học của người Pháp chưa bắt kịp với giai đoạn cách mạng hiện nay," Dominique Moisi, người trước đây dạy học ở trường đại học quản lý nhà nước nổi tiếng của Pháp, Trường ENA, và là một trong những chuyên viên về thời sự quốc tế của nước Pháp.
"Hệ thống của Pháp thưởng cho những người có khả năng tiếp bước vào những con đường đã được mở cho họ. Nó không khuyến khích người ta chống đối hay tự hình thành cá tính. Tâm lý ngày nay cho thấy những thay đổi trong những năm 90 như thế không phải là do Pháp tác động. Hoa Kỳ đã trở thành tấm gương phải chiếu những cảm giác phân vân trong chúng tôi. Nhìn Hoa Kỳ thì chúng tôi chó thể thấy được những gì chúng tôi còn thiếu thốn."
Một phản ứng đại chúng khác đối với Mỹ hóa-toàn cầu hóa ngày nay bắt nguồn từ những nước mà: một mặt thì phàn nàn cay đắng về chuyện Hoa Kỳ lộng hành, mặt khác thì họ ngồi mát ăn bát vàng - hưởng những thành quả mà sức mạnh của Hoa Kỳ mang lại. Người Nhật sẽ nó riêng với chúng tôi rằng Hoa Kỳ "là rất đúng" khi đòi hỏi Trung Quốc phải tuân thủ luật quốc tế về vấn đề bản quyền. Và họ cũng nói với Mỹ rằng các công ty Nhật, như Sony và Nintendo, cũng chịu thiệt thòi về nạn băng đĩa lậu như Disney và Microsoft phải chịu. Nhưng Nhật Bản sẽ không bao giờ đứng ra đối đầu với Bắc Kinh về vấn đề đó. Tokyo sẽ để cho Washington, siêu cường duy nhất ngày nay, làm điều đó trong khi tiếp tục bám áo Hoa Kỳ sang làm ăn với Trung Quốc càng nhiều càng tốt - tận dụng những thua thiệt của người Mỹ do hậu quả của cuộc đối đầu Wasington-Bắc Kinh. Rốt cuộc, nếu Hoa Kỳ thắng cuộc trong việc ép Trung Quốc phải tuân thủ tác quyền, thì Nhật Bản cũng hưởng lợi luôn. Trong tiếng Nhật có thuật ngữ nào chỉ "sự ăn theo" không nhỉ?
Sau cùng có một khuynh hướng trong đó các nước tìm cơ hội làm rối loạn chính sách đối ngoại và kềm chế bớt sức mạnh của Hoa Kỳ, vì cả lý do địa - chính trị truyền thống lẫn để thuần túy tiêu khiển. Ví dụ Nga hoặc Pháp: khi họ càng khó thành đạt bước chân vào "Thế giới Đi nhanh", thì họ quay sang tìm ảnh hưởng ở những nơi khác - bằng cách thách thức chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ ở Bosnia - chớp nhoáng chuyển quân Nga vào Kosovo trước khi quân Mỹ và NATO vào đó, hay đứng ra bênh vực Saddam Hussein ở Iraq. Trong thực tế nước Nga càng yếu đi thì nó càng mong muốn khai thác những khác biệt đối với Mỹ, và người Nga càng muốn chỉ mặt trêu chọc người Mỹ để tiêu khiển - để có cảm giác bình đẳng với người Mỹ. Bình luận viên người Nga Aleksei Pushkov có lần đã nói với tôi: "Thái độ phổ biến ở đây là nước này cần phải là một lực lượng đối trọng nhằm điều chỉnh những tình huống mà ở đó Hoa Kỳ trở nên si mê." Theo tôi thì có thể nói điều đó theo một cách khác. Phương châm của Nga và nhiều nước khác ngày nay là: "Nếu bạn không thể dùng một cuộc chiến tranh để đánh lạc hướng, giảm đi những ưu phiền trong lòng xã hội của bạn thì ít nhất hãy đem người Mỹ ra là bung xung cãi vã."
Tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới vẫn không đảm bảo rằng Mỹ làm gì cũng được - những nó đảm bảo một điều: ở đâu Hoa Kỳ cũng bị chỉ trích. Một lần nữa hãy nghĩ đến NBA. Gary Payton là một hậu vệ ngôi sao của đội Seattle SuperSonic. Anh ta là cầu thủ danh tiếng, nhưng không phải là Michael Jordan và anh ta bù vào những khiếm khuyết của bản thân bằng cách bêu rếu các cầu thủ khác, đặc biệt là Michael Jordan. Trong tâm trí tôi, Pháp và Nga ngày nay cũng giống như Gary Payton trong phương diện địa-chính trị - những kẻ bêu rếu lớn nhất thế giới muốn bù trừ cho những gì họ còn khiếm khuyết, đặc biệt đối tượng bêu rếu của họ là Hoa Kỳ.
Trong bộ phim Duck Soup của anh em nhà Marx, có cảnh trong đó Chico và Harpo trò chuyện với quỷ dữ, đánh giá về Trentino, vị nguyên thủ châu Âu và là đối thủ chính trị của Groucho. Trentino là người đã thuê Chico và Harpo làm điệp viên. Khi Chico và harpo đến văn phòng của Trentino để báo cáo về điệp vụ của họ, cô thư ký lúc đó bước vào văn phòng cầm trong tay một bức điện. Harpo giật bức điện trong tay người thư ký, nhìn ngó nó thật kỹ càng, sau đó xé nát bức điện thành từng mảnh nhỏ, ném xuống đất rồi lắc đầu. Sửng sốt và ngạc nhiên, Trentino quay sang nhìn Chico dò hỏi:"Vì sao hắn làm thế?" Và Chico đáp: "Hắn điên lên là vì mù chữ, hắn không biết đọc."
Cảnh đó khiến tôi nhớ lại một khuynh hướng khác phản ứng lại trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa - một khuynh hướng thực sự nguy hiểm. Đó là sự phản ứng của những người đã không chấp nhận Mỹ hóa-toàn cầu hóa hoặc không chấp nhận điều đó vì những lý do chính trị, kinh tế hay văn hóa - họ chỉ muốn xé nát những gì thường xuyên được trưng ra trước mặt họ. Có những Harpo - nam có nữ có, chỉ muốn trắng đen rõ ràng. Họ không muốn quy phục nước Mỹ rồi lại nói xấu nước Mỹ đằng sau lưng. Họ chỉ muốn giữ lối đi cũ kỹ của riêng họ.
Xin phỏng theo lời của Ronald Steel có lần đã nói với tôi, những người trong cơn giận dữ đã coi Mỹ hóa-toàn cầu hóa là một vị khách không mời mà đến: bạn cố đóng cửa vậy mà vị khách lại cứ chui vào qua đường cửa sổ. Bạn đóng cửa sổ nhưng họ lại vào qua đường cáp. Bạn cắt đứt đường dây cáp thì họ lại vào nhà qua đường điện thoại qua Internet. Bạn cắt dây điện thoại thì họ lại vào bằng đường vệ tinh vô tuyến. Bạn ném điện thoại di động đi thì họ vẫn còn đó trên những tấm bảng tin điện tử. Khi bạn gỡ những tấm bảng xuống thì hình ảnh của họ vẫn còn đó trong công sở và nhà máy của bạn. Và không những thế, Mỹ hóa-toàn cầu hóa còn vào tận trong phòng của bạn. Bạn hiện đang ăn nó vào người. Và khi lọt vào nhà của bạn, nó tạo ra khoảng cách giữa bố và con trai, giữa mẹ và con gái, giữa ông bà và cháu chắt. Nó tạo ra một tình huống trong đó một thế hệ có cách nhìn thế giới khác hẳn với thế hệ khác, và chung quy đó là lỗi của nước Mỹ. Chẳng hạn, chủ đề mà nhà triệu phú người Xêút, một kẻ khủng bố, Osama Bin Laden, thường tuyên truyền là: Mỹ cút khỏi bán đảo Ả rập, và cút khỏi thế giới Ả rập nói chung, vì lối sống Mỹ làm bẩn "mái nhà của người Hồi giáo."
Cựu Thủ tướng Ấn Độ I, K. Gujral không như bin Landin, không giống chút nào. Nhưng có một lần tôi trò chuyện với ông ta ở Delhi, ông ta giải thích về những sự khó chịu mà có những người cảm nhận từ việc Mỹ hóa-toàn cầu hóa xâm chiếm gia đình họ. "Tôi thấy có điều tương tự đang xảy ra ở Ấn Độ - sự thay đổi trong cách phục sức và thói quen ăn uống," Gujral nói. "Đứa cháu tôi năm nay bốn tuổi. Vậy mà cháu thường xuyên nhắc đến kẹo cao su, không nhắc đến món ăn Ấn Độ, hay nó nói, "cháu không muốn uống Pepsi, cháu thích Coca." Cháu nó thậm chí nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Ấn Độ. Có ngày tôi hỏi cháu tại sao không nói chuyện với tôi bằng tiếng Ấn Độ, vậy mà nó đi mách mẹ nó là "có phải ông không biết nói tiếng Anh phải không?" Tôi quan sát ứng xử của cháu tôi, vì đó là một ví dụ nhãn tiền. Hôm trước cháu gái tôi nói nó muốn ăn bánh pizza vào ngày hôm sau. Nhưng cháu tôi nói: "Không, không, cháu muốn ăn Pizza Hut cơ."
Ở Thượng Hải, tôi đã phỏng vấn Wang Gouliang, một viên chức hàng đầu của Ngân hàng Giao thông, một trong bốn ngân hàng lớn nhất Trung Quốc. Tôi hỏi đùa rằng ông ta hay thu thập tin tức thế giới từ đâu. Ông ta nói mỗi sáng thư ký của ông thường chuẩn bị một bản tin vắn lấy từ Internet và hãng tin Reuters, nhưng ông cũng thường nhận được nhiều thông tin từ con trai ông.
Và bỗng nhiên, ông ta trở nên hùng biện về mối quan hệ giữa bố và con rồi chuyển sang đả kích Internet.
"Con trai tôi là một tay sành sỏi về Internet. Mỗi khi hắn thấy có điều gì lý thú trên Internet thì hắn thường cho tôi xem," viên chức Ngân hàng người Trung Quốc này nói. "Nhưng những bậc cha chú không nên để cho con cháu xỏ mũi. Con tôi thỉnh thoảng cũng đưa ra những gợi ý, nhưng tôi không thích thú gì với phần lớn những gợi ý đó. Cha không nên nghe theo con cái. Vì như thế sẽ ảnh hưởng tới quyền lực người cha. Tôi nói nó bớt vào Internet đi, tập trung vào học hành."
K. Gujral và Wang Guoliang là những người có học, họ không đến mức điên tiết về những việc đó. Nhưng những người khác thì không thế. Những kẻ giận dữ không tìm được những ý thức hệ thay thế cho Mỹ hóa-toàn cầu hóa. Họ giống như nhận vật Harpo. Họ chỉ muốn xé tan những thông điệp và ném chúng đi. Và không giống những chính phủ yếu đuối của họ, những chính phủ phàn nàn về chú Sam nhưng vẫn "ngồi mát" - những kẻ giận dữ thường sẽ sử dụng vũ lực để phản kháng.
Và điều đó thật đáng sợ. Mỹ hóa-toàn cầu hóa khiến cho họ có thêm lý do để căm ghét nước Mỹ; nó cũng trang bị cho họ thêm sức lực, để trong tư cách cá nhân, họ nổ súng. Toàn cầu hóa đã tăng cường sức lực cho họ thông qua hai con đường:
Thứ nhất, trong cái thế giới đang được kết nối chặt chẽ đến mọi nơi mọi lúc- những kẻ khủng bố có thể tiêm nhiễm đầu óc của nhiều mảng dân chúng hơn. Hãy xem kỳ nghỉ Đông của tôi vào tháng 12/1998: Tôi đi trượt tuyết ở vùng núi Rocky Mountain và tôi thấy bên trong hầu như mỗi chiếc thang trượt tuyết trên đỉnh núi, bao giờ cũng có du khách đang nói chuyện trên điện thoại di động. Một người bạn của tôi đi trượt tuyết những vẫn mang theo một máy nhắn tin, trên máy có thông số giá trị chứng khoán trong các thị trường Dow Jones và những trị giá cổ phần của chính anh ta. Anh ta thường kiểm tra các thông số mỗi khi đi trong thang máy. Khi tôi đang gửi những chương bản thảo của cuốn sách này trong văn phòng hãng chuyển phát nhanh Federal Express sang một nơi khác, dự định đến nơi vào 10 giờ 30 sáng ngày hôm sau, tôi nhìn qua cửa và thấy David Stern, Chủ nhiệm NBA đang bước trên phố, nói máy điện thoại di động, đàm phán để giải tỏa một lệnh phong tỏa NBA. Sau mỗi ngày đi trượt tuyết tôi sẽ về khách sạn, xem truyền hình cáp, dùng thẻ điện thoại AT&T gọi điện cho bè bạn ở Cairo và Jerusalem hoặc quay số AOL 8000 để xem tin tức và kiểm tra xem tôi có email nào mới không. Vào đêm giao thừa năm đó sau khi ăn tối trong một nhà hàng, khi tôi ra nhận áo khoác nơi gửi quần áo, tôi nghe được đoạn đối thoại bực dọc sau đâu giữa một thực khách và hầu bàn: "Anh nói thế có nghĩa gì? Anh không nhận được đăng ký đặt bàn của tôi. Tôi gửi bằng email mấy tuần trước đây! Tên là Ashraf, đánh vần là A-s-h-r-a-f." Trước khi đi ngủ tôi giở báo USA Today và tìm thấy bức ảnh mà bạn thấy ở chương 3 trong cuốn sách này. Trong bức ảnh là một người Do Thái Hasidic gắn chiếc điện thoại di động vào bức tường thiêng liêng ở Jerusalem. Còn nhớ đoạn chú thích: "Shimon Biton áp chiếc điện thoại di động vào Bức Tường phía Tây để một người bà con của anh từ Pháp có thể cầu nguyện tại bức tường thiêng liêng."
Tất cả những điều đó đã diễn ra khi tôi đang trong kỳ nghỉ trên núi!
Hãy tưởng tượng chuyện gì sẽ diễn ra nếu bạn đang ở nhà hay đang đi làm. Chúng ta ngày nay kết nối với nhau ngày càng nhiều. Ngày mỗi ngày có càng nhiều những người dân đón nhận thêm, hay có khả năng đón nhận thông tin về những sự kiện đang xảy ra trên khắp thế giới, sớm hơn vì với tốc độ nhanh hơn. Trong một thế giới như vậy thì chỉ cần một lượng nhỏ thuốc nổ hay vi trùng hay chất uranium đã được làm giàu thì có thể gây hoang mang và phá hoại cho hàng tỷ người cùng một lúc.
Toàn cầu hóa còn tạo điều kiện cho các phần tử khủng bố gây tiếng vang bằng một cách khác. Khi chip vi tính và công nghệ thu nhỏ khiến cho kích thước của thiết bị nhỏ và nhẹ hơn, mọi thứ trở nên nhỏ và nhẹ hơn. Sam Cohen, người sáng chế ra bom Neutron đã nhận xét trên báo The Washington Times (7/6/1998), rằng trong vòng 10 năm kể từ ngày vụ nổ thử nghiệm bom plutonium ở Alamogordo, Hoa Kỳ, các nhà chế tạo bom có thể thu nhỏ kích thước đầu đạn nhưng không thay đổi sức công phá 20 kiloton - xuống 100 đơn vị. Hoa Kỳ đã phát triển một loại đầu đạn cho NATO - một loại đầu đạn có thể được gắn trên súng bazoka, hai người điều khiển, có sức công phá 1/10 kiloton. Người Nga cũng làm được điều đó. Người Mỹ đã khám phá ra điều đó khi Alexander Lebed, cựu Cố vấn an ninh quốc gia Nga nói rằng có 100 vũ khí hạt nhân mini, được biết đến với cái tên "những trái bom trong cặp da," bị đánh cắp từ kho vũ khí của lực lượng đặc biệt của Nga. Chính vì thế mà Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng của hãng vi tính Sun Microsystems có lần nói với tôi: "Điều tôi lo lắng nhiều nhất và đó không phải là điều nói quá, đó là toàn bộ hạ tầng cơ sở này rất dễ bị phá hoại, không những do nạn tin tặc mà có khi do có người nào đó vào được trong các tổng đài điện thoại. Trong thế giới ngày nay, những kẻ phá hoại có thể vào trong các tổng đài điện thoại phá phách, sau đó về ăn trưa rồi lại quay lại phá tiếp."
Khi kết hợp những kẻ giận dữ mà trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa sinh ra, cùng với khả năng toàn cầu hóa trang bị cho con người ta, bạn sẽ hiểu được điều tôi cho rằng là đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ trong thế kỷ 21: Những kẻ khùng điên được trang bị tối tân. Chính thế, chúng tôi không đơn thuần là một thứ siêu cường bình thường đang đe dọa nước Mỹ trong phần cuối của thế kỷ 20. Đe dọa thực sự đối với nước Mỹ ngày nay là những kẻ điên khùng được trang bị tối tân: chúng căm ghét nước Mỹ hơn bao giờ hết vì lý do toàn cầu hóa và chính những kẻ đó có thể tự ý làm bất cứ điều rồ dại nào, cũng nhờ toàn cầu hóa.
Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, một kẻ điên khùng được trang bị cần phải kiểm soát cả một đất nước trước khi bước ra phá phách toàn bộ thế giới. Nhưng ngày nay, một kẻ điên khùng được trang bị tối tân, dù là đàn ông hay đàn bà, có thể dùng sức mạnh của toàn cầu hóa để, thậm chí, chống lại cả một siêu cường. Trong thời đế quốc La mã, có câu nói: Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome - bắc, nam, đông hay tây. Và cũng qua những ngã đường đó mà Caesar vươn dài quyền lực của ông ta. Đó là những con đường to và đẹp. Nhưng có điều buồn cười khi nói về đường sá. Chúng có hai chiều, và khi những kẻ theo Vandal và Visigoth quyết định tấn công Rome thì họ cũng dùng chính những con đường đó. Toàn cầu hóa cũng là tình huống như vậy.
Và những kẻ khùng điên trang bị tối tân thường thuộc nhiều dạng. Họ có thể rất tức giận nhưng không dùng bạo lực. Hoặc tới mức rất tức giận và cũng rất thích bạo lực. Ví dụ cho loại người tức giận nhưng ít dùng bạo lực đó là những tin tặc, những kẻ đã tấn công tờ báo của chúng tôi, The New York Times, một trụ cột của hệ thống nước Mỹ. Ngày 13/9/1998, tin tặc đã vào trang web của tờ báo. Lần đầu tiên tin tặc vào một trang web của một cơ quan thông tin lớn. martin Nisenholtz, Chủ tịch của Công ty Truyền thông Điện tử New York Times kể lại cho tôi: "Chúng tôi vừa đăng bản báo cáo Kenneth Starr về Clinton trên trang web hôm thứ sáu, hôm đó là ngày chúng tôi rất vui. Trang weeb của chúng tôi là trang duy nhất đăng toàn văn báo cáo. Bạn chỉ cần nhất nút là vào được báo cáo. Hôm đó chúng tôi đã đạt mức kỷ lục số lượng người vào trang web của chúng tôi. Tôi cảm thấy thực sự thỏa mãn với những gì chúng tôi đạt được và đã chấp nhận lời mời đến nói chuyện ở Diễn đàn Quốc tế Wharton ở Philadelphia. Vậy đêm hôm sau, thứ bảy, tôi đi xuống Philadelphia. 7 giờ 45 sáng chủ nhật tôi nhận được điện thoại từ biên tập viên trang web, nói rằng chúng tôi bị tin tặc. Tin tặc đã xảy ra một lần trước đó khi một nhóm người đã gửi liên tiếp những yêu cầu làm tràn ngập máy chủ của chúng tôi. Nhưng lần này thì khác. Tin tặc đã vào chiếm giữ toàn bộ trang mạng của chúng tôi, từ đó chúng đăng những thông điệp riêng của chúng trong logo HFG, "Tin tặc cho gái." Chúng đã ghép hình một cô gái khỏa thân vào logo HFG. Chúng tôi chiếm lại trang web và đăng bài đè lên những hình ảnh của chúng. Nhưng chúng sau đó đã chiếm lại và đăng bài đè lên nội dung của chúng tôi. Trong suốt hai tiếng, chúng tôi tranh giành trang mạng của chúng tôi! Bọn tin tặc đã vào chiếm giữ quyền điều khiển máy chủ và đã giữ đầu cầu vào đăng tin trên trang của chúng tôi. Một khi vào được đó, chúng có quyền quản trị và vận hành không khác thẩm quyền của chúng tôi. Chúng tôi đã bàn đến chuyện loại bỏ hẳn trang mạng đó, nhưng tôi không đồng ý. Nhưng sau cùng thì xuất hiện những lý do buộc chúng tôi phải làm điều đó. Vậy là vào lúc 10 giờ 20 sáng, chúng tôi xóa bỏ trang web và cắt đứt những mối liên lạc đăng bài từ bên ngoài. Cung cách tin tặc lọt vào là do họ đã khai thác một con bọ kỹ thuật trong hệ điều hành Unix. Chúng tôi hủy bỏ trang chủ và xây dựng một trang mới từ những máy chủ trinh nguyên, vốn không nối kết với các điểm tiếp cận từ bên ngoài."
Điều tôi thấy lý thú là những thông điệp bọn tin tặc đã đăng trên mạng của báo Times. Lời nhắn gửi đầu tiên là: "CHÚNG TAO NẮM VẬN MỆNH CỦA CHÚNG MÀY." Một phần của lời nhắn được mã hóa bằng những kỹ thuật riêng của chúng. Lối viết tiếng Anh của "Hacking for girlies" được viết thành "H4CK1NG FOR G1RL3Z."Có những âm được thay thế bằng số, như trong phần kết, chúng viết: "R3ST ASSUR3D, W3 WILL B3 BACK SOON." [Chắc chắn sẽ còn gặp lại nhau].
Những tay tin tặc rõ ràng đã hí hửng, gần như Jesse James, trong cái cách cố chứng minh rằng chúng thông thái hơn cả một cơ cấu quyền lực toàn cầu - đại diện bởi The New York Times và trang web của nó. Lời nhắn của chúng có hàm ý rằng bạn có thể giàu có nhưng bạn không thể cạnh tranh với những bộ óc trong thế giới ngầm Internet, dẫu cho chúng không có nhiều quyền lực. Dường như chúng nói rằng những bộ óc của chúng cũng có giá trị ngang ngửa. Có lúc những tin tặc đã viết: "Chúng tao dùng toàn chữ hoa và không dùng thức ngôn ngữ "thời thượng" không có nghĩa là chúng tao là trẻ con, hay cũng không có nghĩa là chúng tao không thể nắm giữ vận mệnh của chúng mày. Đối với những kẻ coi chúng tao là trẻ nhỏ, chứng tỏ có thêm một kẻ đánh giá thấp chúng tao. Hơn nữa, an ninh của chúng mày rồi giờ đây sẽ ra sao? Những "trẻ nhỏ" đã vượt qua được bức tường lửa trị giá 25.000 đô-la của chúng mày, vượt qua hệ thống quản trị mạng dày dạn kinh nghiệm và dày dạn văn bằng học hành trường lớp. Lêu lêu."
Những kẻ tin tặc chỉ đòi hỏi một điều: đó là trả tự do cho Kevin D. Mitnick, một tin tặc khét tiếng đang bị cầm tù sau khi bị FBI bắt giữ vào tháng 2/1995. Mitnick, một thời bị truy lùng gắt gao trên toàn thế giới, bị buộc tội đã chiếm hữu hàng ngàn tập dữ liệu và ít nhất là 20.000 số thẻ tín dụng từ các máy vi tính trên toàn đất nước. Hoạt động trên một máy tính có modem nối với điện thoại di động của y, Mitnick đã bị bắt sau khi xâm nhập vào máy tính của Tsutomi Shimomura, một chuyên viên về an toàn máy tính nổi tiếng, nghiên cứu sinh trong Trung tâm Máy tính San Diego. Shimomura đã giúp đỡ một nhóm các kỹ thuật viên điện thoại và những nhà điều tra liên bang sử dụng thiết bị truy quét sóng điện thoại di động để truy tầm Mitnick.
Những tin tặc đó chẳng qua là những kẻ cực đoan trên Internet. Chúng có những tập tục riêng, tôn thờ những người hùng riêng, có ngôn ngữ riêng, có triết lý riêng và có nguồn động viên tinh thần riêng. Nhưng chúng không có một ý thức hệ chính trị nhất quán để có thể hình thành một hệ thống mới cho thế giới. Chúng giống như nhân vật Harpo. Những kẻ có thái độ nhưng không có ý thức hệ. Họ chỉ muốn phá những trật tự quyền lực hiện có. Họ muống chứng tỏ rằng cái trật tự đó không kiểm soát được họ, và ngược lại, chính họ lại có thể kiểm soát được trật tự đó.
Đi lên một bước thang bạn sẽ thấy có những kẻ điên khùng hơn một chút và ham thích bạo lực hơn một chút. Giống như những du kích quân Hổ Tamil đã tấn công toàn Đại sứ Sri Lanka ở Washington hồi tháng 9/1998. Tờ Washington Post kể lại câu chuyện đó: "Sau khi tòa Đại sứ Sri Lanka mở một địa chỉ email thì những du kích quân Hổ Tamil đã tìm ra một thủ đoạn khủng bố mới. Họ gửi liên tiếp đến tòa đại sứ các email họa giết và những loại email rác rưởi - đến mức các viên chức trong tòa đại sứ không thể dùng được địa chỉ đó để giao dịch công việc được nữa. Một nhà ngoại giao gọi đó là 'khủng bố bằng email." Câu chuyện kể tiếp rằng vào năm ngoái, tòa đại sứ đã phải mời đến một chuyên gia máy tính để lập một chương trình sàng lọc các loại email, đặc biệt lọc ra những email của Những con hổ Giải phóng Tamil Ealam (LTTE). Chiến thuật của những con hổ đó báo cáo về khủng bố toàn cầu của Bộ Ngoại giao xem là một mối đe dọa mới. Báo cáo nói đến một nhóm tự xưng là Những con hổ đen Internet, đã tấn công hồi tháng 8/1997, dùng "vũ khí" email và đã làm tê liệt hệ thống thư tín điện tử của các toà đại sứ. "Nhóm này tuyên truyền trên Internet rằng họ là bộ phận tinh hoa của LTTE, có chuyên môn về "bom cảm tử email," Bộ Ngoại giao cho biết. Nhóm này đã dùng cái gọi là "Tên lửa email chống máy chủ," xác định một địa chỉ email và dùng các biện pháp làm gián đoạn hoạt động đến mức người có địa chỉ đó phải hủy bỏ toàn bộ kết cấu thư điện tử của họ.
Sau cùng, có những kẻ chống đối không những điên khùng mà còn hết sức ham bao lực, và chúng không chỉ dùng có email. Đó là những Harpo có súng. Họ cảm thấy trên thế giới có một hệ thống quản trị, một hệ thống không bao giờ kết nạp họ. Trong quan điểm của họ, Hoa Kỳ, IBM, The New York Times, phố Wall và nền kinh tế toàn cầu là những bộ phận của một khối quyền lực cần bị đánh đổ. Những kẻ điên khùng đó bao gồm giáo phái Aum Shinrikyo (Chân lý Tối thượng) ở Nhật Bản, nhóm Osama bin Laden ở Afghainstan, Kẻ đánh bom nặc danh ở Hoa Kỳ và nhóm Ramzi Yousef ở New York. Aum Shirikyo là người đã răn dạy cho những môn đồ của hắn một hỗn hợp gồm Ấn Độ giáo, Phật giáo và rất nhiều những lý thuyết trên thế giới có dính dáng tới Hoa Kỳ, người Do Thái và những nhà tư bản toàn cầu. Giáo phái này đã giết 12 người, làm bị thương vài ngàn người hồi tháng 3/1995 khi cho xả chất ga sarin độc hại trong một ga tài điện ngầm ở Tokyo. Tuy nhiên, theo tờ The Economist, Aum Shinrikyo đã quy tụ được khoảng một tỷ đô-la tài sản và đã mua được một loại trực thăng tối tân của Nga để có thể rải chất độc hủy diệt. Osama bin Laden, một triệu phú người Ả rập xê út, vào tháng 8/1998 đã chi trả cho những vụ đánh bom vào các Tòa đại sứ của Mỹ ở Kenya và Tanzania, giết hơn 200 người. Hắn đã dùng điện thoại di động và trang mạng Jihad online (JOL) để liên lạc với nhiều nơi trên thế giới. Tờ The New York Times đã đưa tin FBI đã tìm ra trong một máy tính cá nhân của Haroun Fazil, một trong những tay chân của Bin Laden ở Kenya, một điện thư email trong đó mô tả người này theo dõi tình hình thế giới trên truyền hình CNN, dùng Internet để liên lạc với những thành viên khác trong mạng lưới của bin Laden. Trong email đó Fazil tự nhận là "phụ trách thông tin và truyền thông của khu vực Đông Phi."
Ramzi Yousef là kẻ cầm đầu vụ đánh bom tòa Trung tâm Thương mại thế giới ở New York ngày 26/2/1993, giết sáu người và làm bị thương hơn 1.000 người. Hắn có nguồn gốc từ một thế hệ những kẻ giận dữ trong thế giới thứ ba, những kẻ mong muốn làm những điều mà thế hệ cha chú của họ không làm được. Điều đó là đã hướng căm giận của họ vào phương Tây, trả thù cho những rối loạn mà phương Tây gây ra trong xã hội của họ. Họ làm điều đó bằng cách sử dụng công nghệ phương Tây trong khi không chấp nhận giá trị của phương Tây. Họ thích thú với ý tưởng sẽ hấp thụ toàn bộ kỹ nghệ mới, tiêu pha bằng thẻ tín dụng, trong khi tiếp tục giữ lối sống ẩn mình và khăn voan che mặt. Trong khi những kẻ cực đoan Internet chỉ dùng đến chuột máy tính và bọ vi tính làm vũ khí, thì Ramzi và đồng bọn sẵn sàng dùng thuốc nổ và xe tải để chở thuốc nổ. Nhưng họ cũng có một mục đích chung - nhổ vào bộ mặt Mỹ hóa- toàn cầu hóa và đạp đổ nó, sử dụng chính kỹ thuật của toàn cầu hóa để chống lại nó.
Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trao quyền tiêu biểu. Hãy xem xét về bản thân con người của hắn. Đường lối của hắn là gì? Ý thức hệ của hắn ra sao? Rốt cuộc thì hắn là người muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Liệu hắn có muốn thành lập một nhà nước Palestine ở Brooklyn hay không? Hay một nước cộng hòa Hồi giáo ở bang New Jersey? Không. Hắn chỉ muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất của nước Mỹ. Hắn nói trước phiên tòa Liên bang ở khu Manhattan là mục tiêu của hắn là sẽ làm cho một toà nhà nổ tung, rồi sập san làm đổ nốt tòa nhà thứ hai, hòng giết 250.000 dân thườn. Thông điệp của Ramzi Yousef chính là ở chỗ hắn không có thông điệp nào cả, ngoại trừ việc xé bỏ những thông điệp của Hoa Kỳ. Báo the Economist đã đăng "một thời những kẻ khủng bố muốn gây tại họa khiến cho nhiều người biết và ngưỡng mộ nhưng không muốn nhiều người chết." Thời đó qua rồi. Ngày nay, những kẻ khủng bố muốn rất nhiều người chết. Chúng không muốn thế giới thay đổi. Chúng biết rằng sẽ không làm được điều đó, vậy thì chúng muốn phá phách được bao nhiêu thì cứ phá.
Tuy nhiên trong câu chuyện về Ramzi tôi thích một chi tiết đó là Mohammed Salameh, một trong những đồng bọn của Ramzi, sau vụ nổ trung tâm Thương mại, đã quay lại công ty cho thuê xe tải, nơi hắn thuê chiếc xe chở chất nổ. Salameh trước đó đã trả 400 đô-la đặt cọc để thuê chiếc xe, và nay hắn muốn lấy lại số tiền đó, ngay cả khi chiếc xe đã bị hắn làm nổ tung (Hắn giải thích với nhân viên ở đó là xe đã bị đánh cắp.) Đối với Salameh, thế giới có hai mảng khác biệt. Vào buổi sáng bạn có thể đánh bom trung tâm Thương mại, giết được càng nhiều người càng tốt, đó là chân lý thiện thắng ác của bạn; đến chiều bạn lại đến đòi lại tiền, sử dụng những luật lệ của người Mỹ về vấn đề giao kèo. Đó là hình ảnh hay nhất cho thấy những kẻ điên khùng đã tận dụng công nghệ của thế giới hiện đại mà không cần phải chấp nhận giá trị của thế giới đó. Khi bị các công tố viên hỏi rằng vì sao Salameh đã quay lại đòi tiền đặt cọc - Ramzi Yousef trả lời cộc lốc: "Đồ ngu." Quả thực Salameh đã giúp cảnh sát lần ra được Ramzi Yousef. Cảnh sát đã truy ra hắn ở Philippines. Họ vào căn hộ và tìm được chiếc máy tính xách tay Toshiba màu trắng của hắn bỏ lại và tìm được những kế hoạch mới của hắn trong ổ cứng của máy tính. Đó là vào tháng 1/1/1995. trước khi hắn bị bắt giữ. Phần lớn trong bản án của chính phủ Mỹ dành cho Yousef là dựa trên những dữ liệu tìm thấy trong máy tính của hắn - bao gồm các lịch bay, giờ cho nổ và các tài liệu chứng minh danh tính trong đó có ảnh của một số đồng bọn. ( ngoài việc gây nổ trung tâm Thương mại Thế giới hồi năm 1993, hắn còn có kế hoạch đánh bom một loạt các hãng hàng không Mỹ ở châu Á. vào năm 1995). Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân- một tay giữ thuốc nổ tay kia cầm ổ cứng máy vi tính.
Stephen P.Cohen, chuyên gia về Trung Đông, cho biết điều đáng quan tâm về Ramzi Yousef và những kẻ đang nổi giận trong thế giới Ả rập ngày nay là "họ khi xưa vốn tin rằng họ cần phải lật đổ chính phủ của họ và chiếm quyền, trước khi ra thách thức Hoa Kỳ. Ngày nay, họ đứng khiêu chiến với Hoa Kỳ trong tư cách cá nhân." Toàn cầu hóa không những cho phép những người đó đích thân chống Mỹ. Toàn cầu hóa giúp họ có lý do cũng như nghị lực để làm điều đó. Lý do là việc đất nước của họ không còn đại diện cho cơ cấu quyền lực thực sự nữa. Cơ cấu quyền lực ngày nay mang tính toàn cầu. Chúng nằm trong tay siêu cường Hoa Kỳ và những siêu thị tài chính - chúng đứng ra sai khiến các chính phủ khác. Do đó nếu muốn đánh đổ toàn bộ hệ thống thì bạn phải đánh vào siêu cường đó và các siêu thị đó; không cần động đến những chính phủ như ở Pakistan hay Ai Cập làm gì.
Những điều làm cho những kẻ Giận dữ được trang bị tối tân đó bực dọc không chỉ bao gồm thực tế cho thấy Hoa Kỳ có công nghệ tiên tiến, mà còn ở chỗ Hoa Kỳ tự nhận rằng họ có những hệ giá trị tiên tiến. Trong khi đó thì quan điểm của những kẻ điên khùng đó cho rằng giá trị của Hoa Kỳ chỉ là chủ nghĩa thực dụng lạnh lẽo và lòng ham muốn khôn cùng đối với công nghệ. Đoạn đối đáp sau đây diễn ra vào phần cuối của phiên toà xử Ramzi Yousef, giữa chánh án Kevin Thomas Duffy và bị can. Một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân chống lại một siêu cường.
Ramzi Yousef: "ông cứ nói mãi về sự trừng phạt tập thể và giết chóc dân thường... Bản thân các ông là người đi đầu trong việc giết những người vô tội, và các ông là người đầu tiên reo rắc khủng bố vào lịch sử nhân loại khi ném một trái bom nguyên tử giết hàng chục ngàn phục nữ và trẻ em ở Nhật Bản và dùng bom cháy giết hơn 100.000 người, phần lớn là dân thường, ở Tokyo. Các ông đã đốt họ đến chết. Và các ông đã dùng hóa chất, gọi là chất độc màu da cam, giết dân thường ở Việt Nam. Các ông đã giết dân thường và những người vô tội, không phải binh lính, trong mỗi cuộc chiến mà các ông tham gia. Mỹ tham chiến nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trong thế kỷ này, vậy mà giờ đây còn cả gan nói về chuyện giết chóc dân thường vô tội. Và giờ đây các ông đã sáng chế ra nhiều cách thức giết hại dân thường. Các ông có cái gọi là trừng phạt kinh tế, mà có thể giết chỉ trẻ em và người già. Ngoài Iraq, các ông đã áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Cuba và nhiều nước khác trên 35 năm nay. Công tố viên Chính phủ, trong phần mở đầu và kết thúc của bản án đã gọi tôi là một "kẻ khủng bố." Vâng, tôi là một kẻ khủng bố, và tôi tự hào về điều đó. Và tôi ủng hộ khủng bố khi mà điều đó chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Israel, vì các ông còn tồi tệ hơn những kẻ khủng bố; các ông là người đã phát minh ra khủng bố và sử dụng khủng bố hàng ngày. Các vị là những kẻ sát nhân, dối trá và đạo đức giả."
Chánh án Kevin Thomas Duffy đã đáp lại - tựa như đã đòi hỏi Yousef hãy nuốt lấy những cơn giận của hắn: "Ramzi Yousef, anh tự nhận là một chiến binh Hồi giáo. Trong số những người bị giết hay bị hại trong vụ nổ bom Trung tâm Thương mại Thế giới, anh không chỉ ra được một ai trong số họ đã chống lại anh hay chống lại sứ mệnh của anh. Anh không quan tâm, miễn là làm sao giết và làm bị thương càng nhiều người càng tốt. Ramzi Yousef, anh không đáng là một người dương ngọn cờ Hồi giáo. Đức Chúa của anh là thần chết. Đức Chúa của anh không phải là Thánh Allah... Anh không phải là người truyền giáo. Điều duy nhất anh muốn làm là gây chết chóc. Đức chúa của anh không phải là Thánh Allah. Anh tôn thờ cái chết và sự phá hoại. Những gì anh làm không phải vì đức Allah; anh làm những điều đó chỉ để thoả mãn cái tôi méo mó của anh. Anh có thể đã khiến cho những người khác coi anh là một người lính, nhưng những vụ tấn công vào nền văn minh, mà nhờ có nó anh được đứng đây để chịu luận tội, mang mục đích lén lút và để giết chóc những người dân hoàn toàn vô tội.. Ramzi Yousef đến đất nước này làm ra vẻ là một phần tử Hồi giáo chính thống, nhưng anh chỉ quan tâm rất ít hay không quan tâm đến Hồi giáo hay lòng tin của dân Hồi giáo. Thay vào đó, anh không chấp nhận Thánh Allah, mà chấp nhận thứ quỷ dữ vốn anh đã hóa thân vào. Và tôi phải nói là trong thân xác của quỷ dữ anh đã có hành động đúng nghĩa quỷ dữ."
Đối với những người như Yousef thì liệu có lời bào chữa nào dành cho họ không? Thật lý tưởng nếu có những niềm tin cho rằng với những đường lối văn hóa hay kinh tế hay xã hội đúng đắn thì có thể xóa đi những hằn thù và giận dữ trong những lớp người cảm thấy bị Mỹ hóa-toàn cầu hóa đè nén. Những người như Ramzi Yousef đã chịu mất mát nhiều hoặc có những hằn học đến cực độ. Sự thông cảm hay những chương trình xã hội sẽ không cải hóa được họ. Bao giờ cũng có những phần tử cực đoan như Yousef. Giải pháp duy nhất là phải cô lập những kẻ cực đoan đó ra khỏi xã hội lớn. Phương pháp duy nhất là giúp cho các xã hội trên thế giới và các thành viên của chúng được tận hưởng và chia sẻ lợi ích của toàn cầu hóa. Tôi sẽ giải trình việc này trong những chương cuối của cuốn sách.
Tuy vậy, chúng ta không nên có ảo tưởng. Những kẻ điên khùng được trang bị tối tân vẫn đang tồi tại và chúng đại diện cho những đe dọa trực tiếp nhất nhằm vào Hoa Kỳ và sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Điều đó không có nghĩa Ramzi Yousef có thể trở thành một siêu cường. Không, không, không. Điều đó có nghĩa là trong thế giới ngày nay có rất nhiều người có thể trở thành những Ramzi Yousef.
Chương 19
Nếu muốn gặp người, hãy bấm số 1


Nếu có một lập luận chung xuyên suốt cuốn sách này thì đó là quan điểm tòan cầu hóa là tổng hòa của mọi điều và những sự tương phản của chính những điều đó. Tòan cầu hóa có thể tiếp sức vô hạn những cũng có thể chèn ép con người vô cùng. Toàn cầu hóa có thể phân bổ các cơ hội nhưng cũng khiến tràn lan sự hoang mang. Toàn cầu hóa thổi phồng những con cá voi nhưng cũng khiến những loài cá nhỏ trở nên mạnh mẽ hơn. Nó bỏ mặc bạn lại đằng sau nhanh chóng hơn, và đuổi kịp bạn sớm hơn. Trong khi có khả năng đồng hóa về văn hóa, thì chính toàn cầu hóa tạo điều kiện cho dân chúng chia sẻ những bản sắc cá nhân độc đáo của họ đến những miền xa một cách nhanh chóng hơn. Nó khiến cho chúng ta đuổi theo chiếc xe Luxus gấp gáp hơn, và buộc chúng ta phải níu giữ những cây Oliu của chúng ta chặt chẽ hơn. Nó làm cho chúng ta đi vào thế giới và khiến cho thế giới đến với chúng ta với tốc độ nhanh hơn bao giờ hết.
Như tôi đã chúng minh, tử thưở ban đầu, khi toàn cầu hóa trở thành một hệ thống quốc tế, các quốc gia và cộng đồng đã bị giằng co giữa cảm giác bị cuốn hút vào những lợi ích do nó mang lại và cảm giác bị vùi dập bởi những đặc điểm tiêu cực của nó. Cho đến nay, giữa các cơn thăng trầm ủng hộ và chống đối, toàn cầu hóa đã định hình trong tất cả các nước lớn và phát triển, sau khi họ kết nối vào hệ thống. Không nước nào cho thấy sự chống đối toàn cầu hóa đã bao giờ thành công và lên nắm quyền bính, hay trở nên phổ biến đến mức có thể làm tổn hại đến toàn bộ hệ thống - không như hiện tượng đế quốc Áo-Hung trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, hay nước Đức trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Toàn cầu hóa có mãi mãi như vậy không? Toàn cầu hóa là điều không thể đảo ngược? Tôi có cảm giác rằng toàn cầu hóa "gần như" là không thể đảo ngược. Vì sao tôi nói "gần như" mà không khẳng định chắc chắn? Rất khó có thể đảo ngược được toàn cầu hóa vì nó mang trong mình những hoài bão lớn lao của nhân loại - mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn - và những công nghệ hùng mạnh hội nhập chúng ta ngày đêm, dẫu cho chúng ta có ưa thích thế hay không. Trên lý thuyết thì những hoài bão và những công nghệ đó có thể bị dẹp bỏ, nhưng làm như thế ta sẽ phải xây tường rào cao hơn và vững chãi hơn, như vậy ta sẽ phải trả giá đắt cho sự phát triển của xã hội. Tôi không nghĩ điều đó sẽ xảy ra những đó là điều có khả năng xảy ra. Có khả năng rằng nếu toàn cầu hóa trở nên hỗn loạn, làm phưong hại không những đến thiểu số mà cả đa số dân chúng các nước lớn, thì khi đó toàn cầu hóa sẽ bị dẹp bỏ.
Vì sao có khả năng như vậy? Vì ngày nay đe dọa lớn nhất nhằm vào toàn cầu hóa chính bắt nguồn từ bản thân nó. Hệ thống này cũng mang trong mình những tiềm năng để tự phá hủy bản thân. Nó mang trong mình những nhân tố và đặc tính mà nếu chúng hoành hành thì toàn cầu hóa sẽ trở nên hung dữ, khiến cho số đông dân chúng ở các nước sẽ cảm thấy bị bất lực - họ sẽ chống lại hoặc xây tường rào để xa lánh toàn cầu hóa. Sau đây là những nguyên nhân tình trạng đó có thể xảy ra.
Gian khổ quá
Khi sang Bangkok vào năm 1997,thời điểm hỗn loạn của kinh tế Thái Lan, tôi đã hỏi chuyện một nhà ngoại giao người Mỹ về hậu quả của khủng hoảng đối với đất nước này ra sao. Chúng tôi bàn luận về những gì Thái Lan sẽ phải sớm thực hiện để có thể nâng cấp hệ điều hành và những phần mềm để họ có thể sớm quay lại hội nhập với toàn cầu hóa. Nhà ngoại giao này đưa ra một bản liệt kê. Khi ông ta nói xong, tôi nhận xét: "Ông có biết không, chúng ta muốn Thái Lan trong 20 năm phải thực hiện những điều mà nước Mỹ mất 200 mới hoàn thành."
"Không, không," ông ta lắc đầu, nói với tôi. Tôi nhận xét sai. Ông ta nói: "Chúng ta không muốn họ phải thực hiện những điều đó trong 20 năm... Chúng ta muốn họ thực hiện những điều đó trong một năm!"
Điều hiển nhiên trong toàn cầu hóa ngày nay là sức mạnh và vị thế của một đất nước tùy thuộc một phần vào chức năng phát triển một hệ điều hành và những phần mềm định hướng cho tăng trưởng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi quá trình phát triển những cơ chế tự do hóa thị trường và mặc chiếc áo nịt nạm vàng... tất cả trở nên quá gian khổ với quá nhiều nước lớn? Dẫu cho các nhà chính trị và những người khác có thể chịu đựng gian khổ, thắt lưng buộc bụng để tiến tới thế giới Disney, thì vẫn còn những giới hạn mà họ sẽ phải gặp. Henry Kissinger một lần đã nói, lãnh đạo chính trị "không thể tồn tại nếu họ đóng vai trò những người lắng nghe chị thị từ nước ngoài rồi bắt dân chúng phải chịu đựng thắt lưng buộc bụng trong thời gian quá lâu." Phát triển phần mềm sẽ phải mất thời gian, định hướng đất nước của bạn để kết nối với Bầy Thú Điện Tử sẽ phải mất thời gian dài, và nhiều nước hiện nay chưa có khả năng về chính trị và kinh tế để làm những việc đó. Có những nước trì trệ với lý do văn hóa. Thường thì văn hóa rất chậm thay đổi. Phát triển một đời xe Lexus mới dễ dàng hơn nhiều so với việc thay đổi các giống cây Oliu - vì có khi phải mất hàng thế hệ.
Nếu đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống toàn cầu hóa ngày nay bắt đầu từ khi bức tường Berlin sụp đổ thì chúng ta có thể nói toàn cầu hóa nay đã sang được thập niên thứ hai. Trong thập niên đầu của toàn cầu hóa, chúng ta đã chứng kiến những gì xảy ra khi những nước nhỏ - Bosnia, Albania, Algeria, Serbia, Syria và nhiều nước châu Phi - đã không có khả năng quá độ. Nhưng những đất nước đó nhỏ bé và yếu ớt nên chưa thực sự có tác động tiêu cực đến toàn cầu hóa; toàn cầu hóa có thể xây bao quanh họ một bức tường lửa để tránh xung động.
Tuy nhiên khi sang thập niên thứ hai chúng ta vấp phải một vấn đề nghiêm trọng hơn: Nếu những nước lớn như Nga, Trung Quốc và Nhật Bản - chưa nói đến Indonesia, Brazil, hay một số thành viên của Liên minh chây Âu - không thể quá độ vào toàn cầu hóa? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ cảm thấy chiếc áo nịt quá chật, không thể mặc vừa, hay những xã hội của họ không thể chịu những thay đổi về văn hóa, chính trị và kinh tế nhằm có thể đi đến một chủ nghĩa tư bản sòng phẳng và tàn nhẫn, nơi mà những công ty làm ăn yếu kém sẽ bị thải đi, không cho phép hồi sức. Ba trào lưu dân chủ hóa đã khiến cho sự sụp đổ của Liên Xô và sự thay đổi kinh tế của Trung Quốc diễn ra. Chúng đã khiến cho sự sụp đổ của các chính thể tham nhũng ở Albania và Indonesia diễn ra. Chúng đã khiến diễn ra sự sụp đổ của nền kinh tế lắt léo và bảo hộ của Nhật Bản. Nhưng những điều đó không có nghĩa là chúng sẽ chắc chắn thành công trong hệ thống toàn cầu hóa.
Hãy xem xét ba quốc gia quan trọng nhất ngày nay: Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Nếu xem xét kỹ lưỡng bạn sẽ thấy điều gì? Điều tôi nhìn thấy đó là ba quốc gia lớn và hùng mạnh, trông giống như những đô vật hạng cân cao, bắp thịt cuồn cuộn, chịu trách nhiệm bơm máu cho những bắp thịt công nghiệp - hiện đang bị tắc nghẽn, máu bị bơm xuống chân quá nhiều nhưng lại thiếu ở đầu và những phần khác trên thân thể. Nước Nga cần phải được thay máu hoàn toàn. Trung Quốc cần phải được giải phẫu tim. Và Nhật Bản cần một số biệt dược để có thể giảm thành phần cholesterol (Pháp, Đức và những nước khác ở Tây Âu chưa cần đến những liệu pháp mạnh như vậy, nhưng họ cần phải áp dụng các chế độ ăn kiêng, giảm mỡ, nếu muốn mặc lên thân thể chiếc áo nịt mang tên Liên hiệp Tiền tệ châu Âu. Chế độ ăn kiêng đó thường gây đau đớn và sẽ đòi hỏi phải thay đổi trong lối sống - chính vì thế Liên hiệp Tiền tệ và đồng tiền chung châu Âu sẽ rất khó có thể được duy trì trên phương diện chính trị, khó hơn là mọi người vẫn nghĩ.)
Tôi là người lớn lên trong thời đại mà những đe dọa lớn nhằm vào Mỹ là từ sức mạnh quân sự của Nga và Trung Quốc, và sức mạnh kinh tế Nhật Bản. Tôi ngờ rằng hai cô con gái của tôi, giờ đây đã 12 và 15, sẽ lớn lên trong một thế giới mà đe dọa lớn nhất nhằm vào Hoa Kỳ, và sự yếu kém về quân sự của Nga và Trung Quốc, và sự yếu kém về kinh tế của Nhật Bản. Điều chỉnh để hội nhập toàn cầu hóa sẽ là quá trình cực kỳ khó khăn đối với ba nước này. Ba đất nước khác nhau, thách thức dành cho họ khác nhau, nhưng thực ra chúng không khác biệt nhiều như mức bạn nghĩ.
Nhật Bản
Một điều bí mật: Kinh tế Nhật Bản mang nhiều đặc tính cộng sản hơn tư bản. Walt Mossberg, bình luận viên về công nghệ cho tờ Tạp chí Phố Wall hay nói, "Nhật Bản là đất nước cộng sản thành công nhất thế giới." Thật ra, đó là một nơi mà chủ nghĩa cộng sản thực sự thành công. Đúng thế. Trong Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản chỉ có một đảng cầm quyền, Đảng Dân Chủ Tự do, LDP. Dưới sự lãnh đạo của LDP, Nhà nước được chỉ đạo bởi một cơ chế chuyên chính, một cơ cấu quan liêu cao cấp tương tự như ở Trung Quốc và Nga. Những vị quan liêu đó thường quyết định việc phân bố tài nguyên của đất nước. Truyền thông ở Nhật Bản thường dễ bảo, và được chỉ đạo chủa Chính phủ tuy không trực tiếp nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ. Nhật Bản có dân số cũng rất tuân phục chế độ, những ai không tuân phục thường phải trả giá đắt. Những người không tuân phục không bị giam vào trại khổ sai, nhưng thường bị chuyển đến những vùng tựa như Siberia của người Nhật. Ở Nhật Bản, những kẻ bất phục thường bị chụp mũ là "Madogiwazoku," tạm dịch là "Những đám đông nhìn qua cửa sổ," vì họ thường bị bắt phải ngồi ở những chiếc bàn trong sở làm nhìn ra cửa sổ, và thường bị hắt hủi. Dân số tuân phục Nhật Bản thường sẵn sàng làm thêm giờ để đổi lấy mức sống được cải thiện, biên chế cả đời và sự ổn định nhất định trong cuộc sống. Nhật Bản có một chương trình bắt buộc mọi người phải tiết kiệm trong đó dân chúng và các công ty bị bắt buộc phải gom tiền và đầu tư và tránh tiêu pha. Nếu chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô phấn đấu bằng một nửa Nhật Bản, thì Liên Xô sẽ không chịu thua trong Chiến tranh Lạnh.
Nói đi thì phải nói lại. Kinh tế Nhật Bản mang đặc tính thị trường tự do rõ rệt. Một phần ba kinh tế Nhật ngày nay được đóng góp từ các công ty công nghệ hiện đại, cạnh tranh toàn cầu, như Sony, Mitsubishi, Canon và Lexus. Đó là những công ty trong số những công ty tốt nhất trên thế giới và chúng đã đem lại những khoản vốn lớn cho đất nước. Những khoản tiết kiệm đó đã bảo vệ cho hai phần kia của kinh tế Nhật - mang tính cộng sản, gồm những hãng xưởng to xác, trì trệ, tồn tại nhiều năm nhờ có những hàng rào bảo hộ mậu dịch do chính quyền một đảng dựng lên. Nhật Bản đã tập trung được những khoản tiết kiệm trong thời Chiến tranh Lạnh đến mức nó tồn tại trong thập niên toàn cầu hóa thứ nhất mà không bị suy yếu - mặc dù bị trì trệ nặng nề từ năm 1992. Ngược lại, Hàn Quốc, theo điển hình Nhật Bản, nhưng lại không có dồi dào những khoản tiết kiệm như của Nhật. Hậu quả là Hàn Quốc phải chịu nhiều đau đớn hơn trong quá trình tự điều chỉnh của nước này với thời hạn rất eo hẹp.
Rốt cuộc, nếu giải quyết đi sự trì trệ kéo dài, thì khu vực cộng sản trong kinh tế Nhật sẽ phải chị "tư nhân hóa" giống như trong trường hợp của Nga và Trung Quốc. Các hãng xưởng và ngân hàng làm ăn thiếu hiệu quả của Nhật Bản sẽ phải bị mang ra xử bắn và vốn liếng tồn đọng của chúng phải được chuyển cho các cơ sở năng động và hiệu quả hơn. Đó là những hiện tượng đã bắt đầu gây rối loạn trong xã hội Nhật.
Hoa Kỳ là một xã hội trong đó tiêu chuẩn văn hóa tương xứng với tiêu chuẩn kinh doanh phù hợp với toàn cầu hóa - cả hai đều mang tính linh động và minh bạch. Nhật Bản không có sự tương xứng đó. Nhật Bản có một thứ văn hóa đầy rẫy những bí mật và tăm tối và một hệ thống cứng nhắc khuôn phép. Những tiêu chuẩn văn hóa càng khác biệt với tiêu chuẩn toàn cầu hóa thì sự điều chỉnh và thích nghi toàn cầu hóa càng trở nên gian khổ hơn. Trong một xã hội Hồi giáo, những người phụ nữ kéo khăn trùm mặt đặng trốn tránh thế giới. Nhật Bản là một đất nước đang cùng đeo một thứ khăn trùm che mặt. Khó có thể thấy được giải khăn này của Nhật Bản, nhưng nó vẫn được đeo, khiến nước Nhật tránh né thế giới.
Tuy nhiên, lịch sử của Nhật Bản cũng dạy chúng ta rằng đất nước này có khả năng thay đổi và thích nghi với các hệ thống mới, nhưng chỉ làm điều đó khi lên đến đỉnh điểm của khủng hỏang và đất nước không còn cách nào khác. Tôi không nghi ngờ là Nhật Bản sẽ lại trở thành một cường quốc kinh tế đáng gờm, nhưng điều đó chỉ xảy ra sau khi có những điều chỉnh về văn hóa, chính trị và xã hội. Hãy xem xét một tập tục của Nhật Bản: Thành viên ban quản trị của hầu như tòan bộ các công ty Nhật được niêm yết ngày nay - ngoại trừ những hãng công nghệ cao, được Mỹ hóa như Sony - bao gồm những giám đốc mới và cũ của hãng đó, và cổ đông hầu như không tham gia gì vào các quyết định của hãng. Hầu như không có loại thành viên quản trị độc lập hoặc đến từ bên ngoài. Một hệ thống cha truyền con nối như vậy không thể nào đem lại được các thay đổi nhanh chóng và những sự phá cũ xây mới ngõ hầu cho phép Nhật Bản theo kịp tốc độ phát triển trong thập niên tới. Cơ chế đó sẽ phải thay đổi, và quả là đã bắt đầu phải chấp nhận chịu đau đớn.
Khi tôi sang Tokyo đầu năm 1999, người bạn của tôi trong Bộ Ngoại giao Nhật Bản bắt đầu cuộc trò chuyện với tôi bằng câu: "Con trai tôi hôm trước tuyên bố [với vợ tôi và tôi] rằng hắn sẽ trở thành một quản trị viên quỹ đầu tư, nhưng hắn không muốn làm việc cho một ngân hàng Nhật Bản.Hắn muốn làm việc cho một ngân hàng quốc tế. Những cơ sở mà thời chúng tôi còn trẻ rất muốn gia nhập, như các ngân hàng lớn, nay đang vỡ vụn ra. Đó là điều mới mẻ. Vợ tôi không hiểu con trai nói gì. Vậy hắn giải thích với mẹ, "Nếu mẹ muốn biết con đang mong muốn điều gì thì hãy xem phim này." Nói đoạn con trai đưa cho mẹ cuốn băng video bộ phim Tiền của người khác, nói về một nhà tài chính người New York tiếp nhận [và vực dậy] một công ty đang lụn bại ở New England. Vợ tôi vẫn còn lo lắng."
Một người bạn Nhật Bản khác làm việc trong lĩnh vực tuyển dụng các quản trị viên đã cho tôi biết là chị rất khó kiếm người Nhật sang làm cho các công ty Mỹ. Vì những công ty của Mỹ, không giống những hãng xưởng của Nhật, được biết đến ở nước này qua danh tiếng "ba Ks - bao gồm kitsui, "đòi hỏi cao; kaiko," dễ đuổi nhân viên "khi nhân viên không làm được việc; và kyoso, "cạnh tranh." Nhưng nước Nhật đang thay đổi, và người Nhật cũng đang thay đổi. Bạn tôi kể rằng hiện nay chị sẽ nói với khách hàng rằng: "Thậm chí nếu nằm trong biên chế suốt đời của một công ty Nhật Bản ngày nay, quý vị cũng sớm có ngày tỉnh giấc và nhận thấy công ty của bạn bị người nước ngoài mua lại, và bạn phải làm việc cho người nước ngoài, vì vậy liệu mà vào một công ty nước ngoài ngay từ bây giờ rồi tìm cách thích nghi với nó."
Trung Quốc
Trung Quốc cũng sẽ trải qua một quá trình điều chỉnh gian khổ - lý do không mang tính văn hóa mà là mang đặc tính chính trị. Trung Quốc có nghị lực nhưng không có phương pháp. Sai lầm lớn nhất của các nhà chiến lược là ở chỗ họ nghĩ rằng trung Quốc sẽ tự động thẳng tiến về kinh tế và quân sự đến một mức trong vòng 20 năm, có thể trở thành đối thủ và một siêu cường tương đương với Hoa Kỳ. Tôi không nghĩ vậy.
Đừng hiểu sai ý tôi. Trong 20 năm, Trung Quốc có thể trở thành một cơ sở kinh tế và quân sự có khả năng tranh chấp với Hoa Kỳ - nhưng không có chuyện thẳng tiến ở đây. Trên con đường của Trung Quốc, họ sẽ phải vượt qua một con lươn giảm tốc rất lớn. Vào tháng giêng năm 2000, khoảng 40 phần trăm của nền kinh tế Trung Quốc là đóng góp của những ngành công nghiệp và các ngân hàng quốc doanh, phần nhiều trong số họ đã trở nên tham nhũng và kém hiệu quả. Các duy nhất mà Trung Quốc có thể chăm sóc hàng triệu công nhân trong khu vực đó là tư nhân hóa, đóng cửa hay cho sáp nhập các cơ sở yếu kém, chuyển vốn sang các cơ sở làm ăn hiệu quả. Và cách duy nhất mà Trung Quốc có thể làm điều đó, tránh được nạn thất nghiệp tăng cao, là thu hút cho được những nguồn đầu tư khổng lồ từ bên ngoài.
Quả là Trung Quốc đã thu hút được mức độ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vài một số xí nghiệp nhất định, nhưng đồng nội tệ của họ chưa hoàn toàn có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ, và hiện nay ở đó không có một thị trường công trái và cổ phiếu để người nước ngoài tự do tham gia. Và ở Trung Quốc hiện có hiện tượng tư bản câu kết làm nản lòng các nhà đầu tư từ bên ngoài. Một ví dụ về hiện tượng tham nhũng được đưa ra ánh sáng vào tháng 10/1998 trong một mẩu tin nói rằng trong tổng số 65 tỷ đô-la dành cho việc mua lương thực của nông dân từ năm 1992 thì 25 tỷ đô-la, gần 40 phần trăm, đã "biến mất." Theo tạp chí Times (2/11/1998), phần nhiều trong số tiền thất thoát đó đã được các viên chức chính phủ sử dụng vào việc xây cao ốc, đầu cơ tài chính và mua xe hơi và điện thoại di dộng. Khó khăn của Trung Quốc là ở chỗ họ không thể hùn vốn từ Bầy Thú Điện Tử đủ để cải tạo các doanh nghiệp quốc doanh - chiếm một nửa nền kinh tế - nếu họ không nâng cấp hệ điều hành từ mức DOS 1.0 lên mức DOS 6.0, và nếu họ không cài đặt các phần mềm pháp chế.
Chính vì thế mà bạn không thể kẻ một đường thẳng để đánh dấu Trung Quốc ngày nay phát triển đến ngày Trung Quốc 20 năm sau, rồi đoán rằng nước này sẽ trở nên giàu hơn, có hệ thống toàn trị giàu hơn. Nói như vậy là sai lầm. Trước sau Trung Quốc sẽ vấp phải những giới hạn do chính họ đặt ra. Bởi vì những gì hiện cho phép Trung Quốc tồn tại ngày nay sẽ khác đi, sẽ thay đổi, một khi nước này hội nhập toàn diện vào toàn cầu hóa. Bước quá độ của Trung Quốc sẽ không mấy êm đẹp. Khi 1,2 tỷ dân lao đi với tốc độ 80 dặm/giờ mà vấp chướng ngại, thì cả thế giới sẽ rung chuyển. Khi vấp như vậy, Trung Quốc tạo ra một hiểm họa cho sự ổn định trên thế giới - hiểm họa không bắt nguồn từ sức mạnh, mà bắt nguồn từ thế yếu. Bởi vì vấp phải những thế lực toàn cầu hóa mới - đòi hỏi mở cửa kinh tế và chính trị - đồng thời phải đảm bảo sự thống nhất đất nước, duy trì tính chính đảng của Chính phủ, thì Chính phủ Trung Quốc chỉ còn một lối thoát: chủ nghĩa dân tộc - một thứ cây ô liu già cỗi của Trung Hoa. Một Trung Quốc dân tộc chủ nghĩa nếu cảm thấy toàn cầu hóa "gian khổ quá" thì có thể làm nảy sinh một đe dọa thực sự đối với toàn bộ hệ thống.
Nước Nga
Điều đó cũng tương tự trường hợp ở nước Nga, nhưng ở mức nghiêm trọng hơn, vì xuất phát điểm của nước Nga thấp hơn ở Trung Quốc và Nhật Bản nhiều.
Phải hiểu rằng Nga vẫn tiếp tục là một nước được vũ trang toàn diện, với vũ khí hạt nhân. Nhưng giờ đây khi hội nhập vào hệ thống toàn cầu hóa, sự yếu kém, chứ không phải sức mạnh của Nga, chắc chắn sẽ đe dọa sự ổn định của thế giới trong một thời gian nhất định. Khi kinh tế Nga tan chảy vào tháng 8/1998, nó đã khởi phát một căn bệnh truyền nhiễm tài chính đã gây cho phương Tây: trong vòng một tháng, mức thiệt hại tương đương với mức độ Nga gây ra trong 70 năm. Tuy vậy một số chính trị gia và phân tích gia đối ngoại đã yêu mến Chiến tranh Lạnh đến mức họ vẫn coi Nga không khác gì Liên Xô trước kia, và hệ thống quốc tế ngày nay vẫn là một dạng Chiến tranh Lạnh. Thật đáng ngạc nhiên khi nghĩ đến Đức Quốc xã, vốn tuyên chiến chống cả thế giới và tận diệt sáu triệu người Do Thái, nay sau hai thế hệ đã tự cải tạo trở thành một nước dân chủ được đánh giá là năng động nhất thế giới. Nhưng những chiến binh Chiến tranh Lạnh vẫn coi Nga là một đất nước không có khả năng thay đổi và vẫn tiếp tục là kẻ thù của Hoa Kỳ trên phương diện địa-chính trị.
Không, chúng ta không nên đối xử với nước Nga như đối với Canada, chỉ vì họ đã tổ chức được một vài cuộc bầu cử. Đó là một nước lớn, có bề dày lịch sử, và một kho vũ khí hạt nhân lớn, và, giống các cường quốc khác, nó vẫn tiếp tục cạnh tranh với Hoa Kỳ để giành ảnh hưởng. Rất giống như nước Pháp. Nước Nga không còn là Liên Xô. Nga là một quốc gia đang đứng giữa nhiều chặng đường quá độ thiếu rõ ràng, những bước quá độ diễn ra trong một môi trường quốc tế rất khác. Nga có thể thiếu khả năng nâng cấp hệ điều hành lên tới 1.0, chưa nói đến 6.0, nhưng cũng không có gì định trước nước này sẽ không làm điều đó. Cũng như đối với Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta sẽ được lợi nếu nước Nga đặt gót quá độ - chúng ta không thể quyết định, nhưng có thể gây ảnh hưởng. Chúng ta không có khả năng đơn phương đích thân cải tổ nước Nga nhưng có khả năng làm cho nó không bị cô lập, nguy hiểm và trái tính. Chính vì lẽ đó sự mở rộng khối NATO là một sai lầm. Trong toàn cầu hóa, những vấn dề đe dọa nhiều nhất đến nước Mỹ là những vụ buôn bán đầu đạn hạt nhân trên chợ đen, giảm thiểu tên lửa hạt nhân chiến lược, băng hoại môi trường, kiềm chế các quốc gia bất trị như Iraq hay Bắc Triều Tiên và những vi rút tài chính. Hoa Kỳ sẽ không thể xử lý được những vấn đề đó nếu thiếu sự hợp tác của một nước Nga ổn định và dân chủ. Chính vì thế nhiệm vụ hàng đầu của nước Mỹ là thu hút sự hợp tác của Nga và làm bất cứ điều gì để có thể cải thiện hệ thống chính trị ở đó - chứ không phải bành trướng khối NATO, vì làm như vậy rất khó lấy lòng được Moskva.
Đầu năm 1998, tôi ngồi trong văn phòng của Karel Kovonda, Thứ trưởng Ngọai giao Cộng hoà Czech ở Prague. Khi hùng biện giảng giải cho tôi vì sao NATO nên kết nạp Cộng hòa Czech, ông ta kể cho tôi ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với khu vực và bản thân nước này.
"Tôi tận hưởng bầu không khí quốc tế ở vùng này vì giờ đây Chiến tranh Lạnh đã qua đi và Cộng hoàa Czech đã mở cửa," Kovonda nói: "Cháu bé nhà tôi đi nhà trẻ cùng với con bé con đến từ Hàn Quốc và những cháu khác từ Croatia và Bosnia. Tôi đến tiệm góc phố mua rau quả trồng ở Trung Quốc. Nhưng điều bất lợi là hiện nay có mấy thằng mafia người Ucraina đến ngụ ở tòa nhà bên cạnh. Tất cả diễn ra trong khu phố của tôi nằm ở ngoại ô Prague. Và có những sự ngờ vực và khó chịu ở đây vì mức độ tăng nhanh chóng những người nước ngoài đến sống, làm việc và buôn bán bất hợp pháp ở nước này - ở ngoại ô cũng như trong trung tâm thủ đô. Bạn nhìn thâý cả hai mặt của toàn cầu hóa ở Cộng hòa Czech ngày nay, và vì nằm ở ngã ba đường ở châu Âu, nước chúng tôi là trạm dừng chân đầu tiên của dòng nhân lực di chuyển bất hợp pháp từ Đông sang Tây Âu, trong khi đó ở biên giới giữa chúng tôi và Đức [giờ đây ít mở cửa hơn] là địa bàn quan trọng hơn trước. Trên bàn của tôi là báo cáo tối mật về các hoạt động tội phạm quốc tế cũng như trong nước. Thời cộng sản trước kia thì chẳng làm được những điều như vậy. Khi cộng sản ở đây thì phân nửa thời gian bạn tốn cho việc xin visa sang thăm nước khác, giờ đây thì chẳng cần phải có visa nữa. Buôn lậu linh kiện hạt nhân và ngòi nổ, đó là hiểm họa. Chúng tôi bắt được những kẻ buôn ngòi nổ đưa hàng từ phía Đông sang phía Nam của chúng tôi. Đó là những nguy hiểm mà dân chúng không hiểu hết được..."
Tôi chỉ ngồi gật gù, chẳng muốn hỏi rằng những ngòi nổ đó từ đâu đến và làm sao có thể giải quyết được chuyện đó bằng việc mở rộng khối NATO khiến cho nước Nga thêm xa lánh.
Ở Nga, Trung Quốc và Nhật Bản, có những lãnh đạo lên từ thời Chiến tranh Lạnh đang cố gắng thúc đẩy bước quá độ vào toàn cầu hóa, và trong nhiều trường hợp, họ thiếu các dụng cụ để làm việc đó. Mặc dù người Nga đã hủy bọ hệ thống trung ương chỉ huy, ý thức hệ cộng sản và các chính ủy, họ vẫn chưa xóa bỏ được văn hóa cộng sản và thay thế văn hóa tư bản vào đó.
Quả thực ở Nga, Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta vẫn chờ đợi điều mà Robert Hormats gọi là "thế hệ thiên niên kỷ" - những người trưởng thành trong toàn cầu hóa - lên nắm quyền để tạo những bước ngoặt phát triển. Hormats nói: "Mỗi khi có người hỏi tôi, làm sao có thể tạo ra thay đổi chính trị ở nước Nga?" "Tôi thường đáp lại rằng đó là một quá trình kéo dài chín tháng... và sau đó là 21 năm. Nước Nga đang ở quãng giữa giai đoạn này."
Những gì đang xảy ra thời hiện tại, trong khi chúng ta chờ đợi thế hệ mới, đang khiến chúng ta lo lắng. Lúc trước tôi có so sánh giữa công ty và đất nước. Có khá nhiều điểm tương đồng. Nhưng có một điều mà đất nước không bao giờ giống như công ty. Công ty có thể lên, xuống và biến mất. Đất nước có thể lên, xuống, nhưng bao giờ cũng còn đó. Chúng còn đó và bị thua thiệt què quặt. Nhưng hãy tưởng tượng IBM bị phá sản nhưng vẫn nằm ngổn ngang trên thị trường: các giám đốc và nhân viên thất nghiệp, thiếu lương, đi lại lừa đảo những khách hàng cũ đồng thời giở trò ném đá phá phách những công ty khác vốn là địch thủ của họ.
Một lý do khiến cho toàn cầu hóa thời kỳ trước 1914 bị đổ vỡ thành Chiến tranh thế giới thứ nhất, là hành vi của Đế chế Áo-Hung, một nhân tố chủ chốt trong cán cân lực lượng ở châu Âu. Đế chế này đã phải chịu đựng trong một thời gian dài sự băng hoại quyền lực của nó, xói mòn quyền lực từ mức chậm lên đến mức nhanh chóng vào giai đoạn 1909-1914. Đế chế này lúc đó cảm thấy họ bị ra rìa cuộc đua giữa các cường quốc về kinh tế, chính trị và quân sự. Thay vì im lặng chịu sự tủi nhục, nó đã ứng xử như một tay cờ bạc có vũ trang trong một canh bạc mà hắn biết sẽ không thắng được. Hắn đạp đổ bàn và nổ súng. Trong trường hợp của Áo-Hung, họ đã liên kết với Đức để hủy diệt Serbia trong một cuộc chiến khu vực, hiểu rằng từ đó sẽ làm bùng nổ cuộc chiến lớn hơn với nước Nga.
Nếu Serbia, Albania và Algeria cùng hợp lực gây rối thì mọi thứ sẽ loạn, nhưng nó sẽ không ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Nhưng điều chúng ta không thể lường được đó là hậu quả sẽ ra sao nếu những nước lớn như Nga, Nhật hay Trung Quốc không chấp nhận toàn cầu hóa trong khi kho vũ khí của họ vẫn còn đầy. Robert A. Pastor, nhà khoa học chính trị nhận xét trong cuốn sách của ông Chuyến đi dài một thế kỷ: Các cường quốc định hình thế giới, đã nhận xét thách thức mà toàn cầu hóa ngày nay phải đương đầu trên thực tế giống như thách thức mà hệ thống Versailles gặp phải sau Chiến tranh thế giới thứ nhất: Làm thế nào chúng ta hội nhập những kẻ thua cuộc vào cùng chốn với những kẻ thắng cuộc? Hòa ước Versailles làm việc đó rất tồi và gây nhiều căm giận - đến mức nó âm ỉ những hạt giống cho Chiến tranh thế giới thứ hai. Hòa ước sau Chiến tranh thế giới thứ hai làm điều đó rất giỏi khi hội nhập hai nước thua cuộc chủ chốt - Đức và Nhật Bản - điều đó khiến duy trì được ổn định ở châu Âu và châu Á.
Trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, câu hỏi sẽ là: Làm thế nào để hội nhập những kẻ thua cuộc trong Chiến tranh Lạnh vào một hệ thống toàn cầu hóa được thị trường tự do điều tiết trong đó gồm các quốc gia hầu như dân chủ? Pastor nói đây là một việc đặc biệt khó khăn vì nền hòa bình ngày nay rất khác với thời gian sau Hòa ước Versailles: chiến thắng của các đồng minh phương Tây không phải là không có điều kiện. Phương Tây đã không chiếm giữ Nga và Trung Quốc, chính vì thế không có nhiều khả năng trực tiếp định hướng và gây ảnh hưởng toàn diện đối với nền chính trị trong nội bộ các nước đó. Thực trạng của các nước giờ đây hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngày nay lại lệ thuộc rất nhiều vào việc hội nhập thành công của các quốc gia như Nga và Trung Quốc. Yếu tố then chốt của sự ổn định quốc tế, theo Pastor, là "những kẻ thách thức hệ thống phải hiểu rằng điều quan trọng đối với họ là bảo tồn cho được hệ thống, chứ không phải lật đổ nó." Giờ đây cần phải nói cho nước Nga và Trung Quốc hiểu được điều đó. Nhưng nếu sự hội nhập trở nên quá khó khăn đối với hai nước này hay những nước khác? Liệu những quốc gia không thể sản xuất được các chíp vi tính có đi gây rối không?
Đây không phải là vấn đề dành riêng cho các nước đang phát triển hay các nước thiêú kỹ năng. Đó cũng là vấn đề của cả các nước có khả năng sản xuất chip vi tính. Có một vấn đề khác bên cạnh vấn đề mang tên "gian khổ quá": đó là vấn đề "đi nhanh qua." Nhịp thay đổi trong toàn cầu hóa ngày nay nhanh lắm, sự đòi hỏi phải thành công đến rất sớm, không ai còn có cảm giác đứng vững trên một nền móng chắc chắn so với cái thời mà cha mẹ của họ phải chịu đựng những bức tường rào trên thế giới, thời đó, với một tấm thẻ nghiệp đoàn và một công việc biên chế suốt đời đã được hưởng một sự ổn định nhất định. Sau khi ấn bản thứ nhất của cuốn sách này ra đời, tôi đã nhận được một bức thư đầy cảm động từ một phụ nữ ở Roanoke, Illinois. Bức thư bày tỏ rất hùng biện một nỗi lo mà tôi thường được nghe, mà tôi cũng rất khó tìm được câu trả lời dễ dàng: Điều gì sẽ xảy ra nếu tốc độ thay đổi mà hệ thống ngày nay đòi hỏi, vượt quá khả năng của cá nhân, công ty và đất nước? Nội dung bức thư đó như sau:
Ông Friedman thân mến, tôi hy vọng thư này đến được tay ông và tôi hy vọng ông có thể giải đáp cho tôi một điều bí ẩn. Tôi đã dự nhiều cuộc nói chuyện của ông, đầy ấn tượng, đến mức đi mua cuốn sách của ông. Tôi đọc nó nhiều lần nhưng vẫn không tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi của tôi: Tôi đứng vào chỗ nào trong cái thị trường ngày nay? Chồng tôi và tôi xưa nay cố gắng tự làm ăn nhưng không mấy thành công. Năm 1984, tôi theo học đại học; ở đó tôi ham thích, tiếp thu tất cả các môn học mà tôi có khả năng chi trả, bao gồm vi tính, kinh tế, cổ phần, doanh nghiệp và kế toán. Kinh tế địa phương lúc đó suy thoái nặng nề, vì nếu Caterpillar gặp khó khăn thì mọi người cũng gặp khó khăn. Việc làm mà tôi tìm được đã không giúp gì được tôi và đến mức tôi phải nghỉ hưu. Trong thời gian đó, chồng tôi bắt đầu mở dịch vụ vi tính tự lắp và lần đầu tiên đã kiếm ra tiền. Nhưng sự xuất hiện của loại máy vi tính có giá thấp hơn 1.000 đô-la đã khiến dịch vụ của chồng tôi thua thiệt dần. Chúng tôi hiểu tất cả những yếu tố thiết yếu về kinh doanh, bao gồm cả Internet và vi tính nhưng vẫn không tìm được chỗ đứng trong thị trường toàn cầu. Chúng tôi hiểu khái niệm bán "như thế nào" nhưng chúng tôi chưa biết sẽ bán "cái gì". Ví dụ, tôi có đủ công cụ để viết một tiểu thuyết rất hay của Mỹ, nhưng chúng tôi không có năng khiếu... Khi những nhà triệu phú gieo hạt giống của họ vào thị trường chứng khoán, thì chúng tôi phá sản. Làm thế nào để những con người bình thường tìm được chỗ đứng trong thị trường? Không chỉ riêng chúng tôi gặp khó khăn đó. Chúng tôi có rất nhiều bạn bè cũng đồng cảnh ngộ, băn khoăn rằng điều gì đã xảy ra và sắp tới sẽ đi đến đâu. Có lẽ xin ông giải đáp cho điều này vào lần sau.
Ước gì tôi có được một giải đáp giản đơn. Dường như ngày nào cũng xuất hiện bài vở trên báo chí cảnh báo nhân công và các sếp của họ về việc cắt giảm biên chế, đào tạo kỹ năng mới, sa thải kỹ năng cũ, kết nối mạng, chạy nhanh hơn, linh hoạt hơn, sẵn sàng loại bỏ những gì cũ kỹ và mới mẻ, đưa vào những gì mới mẻ hơn để theo kịp nhịp toàn cầu hóa. Điều khó khăn là dường như hệ thống mới có chu kỳ thay đổi trong vòng sáu tháng, như thế nhanh quá và khó khăn quá thậm chí đối với những người được huấn luyện đầy đủ, chưa nói đến những người không được đào tạo. Dân chúng sẽ phản ứng ra sao nếu họ cảm thấy toàn cầu hóa quá gian khổ, chạy quá nhanh trong một giai đoạn quá dài.
Kết nối chặt chẽ quá
Một cách khác khiến cho toàn cầu hóa đe dọa chính nó là khi hệ thống này đuợc bôi trơn và kết nối quá chặt chẽ với thế giới, khiến cho những nhóm nhỏ dân chúng - dù đó là người đầu tư hay những kẻ được trao quyền - có thể có những hành vi thái quá gây họa cho toàn bộ hệ thống. Nếu gặp những ngân hàng đầu tư trên phố Wall ngày nay, họ sẽ kể cho bạn về những sửng sốt họ cảm nhận được trong thời gian các thị trường tan chảy (tháng tám tháng chính năm 1998), khi thấy hệ thống thế giới được kết nối chặt chẽ ra sao. Không một mô hình tiên liệu rủi ro nào của họ - dựa trên những trường hợp tương tác giữa đầu tư và sự kiện trong quá khứ - dự đoán được những chuỗi phản ứng xảy ra năm 1998. Sự việc đó đã phá hỏng khái niệm đa dạng hóa để phân tán rủi ro. Các công ty cho rằng họ đã đa dạng hóa bằng cách đầu tư qua nhiều công cụ, có mức đáo hạn khác nhau, dùng nhiều loại tiền, thông qua nhiều hàng hóa vào nhiều nước khác nhau... đã nhanh chóng nhận thấy rằng tất cả các hoạt động đầu tư của họ nằm trong một dây chuyền được ràng buộc chặt chẽ, và khi dây chuyền đó đổ bể thì các công ty đó không tài nào thoát ra được. Mỗi mắt xích trong dây chuyền đó kéo theo các mắt xích khác. Do toàn cầu hóa mà chuỗi dây chuyền đó được nối dài, dài thêm, ngày mỗi ngaỳ, giằng kết vào nhau chặt chẽ hơn. Và sự thật phũ phàng là ở chỗ chúng ta vẫn chưa hiểu được sự kết liên như vậy sẽ có lợi gì, hay làm thế nào để tự bảo vệ nếu một trong những mắt xích yếu đi rồi đứt đoạn. Những quan hệ tương tác đó không chỉ xuất hiện trên thị trường tài chính mà đã xuất hiện trên màn vi tính trong dạng thức con bọ 2000. Các máy tính được lắp ráp với hệ thống đồng hồ - lịch kỹ thuật số với sáu ký tự - 2 dành cho ngày, 2 dành cho tháng và... bạn đoán đúng rồi, 2 dành cho năm: vậy loại lịch này sẽ chấm dứt vào ngày 31/12/99. Vậy khi lịch này nhảy sang ngày 1 tháng giêng năm 2000, thì thay vì lịch ghi là 01/01/2000, máy tính sẽ hiện thị 01/01/00 và hiểu đó là năm 1900. May thay với những sự chuẩn bị sớm sủa và mua sắm máy tính mới, các công ty và đất nước đã giải quyết được thứ bọ Y2K đó. Giao thừa năm 2000, thay vì là một cơn ác mộng, đã trở thành một sự kiện cho chúng ta liên hoan.
Chúng ta sống qua được nỗi đe dọa Y2K không có nghĩa là đã bỏ lại đằng sau những khó khăn do sự kết nối chẵt chẽ gây ra. Hãy nghĩ về thực tế sau đây: Khi một vụ nổ hạt nhân xảy ra trên tầng không, nó tạo ra một xung điện từ trường cực lớn. Vậy nếu có một kẻ khủng bố hay một quốc gia bất trị cho nổ một hỗn hợp hạt nhân trên không phận của nước Mỹ thì nó sẽ làm ngưng trệ và tan rã toàn bộ số máy tính trong nước mức so với Y2K thì Y2K chỉ là một giấc mộng đẹp. Tim Weiner, trong cuốn sách Séc khống của anh về những chương trình bí mật của Chính phủ Mỹ, giải thích về hiện tượng này: "Một đầu đạn hạt nhân phát nổ trên không trung cách bang Omaha 300 dặm sẽ ngay lập tức phát ra xung điện từ trường gồm các sóng hạt điện tử đánh gục toàn bộ nước Mỹ từ bờ biển đông sang tây. Toàn bộ các hệ thống điện tử, radio và tập hợp các máy tính trong nước sẽ chịu một hiện tượng sét đánh nhân lên một triệu lần. Một xung điện lên tới 50 vạn volt/m sẽ được chuyền qua toàn bộ các lưới điện. Hiện tượng đó được phát hiện năm 1962, khi nước Mỹ cho thử ba đầu đạn hạt nhân trên bầu trời Thái Bình Dương. Mặc dù vụ nổ ở cách đảo Hawaii 800 dặm trên không trung, đã khiến cho đèn đường ở Oahu tắt ngấm và các loại chuông báo động ở Honolulu rung ầm ĩ." Không giống như Y2K, chấn động của xung điện từ trường đó, Weiner cho biết, vẫn là điều mà các kỹ sư gọi là "một ẩn số thường thấy" - một ẩn số mà ai cũng biết nhưng không ai giải đáp được.
Một lý do nữa khiến cho việc kết nối chặt chẽ quá sẽ gây khó khăn cho chúng ta. Đó là nếu chúng ta bị kết nối quá chặt chẽ thì những quan hệ và hành vi xã hội của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng. Một hôm, ngồi bên bàn làm việc, nhận được một mẩu tin trên thông tấn AP đánh đi từ Israel. Mẩu tin nói một người đàn ông Israel "bị cảnh sát chặn lại trong khi lái xe trong thị trấn Netanya, hai tay cầm hai điện thoại di động để nói chuyện. Anh chàng này dùng khuỷu tay để giữ tay lái, nhật báo Haaretz cho biết. Một nữ cảnh sát tình nguyện đã chặn xe của anh chàng này khi thấy chiếc xe Mitsubishi màu xám của anh ta chệnh choạng lái trên đường."
Tôi không thể tìm được một ví dụ nào lột tả hay hơn về sự kết nối thái quá của anh chàng người Israel đó, hai điện thoại di động gắn vào hai bên tai, khuỷu tay tì lên tay lái xe hơi. Đây là một thứ vi rút trong các nước phát triển. Đó là sự phấn khích trong xã hội khi viễn thông được kết hợp với "Evernet" - công nghệ cho phép mọi người lên mạng ở mọi nơi mọi lúc, truy cập Internet bằng đồng hồ, điện thoại di động, xe hơi, lò nướng bánh mì hay máy nghe nhạc walkman.
Loại vi rút sinh ra từ sự kết nối quá mức hiện đang tràn lan hàng ngày và hiện chưa có cách nào chữa trị. Một hôm đang ngồi với con gái trong một tiệm ăn dạo mùa hè năm 1999 tôi trông thấy hai gia đình ngồi hai bên bàn của tôi. Hai ông bố của những gia đình đó nói chuyện trên điện thoại to tiếng như đang ngồi trong văn phòng của họ vậy. Lúc đó tôi chỉ muốn hét lên, "Này, tôi đang trong kỳ nghỉ phép. Tôi cố chạy trốn khỏi công việc và không muốn vào ngồi trong văn phòng của các vị. Tôi không muốn nghe về những trục trặc trong công việc của các vị. Tắt điện thoại đi!" Tháng 10 năm 1999, tôi ở Chicago, tham dự lễ cắt bao quy đầu, một tục lệ Do Thái, cho cháu của họ của tôi. Hôm đó ngay trước lúc người giáo sĩ Do Thái sắp làm lễ, thì một chiếc điện thoại di động reo chuông. Chúng tôi nhìn xung quanh xem ai là thủ phạm phá rối giây phút thiêng liêng này. Nhưng hóa ra thủ phạm chính là vị giáo sĩ nọ. Ông ta bỏ dao xuống và lôi trong túi ra chiếc điện thoại di động đang reo chuông. Và tôi càng thấy mình có cái lối phản ứng trước những người có điện thoại di động giống nhưng cái lối tôi phản ứng với loại người hút xì gà trong tiệm ăn - giận dữ.
Tôi tha thiết mong đến một ngày mà các tiệm ăn cho dựng tường cách âm. "Quý vị có điện thoại di động hay không?" người hầu sẽ hỏi thực khách trước khi xếp chỗ cho họ. Tôi cũng tha thiết mong một ngày nào đó hãng Motorola cho ra một sản phẩm cho phép bạn gây nhiễu chặn tất cả các điện thoại di động xung quanh bạn, dễ dàng như bấm điều khiển từ xa để mở garage vậy. Zap! không còn những tiếng chuông điện thoại trong bán kính ba chục bước chân. Xin lỗi. Không có gì phải ngạc nhiên khi sự kết nối quá mức đang trở thành con vi rút trong thời đại Internet. Vì khi Internet và toàn cầu hóa giúp cắt ngắn thời gian và cự ly, giúp đắc lực cho công việc làm ăn, thì chúng cũng làm cho người ta sợ sự cô độc. Báo The New Yorker có lần đã miêu tả điều đó bằng một tranh biếm họa. Tranh vẽ một người đàn ông đưa tình nhân từ tiệm ăn quay về cửa căn hộ chung cư của cô này. Cô này nắm chặt tay anh ta và nói, "Em rất muốn mời anh vào nhà, anh Howard, nhưng thị trường chứng khoán Hồng Kông sẽ mở cửa giao dịch trong mười phút nữa." Thời gian và khoảng cách cho phép chúng ta có những vùng đệm trong cuộc sống, nhưng khi bạn xóa bỏ chúng, bạn sẽ không còn không gian cho riêng bạn. Nhiều giáo sĩ Do Thái giáo đã viết thư cho tôi nói họ tin và hy vọng rằng nhờ có sự kết nối chặt chẽ mà con người ta nay trở nên quý trọng ngày nghỉ Sabbath hơn. Hình ảnh một ngày nghỉ ngơi thanh thản, xa lánh những điện thoại di động, nay trở nên có sức cám dỗ mới.
Một người bạn làm việc trên phố Madison nói với tôi rằng thời trước khi có điện thoại di động và máy nhắn tin, nếu có ai đó gọi cho anh ta ở văn phòng và không gặp anh, thì cô thư ký chỉ cần nói, "Allen đi ra ngoài rồi." Giờ đây khi gọi đến văn phòng, nếu cô thư ký nói là anh ta đi ra ngoài thì khác sẽ đề nghị, "Vui lòng nối cho tôi vào máy di động của anh ta hay hãy nhắn tin cho anh ta ngay cho tôi." Điều người ta mong đợi giờ đây lúc nào cũng có thể kết nối liên lạc với anh ta - không thoát được. Giờ đây lúc nào bạn cũng có mặt và sẵn sàng. Và nếu lúc nào cũng sẵn sàng thì bạn sẽ trở thành một máy vi tính. Bạn sẽ không được ngưng nghỉ. Giờ đây có bao giờ bạn nghe có người nói, "Đợi tôi ngủ chút đã?" Không còn thời gian hay không gian để có thể ngủ để quên chuyện gì đó đi một lúc. Một quản trị viên phố Wall có lần đã nhận xét với tôi rằng có thời anh ta rất thích sang Nhật Bản, sang đó làm việc cả ngày rồi tối đến sẽ thưởng thức ở các tiệm ăn rất ngon lành ở Tokyo. Nhưng giờ đây, với sự tiến bộ trong thông tin liên lạc, anh ta vẫn phải làm việc cả ngày, và đến lúc chuẩn bị đến các tiệm ăn sushi thì, từ New York, máy fax, nhắn tin và điện thoại di động thi nhau gọi sang. "Trong năm năm qua, tôi không ra được đến bên ngoài để đi ăn tiệm ở Tokyo," anh ta nói. "Giờ đây có khi tôi phải làm việc tới 19 tiếng mỗi ngày, mỗi khi sang đó."
Có lần tôi phỏng vấn một viên chức quốc phòng cao cấp người Anh và được nghe ông ta kể, có lần ông phải đặt máy điện thoại di động vào băng chuyền X-quang ở sân bay rồi quên không nhặt lên. Năm phút sau chạy lại thì người nhân viên an ninh sân bay nói có hai cuộc gọi đến điện thoại đó, trong vòng năm phút. Cả hai cuộc gọi đều từ một viên chức quốc phòng cao cấp khác. "Cha này có thể đã phát động một cuộc chiến tranh nếu hắn trả lời không khéo," viên chức này nói về người nhân viên an ninh sân bay, người nhặt và trả lời điện thoại hộ ông ta.
Tôi quên không hỏi viên chức quốc phòng đó rằng lúc đó ông ta đang đi công việc hay đang đi nghỉ, nhưng có lẽ chính ông ta cũng không phân biệt được sự khác nhau của hai việc đó. Khi chúng ta được kết nối liên lạc suốt ngày đêm thì ranh giới giữa công việc và nghỉ ngơi không còn nữa. Những bậc cha mẹ đi làm sẽ có thêm thời gian ở bên con cái. Trên lý thuyết thì điều đó đúng. Nhưng trong thực tế thì nhiều khi ngày làm việc sẽ dài ra chừng 19 tiếng đồng hồ. Tôi có một người bạn làm công việc của chính phủ về ngành pháp chế - đầy sức ép. Anh ta nói thường hay được về nhà sớm và được ở nhà vào ngày cuối tuần; với điện thoại di động, anh ta có thể tranh thủ làm việc tại nhà và ở bên con gái nhiều hơn. Mặc dù điều đó có nghĩa là cứ 20 phút đến 2 tiếng, anh ta lại phải nói chuyện điện thoại. Nhưng anh ta nói như thế cũng chịu được. Nhưng cô con gái thì không chấp nhận điều đó. Cháu buồn bã và đã nói với bố, "Bố ơi, có lẽ bố cứ đến sở còn hơn."
Tôi ủng hộ ý kiến của cô con gái đó, mặc dù thỉnh thoảng tôi cũng mắc cái tật giống bố của cháu. Đó mới là chuyện nhỏ. Trục trặc Y2K trên máy tính chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Nhưng con vi rút kết nối Y2K về mặt xã hội sẽ còn hoành hành trong chúng ta trong một thời gian dài. Nói cho công bằng thì cũng có những cái lợi - giao tiếp tốt hơn với hàng xóm láng giềng và kết hợp thời gian giữa công việc và nhà cửa hợp lý hơn. Tóm lại nó liên quan tới sự cân đối. Nếu cán cân nghiêng về sự kết nối thái quá, nếu con người ta cảm thấy hệ thống mới khó tiêu quá, thì họ sẽ nổi xung.
Con người trở nên cô đơn quá
Một trong những nghịch lý trong thế giới ngày càng được kết nối là hiện tượng chính cái thế giới này lại làm chúng ta càng trở nên cô đơn hơn. Bởi vì càng kết nối vào hệ thống thì chúng ta càng có điều kiện làm việc một mình, đâu cũng được: ở nhà riêng, nơi nghỉ mát, hay ở những vùng châu Phi xa xôi. Càng nối mạng thì con người càng trở nên tự do hơn, để hoạt động một mình. Một người bạn của tôi làm việc cho một hãng tư vấn lớn, và trong thời gian gần đây khi có những sự sáp nhập toàn cầu hóa, anh ta không còn văn phòng để làm việc. Hãng này đưa ra giải pháp luân lưu nơi làm việc: mọi người chia nhau sử dụng bàn làm việc, ai có việc thì người đó dùng bàn. Tất cả các hồ sơ được lưu trữ trên mạng nội bộ và nhân viên làm việc đến đâu thì truy cập thông tin từ mạng đến đấy. Trên lý thuyết thì làm như thế đầy hiệu quả nhưng người bạn tôi phàn nàn là công việc của anh ta giờ đây không còn hứng thú như trước nữa.
"Khoảng 20 năm nay tôi đã và đang tư vấn pháp lý cho một hãng lớn," anh bạn này kể. "Tôi chưa đến nỗi già, nhưng nhớ lại thời xưa (những năm 80) nếu gặp phải một vấn đề nan giải, bạn sẽ bước đến cuối hàng lang nơi có bình nước lọc, gặp ai đó và nói, " Tôi có chuyện này khó giải quyết liên quan tới công ty này. Họ muốn đẩy bớt tài sản theo hướng này. Nhưng có những chi phí mà chúng ta cần tính cho kỹ. Theo anh/chị, thì phải làm gì bây giờ?" Và một trong những đồng nghiệp của bạn sẽ nói rằng cách đây một hai năm chúng ta đã làm như thế này thế nọ, rồi có ai đó đi ngang qua và nói, không, không hẳn như thế, mà là thế này. Và có thể một anh bạn khác - Bill chẳng hạn, là một chuyên gia và sẽ cho bạn một lời khuyên. Bạn tự giải quyết vấn đề nhưng thông qua những bàn bạc thân mật với đồng nghiệp. Giờ đây phân nửa nhân viên như chúng tôi không có văn phòng để làm việc. Tôi thậm chí không có cả bàn ghế để ngồi riêng. Chúng tôi chia nhau dùng chung các bàn làm việc để tiết kiệm diện tích văn phòng. Không còn bình nước lọc, không còn Bill lúc nào cũng có mặt, vì giờ đây anh ta làm việc tại nhà, nhờ có kỹ thuật nối mạng điện thoại. Tôi tin rằng Bill giờ đây có cuộc sống tốt hơn vì anh ta có thể ngồi nhà làm việc. Và những giải đáp cho các vấn đề hầu hết được chứa trong các máy tính, nhưng đòi hỏi là bạn phải biết cách tìm ra chúng. Điều khiến bạn nhớ nhất là cái lối Bill nói năng, "Anh có thể giải quyết vấn đề này như thế này, theo lý thuyết. Nhưng anh phải cẩn thận ở điểm này." Đó là những điều mà bạn không thể tìm được trên các trang tìm kiếm. Tất nhiên là bạn có thể email Bill ở địa chỉ "Bill.com" và anh ta sẽ cho bạn những lời giải, nhưng như thế không thể hứng thú như xưa."
Vài tháng sau khi nói chuyện với người bạn đó, tôi thấy một quảng cáo cho một công ty phần mềm vi tính mang tên Office.com, có phương chậm: "Nhiều thông tin hơn mức thu thập được trong lần đi đến phòng uống nước." Tôi nghĩ, quả là chẳng có gì hứng thú trong chuyện đó.
Và thực tế rồi cũng chẳng có gì khấm khá hơn. Cầu thủ bóng chày hay bóng rổ rồi sẽ không phải là những tay làm ăn đơn lẻ - giờ đây ai ai cũng bị xô đẩy từ công việc chỗ này sang công việc chỗ khác, từ nhóm này sang nhóm kia, công ty này sng công ty khác, mọi người trở thành thợ tự do thời kỹ thuật số.
Tại sao đến nông nổi này? Nicholas G. Carr, biên tập viên của báo Harvard Business Review, tóm lược hiện tượng trên trong số báo tháng 6/1999: "Mô hình về tổ chức công nghiệp cũ - nhóm đông nhân viên làm việc có phối hợp - vốn dĩ đứng vững trên thế giới [có tường rào]. Nhưng ngày nay, mô hình này không còn hợp lý. Quá đắt đỏ và năng suất thấp. Để cho công việc chạy nhanh giữa các nhóm nhỏ, tạm thời, để những nhóm đó tự tổ chức và phối hợp đáp ứng những kích thích của thị trường, đã trở nên phương pháp mang tính hiệu quả hơn nhiều... Trong nền kinh tế mới, các công ty cần theo đuổi sự uyển chuyển và linh hoạt. Nhưng điều đó đối với bản thân các nhân viên thì có hợp lý không?"
Carr đưa ra câu hỏi đó khi luận bàn về cuốn sách mang tính khiêu khích của nhà xã hội học Richard Sennett, về những phản ứng phụ nảy sinh từ cung cách làm việc ăn mảnh và linh hoạt nói trên. Cuốn sách có tựa đề Sự băng hoại về cá tính: Những hậu quả của công việc lên cá nhân trong chủ nghĩa tư bản mới. Carr nhận xét: Linh hoạt dẫn đến sự thiếu gắn bó. Một công ty làm ăn linh hoạt sẽ phải sẵn sàng loại bỏ các chiến lược, sản phẩm và nhân viên, và thậm chí khách hàng của mình để bước vào một thị trường mới hứa hẹn hơn hoặc thích nghi với cung cách làm ăn hiệu quả và có lợi hơn, giống như công ty của anh bạn tôi kể trên. Nhưng xây dựng những mối quan hệ và cộng đồng, bám giữ lấy cây ô liu - trang trí bàn làm việc của bạn, gọi nó là gia đình khi bạn xa nhà - là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của con người ta. Toàn cầu hóa, một nơi mà chúng ta thường xuyên bị đòi hỏi phải phá vỡ các quan hệ cũ, tự nâng bản thân chúng ta, chú trọng vào ngắn hạn và giữ mức linh hoạt... tất cả điều đó khiến chúng ta cảm thấy trôi nổi và tạm bợ. Nói theo lối của Sennett, Carr cho rằng chúng ta đang bị dồn tối cảnh "không rõ chúng ta là ai và phải làm gì. Tựu trung, điều đó làm xói mòn nền móng xã hội. Chúng ta không còn gắn bó với người khác; chúng ta tham gia vào cùng "nhóm" với họ. Chúng ta không có bạn bè; chúng ta chỉ còn những người quen. Chúng ta không còn là thành viên gắn bó cùng chịu đựng và cùng xây dựng cộng đồng; chúng ta là những điểm nút trong những mạng lưới luôn di chuyển... Nhưng mỗi khi tự cải tiến thì chúng ta thường xóa đi những ý nghĩa và giá trị mà quá khứ mang đến cho chúng ta. Thay vì cảm giác là con người thực với những gắn bó và quan hệ, chúng ta chỉ còn những cảm giác bị bóp méo, trớ trêu. Chúng ta trở thành người ảo."
Điều đáng sợ nhất có lẽ, Sennett nói trong cuốn sách, là kết quả của điều mà chúng ta gọi là "sự tiến bộ." Ông viết: "Điều quái lạ trong cái sự bất định ngày nay là nó tồn tại nhưng không hứa hẹn một tai họa lớn; nó tiêm nhiễm vào các họat động hàng ngày của chủ nghĩa tư bản hung hãn. Bất ổn định trở nên chuyện thường ngày." Schumpeter đưa ra khái niệm về tính thương mại "tạo ra một loại người thập toàn. Sự xói mòn cá tính có lẽ sẽ là hậu quả tất yếu."
Tất nhiên cũng cần biết là sự linh hoạt mất gốc mà Sennett mô tả, dẫu cho có khiến người ta khiếp sợ, cũng có thể mang ý nghĩa giải phóng. Và do hiện không còn nhiều tường rào để có thể bảo vệ công việc của bạn, thì cũng không còn nhiều tường rào để bạn có thể nhảy vào những công việc mới. Hơn nữa, sự linh hoạt ngày nay cũng có nghĩa là trừng phạt dành cho những kẻ thất bại không còn quá nghiêm trọng như xưa. Bản thân Carr nhận xét, "Tuy công việc vừa qua bạn làm không khéo, thì có nhiều khả năng là công việc sắp tới sẽ vừa sức và hợp với tài năng của bạn hơn."
Liệu mỗi chúng ta có tìm được một nền tảng, một bàn làm việc, một cửa hiệu, một trang web, một gia đình để bám giữ, trồng lên đó những cây ô liu, hay chúng ta đang ở trong thang máy di chuyển hết lên lại xuống, không ngừng? Dân chúng có cảm giác ra sao đối với toàn cầu hóa và liệu họ có nổi loạn chống lại nó hay không, một phần sẽ tùy thuộc vào câu trả lời đối với câu hỏi trên.
Can thiệp quá sâu và đời tư
Mùa hè năm 1999 tôi đến Chicago và ngụ tại một khách sạn thuộc một công ty khách sạn chuỗi. Buổi sáng, khi xuống bơi ở bể bơi khách sạn, tôi cầm theo chìa khóa phòng và đút vào túi quần bơi, và sau đó đã đánh rơi chiếc chìa khóa đó trong bể bơi. Vậy là tôi vẫn mặc quần bơi, ướt lướt thước đi đến bàn tiếp tân và mượn một chìa khóa khác để về phòng.
"Xin cho xem một loại thẻ chứng minh cho dán ảnh?" nhân viên tiếp tân nói.
"Không được," tôi nói. "Đang mặc quần bơi như thế này! Làm sao tôi có thể chứng minh trên người."
"Không sao," nhân viên này nói. Chị này đánh vài chữ vào bàn phím máy tính và quay ra hỏi tôi, "Hai cô con gái của ông năm nay bao nhiêu tuổi?"
Lúc đó con gái tôi không đi cùng với tôi. Nhưng cách đây một năm, tôi có đến ngụ tại khách sạn này cùng với chúng. Tôi trả lời câu hỏi của nhân viên tiếp tân và được nhận một chìa khóa phòng mới. Nhưng tôi cảm thấy buồn. Tôi không khỏi có cảm giác: Họ biết thêm điều gì về tôi và gia đình và lưu giữ trong cái máy tính đó, và họ sẽ bán những thông tin đó cho ai? Vài tháng sau, tôi nhận được một lá thư của một người bạn cũ, Richard Day, người tôi gặp ở Beirut năm 1982 nhưng đã mất liên lạc. Richard là một nhà tư vấn sống ở Dubai, và thư của anh ta viết đại để: Tôi tìm thấy địa chỉ của anh trong một trang mạng tìm người trên Internet. Tôi ngạc nhiên khi thấy nếu trả 99 đô-la thì tôi có thể kiểm tra mức khả tín của anh bao gồm trị giá của toàn bộ tài sản của anh. Tôi đã không tra 99 đô-la đó. Nhưng tôi băn khoăn không hiểu mọi sự sẽ đi đến đâu. Con trai con gái của bạn sẽ kiểm tra lẫn nhau theo cái lối đó, điều mà tôi với bạn nằm mơ cũng không thấy.
Đó chỉ là khởi đầu. Điều lệ hàng dầu trong thời đại Internet là chúng ta đều được kết nối nhưng không ai là lãnh đạo. Internet là thế giới của Orwell và trong đó không có mật vụ. Nhưng thay cho mật vụ là một loạt những tay thám tử nhỏ. Hãy cẩn thận với lũ này. Internet đã trang bị cho họ - những cá nhân, trang mạng, côngty và khách sạn - để họ có thể tập hợp rất nhiều thông tin nằm ngoài tầm kiểm soát của chính phủ. Có người sử dụng thông tin đó một cách có trách nhiệm; nhưng cũng có hạng khác rất vô trách nhiệm. Nghiên cứu năm 1999 của Trung tâm Dân chủ và Công nghệ cho thấy dưới 10 phần trăm các trang web chấp hành quy tắc về tôn trọng đời tư tự do OECD đặt ra. Quy tắc này viết: không ai được phép sử dung những thông tin cá nhân được truyền trên Internet nếu không được sự chấp thuận của cá nhân đó; có nhân có quyền sửa những thông tin sai và những thông tin của cá nhân họ phải được bảo vệ, không cho người khác lợi dụng.
Một trong những khía cạnh tích cực của toàn cầu hóa là nó tăng cường tính minh bạch trong giao dịch tài chính. Các nước và các công ty nếu muốn kết nối với Bầy Thú Điện Tử sẽ phải bộc lộ cho thị trường những điều mà trước kia họ có thể giữ kín. Và khi đất nước và công ty không còn nơi lẩn tránh thì các cá nhân cũng vậy - không còn nơi ẩn náu. Mỗi cú điện thoại, hóa đơn đòi tiền, đơn thuốc, băng video bạn thuê, số chuyến bay bạn đi lại, máy rút tiền... đều sẽ nạp thông số về giao dịch của bạn vaò hệ thống của bầy thú, và không rõ một ngày nào đó chúng có thể quay lại để làm hại bản thân bạn. Nếu bạn dan díu với Tổng thống của nước Mỹ thì tức khắc sẽ có một công tố viên đặc biệt theo dõi các cuộc điện thoại bạn gọi đến cho vị tổng thống và theo dõi những chiếc cà vạt bạn dùng thẻ tín dụng mua cho ông ta. Đã bao giờ bạn vào trang mạng khiêu dâm mang tên "Hot Sex?" Xin nhớ cho: khi vào các trang mạng ngày nay, bạn sẽ tự động được gắn cái gọi là "cookie." Cookie tương tự như một dấu tay điện tử do những trang web mà đã đã đến cài vào máy của bạn. Cookie cho biết bạn đã đến đâu, mua hàng ở đâu và làm những gì khi lên mạng, Khi một người nào đó, một người bán hàng chẳng hạn, tập trung những dấu tay đó thì họ có thể hiểu được về thói quen, sở thích của bạn và rồi họ sẽ gửi cho bạn những quảng cáo trực tiếp cám dỗ bạn.
Chẳng sao! Bạn nói. Nhưng hãy nghĩ về khả năng sau đây: Năm 1998 tôi xem một quảng cáo thương mại về một thứ gọi là Chó Giữ Nhà - một loại phần mềm cho phép bảo vệ an ninh và cài mã số cho máy tính và trang web của bạn. Quảng cáo cho thấy một người nào đó nhòm trộm qua màn cửa sổ và một giọng nói cất lên: "Internet là cửa sổ bạn nhìn ra thế giới," nhưng cũng là cửa sổ để người ta "nhòm ngó bạn." Hãy đề phòng điều đó bằng cách mua phần mềm Chó Giữ Nhà; "Nó sẽ không cho Internet lang thang vào đời tư của bạn." Vài tháng sau đó tôi thấy một mẩu tin trên truyền hình ABC đã giải thích chính xác vì sao bạn có lẽ cần mua loại phần mềm đó. Mẩu tin như sau: Một cuộc khảo sát vào mùa hè năm 1998 cho thấy "81 phần trăm dân chúng tin rằng những thông tin cá nhân, bao gồm cả mức chi tiêu tín dụng, bệnh án và các hồ sơ tài chính của họ được bảo mật." Mẩu tin này nói những tiểu bang như Texas đã đưa lên mạng những hồ sơ về tội phạm. Hồ sơ về tội phạm ở bang Texas cho phép người ta kiểm tra tội phạm nếu đánh tên riêng vào và trả 3,5 đô-la/ tên. Một công ty có trụ sở ở nước ngoài mang tên Public Data, đóng ở Anguilla, Bristish West Indies, mua từng lô các hồ sơ công và đưa vào hệ thống dữ liệu trên mạng của họ và bán với giá 3 xu đô-la một lần tìm kiếm. Public Data mời khách, một loạt các loại tìm kiếm, danh mục bao gồm hồ sơ tiền án, hồ sơ tội phạm của các tòa án và danh sách đăng ký bầu cử, hồ sơ lái xe v.v.. Còn nhiều điều tồi tệ hơn. Tháng 12 năm 1998, báo USA Today cho biêt một thứ máy tính cầm tay đang thịnh hành có chức năng lưu trữ thông số, địa chỉ và ghi chép cá nhân " có thể được lập trình để mở khóa xe hơi bằng cách sao chép các mật mã từ các loại chìa khóa tự động điều khiển từ xa, nhà sản xuất loại máy tính này đã xác nhận tin này. Với phần mềm mới, giá 369 đô-la, Palm III có thể ghi lại những thông số để mở xe hơi từ cự ly khoảng 3 mét."
Cung cách chúng ta ứng phó với những tay thám tử nhỏ đang trở thành một vấn đề chính trị. Có rất nhiều ý kiến. Một trong số ý kiến hay nhất là của Giáo sư ngành luật của Đại học Harvard Lawrence Lessig, trong cuốc sách Luật pháp, và những chế tài khác về không gian điện toán. Lessig lập luận rằng người ta đang chịu một ảo tương là đặc tính của không gian điện toán hiện nay sẽ tồn tại mãi cho tới tương lai. Nó không thể thay đổi. Nó là nơi để người ta khám phá chứ không định hình. Nhưng không gian điện toán không phải là sản phẩm của chúa trời. Kiến trúc của nó là do những người có chung mục đích xây dựng nên, những người "đã thiết kế các phần cứng trong không gian điện toán với mục đích chúng ta có được toàn quyền hưởng tự do và bảo vệ được đời tư," Lessig nói. Cấu trúc của không gian điện toán chịu nhiều ảnh hưởng của thương mại và chính phủ, "hai thế lực này hưởng lợi ở việc tìm biết về những hoạt động của con người - bao giờ, làm gì và ở đâu." Lessig nói tiếp, "Vậy thì không phải ngẫu nhiên mà những kiến trúc Internet khiến cho việc thu thập thông tin cá nhân dễ dàng hơn. Chính phủ thì muốn truy lùng mọi người, còn doanh nghiệp thì muốn thu thập thông tin của mọi người."
Theo Lessig, chính phủ không thể ấn định luật pháp về đời tư trên Internet vì họ không thể nào kiểm soát được Internet. Nhưng chính phủ có thể tạo điều kiện cho dân chúng xây dựng những hệ thống lọc lựa và bảo vệ trên Internet. "Giả sử chính phủ nói thông tin cá nhân chính là tài sản của cá nhân bạn và nếu ai đó muốn dùng thông tin đó thì họ chỉ có cách là đàm phán với bản thân bạn," ông ta nói. "Điều đó tạo điều kiện cho các nhà thiết kế trang web đứng ra giúp chúng ta đàm phán về các thông tin cá nhân của chúng ta - những gì chúng ta muốn cho không, muốn bán hay muốn giữ kín."
Quyền bảo vệ đời tư là giá trị cốt lõi của Hiến pháp. Liệu có phải chúng ta đang bước sang kỷ nguyên mà quyền cá nhân chỉ được tôn trọng trên mặt đất, trong khi có thể bị vi phạm trong không gian điện toán? Chánh án Louis Brandeis thường nói về sự cần thiết phải bảo vệ "quyền của con người trong cõi riêng tư." Nhưng khi Internet trở thành trung tâm của những hoạt động liên lạc, giáo dục và làm ăn, nó làm nảy sinh một vấn đề sâu sắc hơn: không chỉ quyền của cõi riêng tư mà là quyền ẩn thân - tránh được chuyện bất cứ cử động gì của bạn cũng bị ghi lại vào những máy tính ở đâu đó và thông tin đó được bán với giá cỡ 39 đô-la. Đó là chốn chúng ta đang đến, vì hiện nay tiến độ trong đó thông tin cá nhân của chúng ta đang được tập trung trong các kho của chính phủ và giới kinh doanh - đang tăng nhanh đến mức chóng mặt. "Tiến bộ trong điện toán cho ra một hiệu quả đúp," Báo The Economist (1/5/1999) cho biết, "không những nó cho phép thu thập những thông tin mà thời trước không thu thập được, mà nó khiến cho việc lưu giữ, phân tích và truy cập trở nên dễ dàng hơn - một điều mà cho mãi đến gần đây không ai làm nổi. Và khi máy tính trở nên nhỏ bé hơn, chạy nhanh hơn, rẻ tiền hơn và nối mạng rộng rãi hơn thì chúng trở thành những tay thám tử mạnh mẽ hơn. Nếu hiến pháp không quản lý nổi Internet, nếu dân chúng coi toàn cầu hóa là sự xâm phạm vào đời tư của người ta hơn là trang bị cho người ta tiến ra thế giới, nếu họ cảm thấy Internet lang thang vào bản thân họ hơn là họ lang thang trên Internet..., thì họ sẽ lại đi dựng tường và rào cản.
Quá bất công đối với quá nhiều người
Julia Preston, phóng viên thường trú báo The New York Times ở Mexico City vào cuối những năm 90 đã kể một câu chuyện rất hay nói về sự căng thẳng giữa kẻ thắng và người thua trong sứ mệnh toàn cầu hóa ở nước này.
"Đó là ngày Lao động Quốc tế năm 1996," Preston nhớ lại, "có một cuộc tuần hành lớn ở Mexico City. Đó là năm đầu tiên sau ngày thực hiện chương trình thắt lưng buộc bụng của chính phủ và cuộc biểu tình có số người tham gia rất đông, trong đó có một số thuộc nghiệp đoàn, những người này chống lại chương trình liên kết giữa chính phủ và nghiệp đoàn để tham gia bãi công. Tôi đi trong số những thành viên của "Công đoàn của nhân viên các trường đại học," nghiệp đoàn có lịch sử dày dạn về những hoạt động cánh tả, họ hô hét ầm ĩ lắm. Lúc đó họ hô vang "Muera Ortiz" - nghĩa là giết chết ortiz, Bộ trưởng Tài chính. Họ to tiếng và hiếu chiến lắm. Đang như vậy thì điện thoại của tôi réo, và chính Bộ trưởng Tài chính Ortiz trong máy và muốn nói chuyện với tôi. Tôi nói với ông ta là khung cảnh ồn ào quá, vì đang giữa lúc biểu tình. Tôi bước khỏi đám đông đến bên một tòa nhà cho đỡ ồn, cũng vì muốn có thời gian chuẩn bị để nói chuyện với ông ta. Tôi nói với ông ta, "Thưa Bộ trưởng, tôi phải nói rằng có rất nhiều người ở đây không chấp nhận những chính sách kinh tế của ông." Ông ta dường như bật cười và tôi nhanh chóng hiểu rằng ông ta chẳng quan tâm gì chuyện đó. Lý do ông ta gọi cho tôi là để mừng cho việc Mexico lần đầu tiên đã cho bán loại công trái loại 30 năm. Đó là lần đầu tiên từ năm [1995] khi đồng peso bị mất giá họ phát hành được trái phiếu dài hạn trên thị trường Wall, mà không cần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, và người mua rất quan tâm. Và ông ta như thế đấy - sung sướng bay cao như diều - trong khi nhiều người biểu tình hô hào muốn giết chết ông ta."
Ortiz có thể được sống thêm một ngày - và toàn cầu hóa có thể tồn tại thêm một ngày nếu như có đủ dân chúng ở Mexico cảm thấy họ được hưởng chút ít lợi ích từ toàn cầu hóa để chịu đựng thêm được. Họ có thể xuống đường để phản đối một chính sách hay đòi hỏi một điều gì đó, nhưng những người công nhân ở Mexico đã không gia nhập hàng ngũ của Phó chỉ huy du kích Marcos và những du kích quân Zapatista mong muốn tách Mexico ra khỏi toàn cầu hóa. Đúng hơn là họ chưa làm điều đó.
Lý do chính là vì Bầy Thú Điện Tử và các siêu thị tài chính, trong khi giày vò những nước như Mexico, thì cũng đã nhanh chóng khen thưởng khi họ làm ăn giỏi - mua thêm hàng từ Mexico và đầu tư thêm vào nước này ngay sau khi nuớc này tổ chức lại bộ máy kinh tế của mình. Tăng trưởng kinh tế của đất nước chính là điều đã cho phép những người như ông Ortiz cười khẩy khi nghe người ta hô hào giết, và có thể nói với các công nhân, "Cho phép tôi thêm chút thời gian và tôi hứa với các bạn là mọi sự sẽ yên ổn trở lại."
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu cùng một lúc Hoa Kỳ và Tây Âu chịu suy thoái, Nhật Bản tiếp tục trì trệ, không đủ khả năng cứu giúp những cơ sở lười nhác của họ? Bầy thú, thay vì khen thưởng Mexico, Brazil hay Hàn Quốc bằng cách mua công trái của họ, sẽ an binh bất động. Thay vì thu mua tất cả các hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển, Hoa Kỳ và Tây Âu có thể dựng lên các hàng rào bảo hộ chống nhập khẩu để cứu vãn các thị trường nhân lực của chính họ. Như thế thì toàn cầu hóa có tồn tại được không? Chúng ta chưa biết được, vì trong thập niên đầu tiên, chúng ta chưa thấy cảnh này. Nhưng đó là một thử thách thực sự đối với toàn bộ hệ thống - làm thế nào để tồn tại khi có suy thoái trong cốt lõi của hệ thống - và cho đến khi điều đó xảy ra thì chúng ta chưa thể kết luận là toàn cầu hóa có bền vững hay không.
Quá phi nhân tính
Một hôm tôi đang lái xe trên đường Beltway ở Washington, tôi nghe được một mẩu tin trên đài WTOP. Tin đặc biệt nói rằng nếu gọi đến một công ty truyền hình cáp ở New York thì sẽ có dịch vụ mới: "Nếu muốn nói chuyện trực tiếp với người, mời bạn bấm số 1."
Tôi bao giờ cũng bấm 1. Bao giờ cũng vậy. Quả thực, mỗi khi nhận được một chỉ dẫn, "Nếu bạn không có điện thoại bấm số thì vui lòng giữ máy và một nhân viên sẽ gặp bạn...," thì tôi bao giờ cũng giữ máy chờ, cho dù tôi vẫn có loại máy điện thoại bấm số. Khả năng cho phép bấm 1 chính là điều kiện thiết yếu để đảm bảo cho toàn cầu hóa thành công. Khả năng được phép chờ để nói chuyện trực tiếp với nhân viên chính là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của toàn cầu hóa. Vì ở một mức độ bạn ph3i giữ được cảm giác rằng hệ thống toàn cầu hóa sinh ra là vì con người, không vì máy móc; nếu không thì toàn cầu hóa sẽ trở nên xa lạ quá.
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không còn được phép bấm 1. Điều gì sẽ xảy ra khi toàn cầu hóa trở nên qua tiêu chuẩn hóa, quá phi nhân tính?
Ted Century, anh rể tôi là một nhà sáng chế các thiết bị y tế, có một xưởng nhỏ trong hầm nhà của anh. Ted là dạng người hiếm có, có đôi tay vàng, sáng chế rất nhiều dụng cụ tinh xảo. Khi nói chuyện với anh vào một biểu chiều về giao dịch thương mại trên mạng, Internet và công nghệ vệ tinh... vân vân, anh ta gật đầu, trầm tư và nói, "Vậy thì giá trị cuộc sống nằm ở đâu trong đó?"
Ted và chi tôi sau đó kể một câu chuyện mà họ không dễ gì quên được. "Cứ mỗi mùa hè chúng tôi thường đi từ nhà ở Philadelphia xuống vùng South Jersey để mua thực phẩm, đặc biệt loại cà chua Jersey," Ted nói. "Cà chua to, mọng và hương vị thật ngon. Có thứ gì đó thật đặc biệt trong đất pha cát ở vùng South Jersy giúp trồng cà chua và ngô rất tốt, chính vì thế mà tiệm Campbell's bao giờ cũng mua cà chua ở đó để chế biến tron món xúp của họ. Nhưng điều hay ho trong đặc tính của loại cà chua này là chúng không để lâu được, cho nên không ai dám bán chúng ra ngoài thị trường toàn cầu. Cà chua này có nhiều hình thù khác nhau và bao giờ cũng bị nứt nẻ xâú xí. Nhưng chúng rất ngon. Chúng tôi thường đến thẳng những phiên chợ của nông gia vùng South Jersey để mua từng nửa cân một. Mang chúng về làm món xà lách hoặc sốt, tôi có người bạn ăn sống quá nhiều loại cà này đến mức lưỡi của anh ta phồng rộp. Ta thường quên rằng cà chua là một loại quả, nhưng khi ăn cà chua ở vùng South Jersey, bạn nhớ lại điều đó. Vâng vào mùa hè năm 1997, khi chúng tôi xuống mua cà chua thì thấy khó kiếm quá. Đến năm sau, 1998, khi chúng tôi xuống thì không thấy loại cà này nữa. Biến mất rồi. Thay vào đó chợ nông gia chỉ có loại cà đẹp đẽ, cùng cỡ, màu hồng và ăn nhạt như nến. Và trong một phiên chợ, có một người mở thùng lạnh và cho chúng tôi xem loại cà mới, anh này giải thích loại cà chua này cho phép bảo quản lâu hơn và chuyển đi xa hơn. Cà chua quả nào cũng giống quả nào, không thấy các vết nẻ nữa. Anh nói, "Khách hàng không ưa loại có vết nẻ. Trông chúng xấu đi."
Nói đến đây, chị Jane tôi góp chuyện: "Tồi tệ hơn là người ta vẫn gọi cái loại cà công nghiệp hóa đó với cái tên "cà chua Jersey." Nói cách khác, họ đã vứt đi giống cà cũ nhưng vẫn giữ lại tên gọi, mặc cho loại cà mới hình thức và mùi vị không giống như xưa! Tôi cảm thấy rất buồn về điều này. Nó làm cho tôi cảm thấy mình mất đi vĩnh viễn chút ít giá trị thực sự trong cuộc sống. Tôi cảm thấy như tương lai là thế. Những điều độc đáo trong cuộc sống nay bị biến thành đồ nhựa nhân tạo."
Đến cuối cuộc trò chuyện, ông anh rể tôi nói, "Suy nghĩ đầu tiên đến với tôi sau khi đi mua cà chua về, khi không còn mua được cà đó nữa, là lên Internet để tìm xem có còn ai trồng loại cà chua đó không. Chắc chắn phải có người giữ lại giống cà đó."
Suy đoán của Ted hóa ra rất chuẩn xác. nếu còn có một thị trường cho loại cà đó, và nếu hạt giống của chúng vẫn còn, nếu có những nông dân dùng Internet mở một trang webwww.tomatoes.Jerseybeefsteak.com - một tài khoản chuyển phát nhanh và một chương mục tín dụng, thì có thể dùng máy tính để đặt mua giống cả độc đáo đó từ nhà của bạn. Trả tiền bằng thẻ tín dụng, giao hàng tại nhà vào ngày hôm sau - tôi hy vọng như vậy.
Và tương lai của toàn cầu hóa chính phụ thuộc vào khả năng đó.
Cung cách chúng ta tập cân đối giữa sự tăng cường sức mạnh và nhân tính của toàn cầu hóa, với những yếu tố phi nhân tính và gây hại, cũng của toàn cầu hóa, sẽ quyết định cho tương lai nó sẽ bị đảo ngược hay không: Liệu nó chỉ là một giai đoạn quá độ hay sẽ trở thành một sự tiến hóa bền vững.
Tháng 7/1998, tạp chí The New Yorker đăng một tranh biếm họa trong đó có hai con quỷ từ địa ngục râu ria xồm xoàm, tóc dài; một mặc áo phông có đầu lâu xương chéo, một ngồi trên chiếc xe máy. Hai quỷ hỏi nhau ngày hôm đó chúng làm ăn ra sao. Một con quỷ trả lời: "Hôm nay ra sao à? Tiên tiến kéo giúp chậm tiến."
Toàn cầu hóa cũng như vậy đó. Bao giờ cũng phải cân đối, chan bên này bớt bên kia chút ít. Nhiệm vụ của những công dân của thế giới như chúng ta là đảm bảo cho đa số dân chúng cảm thấy rằng những điều mới mẻ tiến bộ đang dẫn đầu và vực dậy và hỗ trợ những gì chậm tiến. Chỉ như thế toàn cầu hóa mới bền vững. Và không một quốc gia nào có nhiều trách nhiệm và cơ hội để làm điều đó hơn nước Mỹ.
Chương 20

Nếu một xã hội tự do không giúp gì được cho dân nghèo thì cũng không thể giúp cho cái thiểu số giàu có tồn tại.
- John F.Kennedy
Mùa đông năm 1996 tôi tháp tùng bà Medeleine Albright, Đại sứ của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc thời đó sang những vùng chiến sự ở châu Phi, nơi triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi đến những vùng nội chiến ở Liberia, Angola, rwanda và burundi. Dừng chân chặng cuối ở Rwanda, bà Albright đề nghị nhân viên và phi hành đoàn của chuyên cơ Boeing 737 chụp ảnh chung ở đường băng sân bay quốc tế kigali. Chiếc chuyên cơ sơn màu trắng sọc xanh giống chuyên cơ Airforce One của Tổng thống Hoa Kỳ với dòng chữ "United States of America". Nhân viên và phi hành đoàn đứng dọc theo bậc thang và dưới cánh máy bay. Trong số họ có người Mỹ gốc Hy Lạp, gốc Czech, Do Thái, da đen và da trắng. Có những nhân viên phi hành đoàn quê ở các làng quê và những chuyên viên của Bộ Ngoại giao tốt nghiệp Đại học Ivy, tất cả đứng bên nhau sát cánh. Là một phóng viên, tôi không nghĩ mình nằm trong đội ngũ đó, tôi đứng sang với các nhân viên Rwanda, quan sát cuộc chụp ảnh. Những người Rwanda tỏ ra ngạc nhiên trước cảnh chụp ảnh. Tôi có cảm giác băn khoăn: không rõ họ nghĩ gì khi thấy một tập hợp đẹp nhất tượng trưng cho nước Mỹ như vậy: tinh thần cộng đồng, sự gắn bó và sẵn sàng đó nhận những người dân tha hương, sự tự do và cơ hội cho những con người muốn vươn lên những vị trí cao và quan trọng nhất; khái niệm công dân dựa trên sự trung thành với một tư tưởng chứ không phải một bộ tộc. Bức ảnh đó tượng trưng cho điều mà đất nước Rwanda chưa đạt tới. Rwanda vừa bước ra khỏi một cuộc nội chiến giữa các bộ tộc - cùng thuộc Rwanda nhưng bộ tộc người Hutu đã kình chống bộ tộc Tutsis - trong đó một triệu người đã bị giết, một số trong bọn họ đã bị chém chết bằng mã tấu. Rwanda chỉ toàn là cây Ô liu mà không có xe hơi Lexus, một đất nước cây cối cằn khô, gốc rễ chèn ép lẫn nhau mà không đâm chồi ra hoa lá.
Đứng trên đường băng sân bay nhìn cảnh đó, tôi cảm thấy giận dữ - không phải vì tấn thảm kịch ở châu Phi - mà vì cuộc tranh cãi về ngân sách trong Quốc hội Hoa Kỳ. Đối với tôi lúc đó cũng như giờ đây, dường như nước Mỹ đã và đang nắm giữ được một điều gì đó thật phi thường. Nhưng nếu muốn bảo tồn nó, thì nước Mỹ cẫn phải trả tiền và phải vun trồng nó. Nhưng khi tôi nghe những tân nghị sĩ thuộc Đảng Cộng Hòa lứa 1994 phát biểu với những giọng nói hằn học, giọng nói không chịu nhượng bộ, giọng nói làm như thể Chính phủ Mỹ là một thứ ma quỷ gì đó. Tôi nghe thấy giọng nam và nững khăng khăng kêu gọi hãy để cho thị trường duy nhất quyết định, những người đó nghĩ rằng lợi thế kinh tế sẽ đến tường thương mại tự do và toàn cầu hóa, và thế giới sẽ tự lo lấy bản thân nó. Tôi đã nghe những luật sư cho rằng nước Mỹ không có trách nhiệm gì đặc biệt trong việc duy trì các định chế toàn cầu, như Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới hay IMF, những định chế quyết định sự ổn định của một hệ thống quốc tế mà trong đó nước Mỹ được hưởng lợi hơn các nước khác nhiều.
Vậy khi đứng trên đường băng sân bay Kigali suy nghĩ về những điều đó, tôi tự nhủ: "Quý vị tân nghị sĩ Cộng hòa, mời quý vị sang châu Phi mà sống - nơi này chính là thiên đường cho quý vị." Vâng, không một ai ở Liberia phải nộp thuế. Ở Angola không có sự kiểm soát vũ khí. Chúng ta không thấy có chế độ phúc lợi nào ở Burundi và không có sự can thiệp nào từ phía chính phủ đối với các thị trường ở Rwanda. Nhưng rất nhiều người dân ở đây lại mong có được những can thiệp đó. Chẳng hạn, nhân viên lễ tân ở Luanda, Angola đã nhìn tôi như thể tôi là một thằng điên, khi tôi hỏi chị rằng nếu đi dạo vài ba phố phường gần khách sạn tôi ở, vào giữa trưa, thì có an toàn hay không.
"Không, không, không," - chị lắc đầu - "không an toàn đâu." Tôi cuộc rằng chị này sẵn lòng nộp vài thứ thuế để có được thêm cảnh sát đi tuần trong phố xá. Và rồi lại có một phóng viên đài phát thanh Liberia đến gặp tôi ở Monrovie và đòi được biết tại sao lính thủy Mỹ đến Liberia sau khi nội chiến nổ ra năm 1989, nhưng chỉ di tản kiều dân Mỹ, và bỏ lại dân chúng Liberia để họ đánh lẫn nhau. "Chúng tôi nghĩ, lính thủy Mỹ đang đến, chúng ta sẽ được cứu thoát," phóng viên này nói, "nhưng họ đến rồi lại đi. Tại sao họ lại có thể bỏ đi nhỉ?" Khổ thân cho anh chàng, đất nước của anh không có lính thủy để cứu anh. Tôi cũng đánh cuộc rằng anh ta cũng sẵn lòng trả tiền thuế để có được những người biết làm điều thiện. Họ không ngại ngùng gì chuyện ở Liberia có một "chính phủ mạnh." Họ không lo ngại gì về chuyện có chính phủ - vì những băng đảng và chúa đất đã hoành hành ở đất nước của họ đã hơn một thập niên. Không, Liberia có thể không bao giờ phải lo đối phó với nạn cửa quyền và quan liêu của chính phủ. Quả thực tôi chỉ thấy có mỗi một nội quy trong tòa nhà hành pháp ở Liberia trong hình thức một tấm biển chỉ dẫn gắn trên cánh cửa lỗ chỗ vết đạn. Biển này ghi: "Nộp vũ khí của quý vị ở đây."
Các nhà tuyển dụng hoàn toàn không phải lo đến những luật lệ về an toàn lao động ở Angola, không kể đến những dịch vụ cho người tàn tật. Con số 70.000 dân Angola bị vấp phải mìn gài trong thời gian suốt 25 năm qua, làm cụt chân tay, họ vẫn đang tồn tại. Bạn có thể họ đang khập khiễng đi trên đường phố của thủ đô Luanda, ở Quảng trường Felliniesque, xin ăn và dùng gậy gỗ thay cho chân tay. Và ở Rwanda lẫn Burundi, không ai bị đòi hỏi phải đóng góp cho Head Star, bảo hiểm thất nghiệp, Medicaid, dịch vụ cho sinh viên vay tín dụng. Thay vào đó, họ tham gia cạnh tranh kịch liệt, chiếm đất, chiếm năng lượng và nước sạch, trong đó những bộ lạc người hutu và Tutsi thường xuyên giết lẫn nhau.
Người ta nói lúc đó rằng các tân nghị sĩ Cộng hòa chưa bao giờ dự tiệc tùng trong Quốc hội. Họ nghĩ làm như thế sẽ bị mất uy tín trước vùng cử tri của họ. Phần lớn trong số đó thậm chí cũng không có hộ chiếu. Chẳng sao. Họ muốn chiếm được tất cả những lợi quyền gắn với việc trở thành những Michael Jordan trong phương diện địa-chính trị, với việc trở thành người Mỹ toàn cầu hóa, nhưng không cần phải hy sinh hay có trách nhiệm gì cả - dù ở trong nước hay nước ngoài. Họ nên đến những vùng châu Phi bị chiến tranh tàn phá để cảm nhận thực sự về những gì xảy ra cho những đất nước đã mất đi tình cảm cộng đồng, cảm giác dân chúng có nợ nần với chính phủ, cảm giác người này có trách nhiệm với người kia, và nơi mà người giàu phải sống sau những kín cổng cao tường, cửa sổ bôi đen, trong khi người nghèo thì lang thang nơi chợ búa.
Tôi không muốn sống trong những đất nước, những thế giới như vậy. Không những nơi đó thiếu luân thường và đạo lý, chúng ngày càng thiếu cả an ninh nữa. Tìm cách tránh những thảm cảnh đó cần phải là trọng tâm của các chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ ngày nay. Thật không may, cả Đảng Dân chủ lẫn Đảng Cộng hòa đều chưa phản ánh đầy đủ được trong các cương lĩnh của họ sự quá độ từ Chiến tranh Lạnh sang toàn cầu hóa. Nhiều lúc cả hai đảng này ứng xử theo cái lối rằng thế giới giờ đây cho phép nước Mỹ có thể tỏ ra hẹp hòi và thiên lệch khi bàn tới bất cứ vấn đề gì. Đối với vấn đề nghiêm túc - lợi ích quốc gia ngày nay, đều được bàn bạc là liệu người Mỹ có thể định nghĩa được một mối đe dọa mới đối với mọi dân tộc, chứ không phải là về một nhiệm vụ chung. "Kẻ thù to lớn" vẫn là trọng tâm để xây dựng chủ nghĩa quốc tế của Mỹ, chứ không phải là "cơ hội lớn," càng không phải là "trách nhiệm lớn."
Trong quá trình toàn cầu hóa thờinay, nước Mỹ quả là đang chia sẻ một lợi ích chung của mọi dân tộc - một thứ lợi ích bao gồm cả một cơ hội lẫn một trách nhiệm lớn. Nói đơn giản là: là một đất nước hưởng lợi phần lớn từ cuộc hội nhập toàn cầu thời nay - là đất nước mà dân chúng, sản phẩm, giá trị, công nghệ và ý tưởng được toàn cầu hóa ở mức độ cao - nhiệm vụ của chúng ta là duy trì tính bền vững của toàn cầu hóa. Và một phương cách để thực hiện là giữ cho hệ thống quốc tế ổn định, tạo điều kiện cho những yếu tố tiên tiến dẫn dắt những yếu tố trì trệ, vì cuộc sống của nhiều người dân ở nhiều đất nước. Trong Chiến tranh Lạnh, vấn đề chính trị căn bản là: Bạn lựa chọn phần cứng và hệ điều hành nào? Trong toàn cầu hóa, câu hỏi chính trị hàng đầu là: Làm thế nào ứng dụng thật tốt cái phần cứng và hệ điều hành duy nhất còn tồn tại - chủ nghĩa tư bản thị trường tự do trong bối cảnh hội nhập toàn cầu? Hoa Kỳ có thể và cần phải đóng vai trò gương mẫu trong việc đáp lại câu hỏi này.
Hoa Kỳ có 200 năm lịch sử để phát minh, cải tiến và tiêu chuẩn hóa những cán cân giữ cho thương trường được tự do phát triển mà không biến thành những con quái vật. Chúng ta có công cụ để cải cách. Và chúng ta sẽ có lợi khi cải cách. Quản trị toàn cầu hóa là trách nhiệm mà nước Mỹ không dám bỏ qua. Đó chính là lợi quyền dân tộc của chúng ta ngày nay. Chính đảng nào hiểu rõ điều đó trước hết, từ đó xây dựng được một cương lĩnh đáng tin cậy, nhất quán và sáng tạo, sẽ là chính đảng đặt đầu cầu cho Hoa Kỳ tiến đến tương lai.
Muốn đối đầu với thách thức đó bạn cần bắt đầu bằng cách loại bỏ những ngôn ngữ của thời Chiến tranh Lạnh - những ngôn ngữ không còn thể hiện được thực trạng hiện nay, và xây dựng một hệ thống các thuật ngữ mới thích hợp với toàn cầu hóa. Với mục đích này, tôi đã thiết kế một sơ đồ, trong đó, tôi tin rằng, thể hiện 4 thực thể chính trị căn bản mà dân chúng có thể lựa chọn trong thời toàn cầu hóa.
Được ăn cả
/ | \
/ | \
Ross Perot / | \ Newt Gingrich
/ | \
/ | \
Ly khai TCH hoàn toàn <---------------+---------------> Hội nhập TCH hoàn toàn
\ | /
\ | /
Dick Gephardt \ | / Bill Clinton
\ | /
\ | /
An sinh xã hội
Để nhận biết bạn là ai và đối thủ của bạn là ai trong thời đại này, hãy sử dụng hệ thống sau đây: Đường nằm giữa chạy từ trái sang phải biểu thị toàn cầu hóa; trước hết bạn hãy đánh dấu một điểm trên đường này phản ánh bạn hiểu được bao nhiêu về toàn cầu hóa. Cuối con đường bên tay phải là "những người hội nhập toàn phần". Đây là những người hoàn toàn mong muốn đón nhận toàn cầu hóa vì họ nghĩ toàn cầu hóa là điều tốt hay điều đương nhiên và mong muốn được thấy nó qua thương mại tự do, thương mại internet, liên hệ giữa trường học, cộng đồng và doanh nghiệp, email, tất cả để duy trì hội nhập toàn cầu 24/24 tiếng mỗi ngày, suốt 24 múi giờ và thông qua không gian điện toán.
Điểm cuối của con đường này bên tay trái là "những người ly khai toàn phần". Họ là những người coi thương mại tự do và hội nhập công nghệ là điều chả ra gì và chưa chắc đã xảy ra, vì theo họ toàn cầu hóa làm cho khoảng cách giàu nghèo tăng lên, công ăn việc làm bị chuyển khỏi biên giới quốc gia, bản sắc văn hóa bị xóa nhòa và đời sống rồi sẽ bị những bàn tay vô hình của thương trường nhào nặn và kiểm soát. Họ muốn toàn cầu hóa ngừng lại. Họ muốn giết ngay toàn cầu hóa.
Vậy bạn là ai? một người "ly khai"? hay một người "hội nhập"? hay một nhân vật "trung dung"?
Bây giờ nhìn vào đường chạy từ trên xuống dưới - đường biểu thị phân phối của cải vật chất. Nó biểu thị các thể loại chính sách mà bạn muốn chính phủ phải thiết lập khi theo đuổi toàn cầu hóa và chiếc áo nịt nạm vàng. Điểm cuối dưới đáy con đường này là "Những người mong muốn an sinh xã hội" hay SSN. Tôi coi SSN là những người tin rằng toàn cầu hóa chỉ có thể bền vững khi nó được dân chủ hóa trên cả phương diện kinh tế lẫn chính trị. Về kinh tế, điều này không có nghĩa là những chính sách an sinh xã hội chỉ để "hứng" những người chậm tiến và thiếu năng lực. Chúng sinh ra để "đưa" những người đó vào guồng, trang bị công cụ và tài nguyên để họ sản xuất và cạnh trạnh. Về chính trị có nghĩa là khuyến khích dân chủ hóa ở các nước đang phát triển, vì nếu không có tự do cá nhân thì sẽ không có tự do tăng trưởng kinh tế.
Dĩ nhiên không phải ai cũng nhất trí với quan điểm này. Chính vì thế ở đầu kia của trục thẳng đứng là "những người cá lớn sẽ nuốt cá bé". Loại người này cho rằng toàn cầu hóa sẽ đưa đến việc ai mạnh nấy thắng, và ai yếu tất bị bỏ rơi. Họ muốn thu hẹp quyền lực và cơ cấu chính phủ, các loại thuế và an sinh xã hội và để cho dân chúng tự do cạnh tranh, chiếm đoạt và tự hưởng những thành quả cá nhân hoặc ráng chịu nếu tỏ ra yếu kém quá. Những người theo lối "cá lớn nuốt cá bé" cho rằng quan trọng nhất là kiếm và giữ được công ăn việc làm, không nên nghĩ đến chuyện nếu thua thiệt thì sẽ có người cứu giúp.
Vậy bạn đứng ở đâu trong cái trục này? bạn là người tin vào lợi ích của an sinh xã hội? Hay bạn theo trường phái "cá lớn nuốt cá né"? Hay bạn là người trung dung?
Tất cả những yếu nhân trong chính trường Hoa Kỳ ngày nay có thể được nhận diện và hiểu được qua ma trận này hơn là những nhãn hiệu ta vẫn gặp: Dân chủ, Cộng hòa hay Độc lập. Bill Clinton là một con người hội nhập và tin vào lợi ích của an sinh xã hội. Cựu Chủ tịch Hạ viện Newt Gringrich là người hội nhập nhưng bênh vực cho tự lực cánh sinh "cá lớn nuốt cá bé." Chính vì thế Clinton và Gingrích bao giờ cũng là đồng minh trong vấn đề thương mại tự do nhưng lại là đối thủ của nhau khi họ bàn đến an sinh xã hội. Lãnh tụ nhóm thiểu số của Hạ viện Dick Gephardt là con người ly khai và thiên về an sinh xã hội trong khi Ross Perot là người ly khai nhưng tin vào việc cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế họ liên minh với nhau để chống lại Hiệp định Thuế quan Tự do Bắc Mỹ NAFTA và những hình thức mậu dịch tự do khác nhưng chỉ có Gephardt quan tâm đến an sinh xã hội để bảo vệ quyền lợi và tăng cường năng lực cho người lao động.
Trong khi tôi dùng hồ sơ này để minh họa xã hội Mỹ ngày nay thì bạn có thể dùng nó để mô tả thực trạng trên đất nước của bạn. Hãy đặt bản thân bạn vào sơ đồ này để xem bạn là ai và ai sẽ là đối thủ của bạn trong cuộc tranh luận chính trị sau này. Bản thân tôi là người toàn tâm theo hội nhập và bênh vực cho an sinh xã hội. Điều đó có nghĩa gì? Nghĩa là tăng cường thực trạng chính trị vì lợi ích toàn cầu hóa bền vững, chính sách đối ngoại và phòng thủ theo lối toàn cầu và một nền kinh tế chính trị toàn cầu hóa, và sau cùng một tập hợp những luân lý và đạo đức toàn cầu hóa (trong đó bao gồm các giá trị tôn giáo và gia đình), Nói cách khác đó là quan điểm xây dựng một hệ thống quốc tế mới.
Nền chính trị trong kỷ nguyên toàn cầu hóa
Xin đi sâu vào nội dung của một nền chính trị mang tính toàn cầu hóa bền vững. Nó phải gồm hai thứ: bức tranh toàn cảnh thế giới để dân chúng hiểu họ đang ở đâ; và một loạt các chính sách hội nhập kết hợp an sinh xã hội để đối phó với thực trạng thế giới.
Cần phải có bức tranh toàn cảnh thế giới vì không một chính sách nào có thể khả thi nếu không thu hút được một bộ phận dân chúng có cách nhìn tương tự nhằm hiểu được vì sao nó cần thiết. Những chính trị gia hãy cẩn thận: Có rất nhiều lý do cho thấy rằng bóp méo và bôi xấu toàn cầu hóa thì thật là dễ. Nhưng làm như thế thì dù có đúng đắn về kinh tế, bạn vẫn không kiểm soát nổi về chính trị, dẫn đến việc toàn cầu hóa thay vì mang lại lợi ích, lại quay ra chống lại quý vị. Vì sao? Vì những người chịu thiệt thòi nhất trong toàn cầu hóa - những nhân công mất việc do ứng dụng tự động hóa và người máy, hoặc do phân xưởng của họ bị chuyển ra nước ngoài - hiểu biết về thân phận của họ rất rõ. Điều đó giúp cho họ dễ dàng tập hợp để chống lại hội nhập, công nghệ mới và tự do mậu dịch. Trong khi đó những người hưởng lợi từ toàn cầu hóa, tự do thương mại và đầu tư thường lại không tự hiểu họ là ai. Họ thường không nhìn thấy mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và sự cải thiện mức sống của chính họ, chính vì thế không dễ gì tập hợp được những người này. Đã bao giờ bạn nghe một công nhân trong phân xưởng sản xuất chip vi tính nói, "Bạn ơi, tôi là người may mắn. Nhờ có toàn cầu hóa, nhu cầu cho hàng xuất khẩu cao cấp của Hoa Kỳ tăng vọt, sự thiếu thốn công nhân lành nghề ở đất này và những đòi hỏi mới từ các nước đang phát triển, khiến ông chủ tôi phải tăng lương cho tôi. NAFTA thật tuyệt diệu!"
Một lý do nữa khiến cho toàn cầu hóa dễ bị xuyên tạc là việc con người ta không hiểu toàn cầu hóa phần nhiều là do công nghệ, chứ không phải thương mại, lôi cuốn. Trong văn phòng báo The New York Times ở Washington, chúng tôi vốn có một cô lễ tân, sau này cô ta bị mất việc. Mất việc không phải vào tay một người Mehicô - mà là vào tay một chip vi tính - con chip này được lắp trong các điện thoại trong văn phòng, tự động trả lời khách hàng. Thực tế này cho thấy thậm chí nếu nước Mỹ không buôn bán gì với Mehico thì vẫn có microchip và vẫn khiến cho cô nhân viên này mất việc. Nếu có một bức tường cao 10 mét xây dọc biên giới Hoa Kỳ và Mehicô thì microchip vẫn cướp đi của cô này công việc đó. Nhưng các chính trị gia không muốn công nhận chuyện này. Không ai trong số họ dám đứng dậy và nói: "Tôi muốn các bạn đứng dậy, đứt điện thoại khỏi ổ máy, ném chúng ra ngoài cửa sổ và kêu tướng lê: "Tôi không chịu được nữa! Hãy cứu công ăn việc làm cho nước Mỹ! Cấm sử dụng trả lời điện thoại tự động! Khoai tây rán, chấp nhận ngay Microchip, vứt!" Đó không phải là một thông điệp tranh cử hữu hiệu. Nên họ thường nhào ra hô hét chống đối người Mehico và các nhà máy ở nước ngoài. Công nhân và nhà máy ở nước ngoài là những mục tiêu cụ thể và dễ chĩa mũi dùi vào, trong khi đó microchip thì không hẳn là kẻ thù trong con mắt các chính trị gia. Chính vì thế thương mại tự do nhanh chóng trở thành mối lo, mối họa trong tư duy của nhiều người trong thời đại toàn cầu hóa - trong khi thực ra họ nên lo lắng hơn về chuyện kỹ thuật phát triển nhân đại trà,
Bill Clinton đánh bại George bush (cha) và Bob Dole bởi lẽ đa số cử tri Hoa Kỳ có trực giác là họ đang bước vào một kỷ nguyên mới, Clinton đón nhận thời cơ đó, và đưa ra những giải pháp cho nó - trong khi Bush và Dole không làm điều đó. Nhưng không may là khi lên cầm quyền, Clinton không bao giờ thực hành cho hoàn hảo những giải pháp đó, chưa đưa ra được một bức tranh toàn cảnh cho dân chúng. Trong tuần lễ đầu tiên sau khi nhậm chức, Clinton đã tuyên bố vấn đề nan giải của Hoa Kỳ là y tế - chứ không phải toàn cầu hóa bền vững. Vậy đáng lẽ ông ta phải nói điều gì? Đáng nhẽ ông ta nên nói:
" Thưa đồng bào, nhiệm kỳ Tổng thống của tôi trùng hợp với kết thúc của cuộc Chiến tranh Lạnh và sự khởi đầu của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa trong những năm 1990 cho tới thiên niên kỷ mới mang ý nghĩa như Chiến tranh Lạnh đến với thế giới từ những năm 1950 cho tới những năm 1980. Nếu hệ thống Chiến tranh Lạnh được dựng lên từ những đe dọa và thách thức của Liên Xô, và chia cắt thế giới, thì toàn cầu hóa được xây dựng từ những đe dọa và thách thức của những bước nhảy vọt trong công nghệ và những hội nhập kinh tế; toàn cầu hóa khiến thế giớ tập trung hơn. Nhưng khi đoàn kết thế giới thành một khối, toàn cầu hóa cũng làm biến đổi môi trường làm việc, công việc, thương trường và cộng đồng của mọi người - nhanh chóng xóa đi những nghề nghiệp cũ kỹ và cho ra đời những công việc mới mẻ. Toàn cầu hóa xóa đi những lối sống cũ kỹ và cho ra đời những cách sống mới; nhanh chóng xóa đi những thị trường cũ kỹ và nhân đại trà các loại thị trường mới; nhanh chóng xóa đi những ngành công nghiệp cũ và phát minh nhiều ngành nghề mới mẻ. Ngoại thương, vốn chiếm 13 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội những năm 1970, nay đã lên tới 30 phần trăm tại Hoa Kỳ - và đang tiếp tục tăng. Những tiến bộ kỹ thuật ngày nay phát triển nhanh tới mức các công ty máy tính của Hoa Kỳ mỗi năm cho ra 3 đời máy tính. Đây không những là một thế giới mới, mà về nhiều mặt một thế giới tốt đẹp hơn. Dẫu có phải vật lộn với toàn cầu hóa lúc này lúc khác, thì Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Brazil hay Argentina đã chứng kiến mức sống của họ tăng lên cho nhiều bộ phận dân chúng của họ, tăng cao hơn bao giờ hết trong lịch sử. Điều đó là nhờ có sự tăng hiệu quả của các thị trường tài chính tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán và đầu tư của con người từ nước này sang nước khác. Toàn cầu hóa là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế chưa từng có thời này, đó là điều chúng ta không bao giờ được quên.Như Bộ trưởng Tài chính Larry Summers chỉ ra, nhờ phần lớn vào toàn cầu hóa mà hơn một phần tư nhân loại đang an hưởng mức tăng trưởng trong đó mức sống của họ sẽ tăng gấp bốn lần trong thế hệ của họ. Bốn lần. Và điều đó hoàn toàn không gây hại gì cho Hoa Kỳ. Ngược lại sự tăng trưởng trên thế giới đã khiến giảm nạn thất nghiệp ở Mỹ xuống mức thấp nhất trong gần 50 năm. Nhưng toàn cầu hóa cũng mang đến một thách thức chưa từng có: Trong khi đóng vai trò đầu tàu tiến tới sự phồn vinh lâu dài, toàn cầu hóa cũng là động lực khiến xuất hiện những phân bổ tài nguyên và của cải một cách bất công trong ngắn hạn. Và không thể đơn thuần nói với một công nhân vừa mất việc vào tay người nước ngoài rằng: tuy vậy nhưng xã hội nói chung nay khá hơn nhiều, vì mọi người có thể mua những loại giày hay loại sắt thép rẻ hơn. Không dễ gì giải thích với một nhân viên vừa mất việc vì một loại công nghệ mới được đưa ra ứng dụng, rằng tuy thế, xã hội ta vẫn khá hơn vì mọi hệ thống vận hành được áp dụng khoa học kỹ thuật và có năng suất tăng vọt. Lợi ích của toàn cầu hóa được tính trên cơ sở dài hạn và làm lợi cho xã hội nói chung nhưng những bất công đương nhiên sẽ sớm xảy ra và cá nhân sẽ là những nạn nhân trước tiên."
"Vì thế, trước sự tương phản giữa những cơ hội dài hạn do toàn cầu hóa và tăng trưởng mang lại cho những người giàu, và những gián đoạn độc hại về chính trị, môi trường và xã hội trước mắt nhắm vào người nghèo, Hoa Kỳ cần có một chiến lược để khiến toàn cầu hóa trở nên bền vững - để khai thác những điều hay nhất, trong khi giảm nhẹ tác động từ những hậu quả tồi tệ. Hãy tưởng tượng thế giớinày là một bánh xe có những nan hoa. Ổ trục bánh xe là điều tôi gọi là "toàn cầu hóa cùng tăng trưởng kinh tế và cải cách công nghệ." Nói đơn giản là điều vĩ mô. Vì nó nằm ở trục, nên chúng ta cần có quan điểm để nói trục này với các lĩnh vực y tế, phúc lợi, giáo dục, dạy nghề, môi trường, điều tiết thị trường, an sinh xã hội, tài chính và mở rộng thương mại tự do. Mỗi một mảng như vậy cần được điều chỉnh, cải cách để giúp đất nước chúng ta khai thác lợi ích của toàn cầu hóa đồng thời tạo những đệm an toàn để giảm và loại trừ những hệ quả xấu có thể xảy ra. Toàn cầu hóa đòi hỏi xã hội chúng ta tiến nhanh hơn, làm việc thông minh hơn, và đương đầu với nhiều mạo hiểm hơn bao giờ hết. Trong cương vị Tổng thống, tôi xin hứa hai điều: Một, tôi sẽ giúp trang bị tốt hơn cho bản thân đồng bào và toàn xã hội để đối phó với những thách thức mới, với sự kết hợp giữa hội nhập triệt để và tổ chức mạng lưới an sinh xã hội hoàn hảo. Điều thứ hai, tôi sẽ bảo vệ không mệt mỏi những sắc luật về thương mại để đảm bảo rằng, trong khi toàn cầu hóa thử thách người lao động Hoa Kỳ, sẽ không cho phép những người khác lợi dụng để bán phá giá hàng hóa của họ ở đây, trong khi lại không cho hàng hóa của chúng ta vào đất nước của họ. Tôi không nói đây là nhiệm vụ dễ dàng. Ngược lại tôi xin nói tình hình rồi đây sẽ rất khó khăn. Nhưng nếu chúng ta xây dựng một sự cân bằng hợp lý - tôi nghĩ chúng ta có thể làm được - chúng ta có thể trở thành đội tiên phong trên thế giới làm gương về sự hội nhập trong toàn cầu hóa, cũng như chúng ta đã từng làm gương cho thế giới trong việc răn de trong thời Chiến tranh Lạnh. Chúa phù hộ nước Mỹ."
Đó chính là những gì Clinton tin vào, nhưng không hẳn là những gì ông ta đã nói ra. Và một trong những lý do vì sao chính sách y tế của Clinton bị các đối thủ đánh bại là nó không được đặt vào trong một bức tranh rõ ràng mang bối cảnh toàn cầu hóa. Hậu quả là, như kinh tế gia Dani Rodrik của Đại học Harvard cho biết, "Các mối liên hệ và bổ sung trong những lĩnh vực đó đã không được thể hiện rõ trong tranh luận công khai," làm cho những kẻ duy ý chí và cực đoan, cũng nhưng các nhà kinh tế gia đại chúng, phái dân tộc chủ nghĩa, những kẻ thiếu hiểu biết, xu thời, đã lái cuộc tranh luận sang những đề tài hạn hẹp - ví dụ: thương mại hay y tế - họ đánh gục chính sách của Clinton.
Nếu chúng ta không giải thích cho công chúng biết về bản chất thực sự của thế giới ngày nay và giải mã cho được toàn cầu hóa thì những người theo đuổi chính sách ly khai sẽ tận dụng những gì còn mờ mịt lẫn lộn để thực hiện mục đích của họ. Năm 1998, Tổng thống Clinton không thể áp dụng NAFTA vào Chi lê chỉ vì một nhóm thiểu số đứng đầu là giới nghiệp đoàn chống đối. Họ hết sức năng động trong việc chống phá thương mại tự do; trong khi đó đa số trong Quốc hội được lợi trong chuyện đó, nhưng họ lại không tự tập hợp được và không bảo vệ được chính quyền lợi của họ.
Tuy nhiên, ngoài một bức tranh toàn cảnh rõ nét, một nền chính trị toàn cầu hóa bền vững cần bao hàm một hệ thống chính sách cân bằng. Cụ thể, sự cân bằng này đòi hỏi sự thỏa thuận giữa giới lao động, các định chế tài chính và chính phủ. Hãy ghi công những người theo trường phái Thatcher và Reagan đã chung sức chuẩn bị cho đất nước của họ cho kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay. Họ là những công cụ xây dựng toàn cầu hóa khi họ đi đầu trong việc truyền bá viễn cảnh thị trường tự do thuần khiết nhất - cốt lõi của toàn cầu hóa. Quan điểm của những người này là: "Hãy để cho thị trường thống trị trên diện càng rộng càng tốt và mọi thứ sẽ được điều tiết êm đẹp." Nhưng một viễn cảnh thị trường thuần khiết vẫn chưa đủ, vì nó rất tàn khốc và gây những bất ổn về chính trị. Cánh Tả, hay những gì còn lại của cánh Tả, trong khi đó lại tiếp tục ôm giữ những nguyên tắc nhà nước phúc lợi - điều đó ngược lại, đã gây nhiều bất lợi về kinh tế.
Những gì cần phải có, thay vì hai luồng quan điểm cực đoan đối chọi nói trên, là một sự kết hợp mang tính xã hội bao gồm cả thị trường tự do và đảm bảo rằng ích lợi của chúng đến với càng nhiều người dân càng tốt. Bạn giữ cho toàn cầu hóa ổn định bằng cách dân chủ hóa toàn cầu hóa - giúp nó làm lợi cho dân chúng nhiều hơn. Tìm hiểu một sự hòa hoãn mang tính xã hội để dân chủ hóa toàn cầu hóa là nhiệm vụ của những người thuộc phái Trung Tả - như Bill Clinton của Hoa Kỳ và Tony Blairs của nước Anh. Nhiều người gọi đó là "Con đường thứ ba." Tôi không chấp nhận lối gọi đó. Những gì Clinton và Blairs đang lần mò mà tôi gọi là hội nhập toàn cầu hóa-kiêm an sinh xã hội là con đường duy nhất cho một đất nước tồn tại trong toàn cầu hóa. Không có con đường thứ ba. Chỉ có một con đường, con đường mang tính cân bằng.
Những người hội nhập toàn cầu hóa-kiêm an sinh xã hội như chúng tôi tin rằng bạn không dám trở thành một nhà toàn cầu hóa, một người tranh đấu cho thương mại tự do, mở cửa biên giới, thả nổi các hệ thống và Internet cho mọi người, nếu bạn không phải là một người theo phái dân chủ xã hội. Bởi vì nếu bạn không dám dùng những khoản tiền làm ra để tiêu vào những dự án giúp đỡ người nghèo, thua thiệt về tri thức và cơ hội, thì chính họ sẽ trở thành những lực lượng kình chống và tách đất nước của bạn khỏi hệ thống thế giới. Bạn sẽ không thể đạt được đồng thuận đồng thuận về chính trị để duy trì sự cởi mở của đất nước. Đồng thời, chúng tôi tin rằng bạn không dám trở thành một người dân chủ xã hội nếu bạn không phải là một nhà thúc đẩy toàn cầu hóa, bởi vì nếu không hội nhập với thế giới, bạn sẽ không bao giờ tăng thu nhập cần thiết để giúp cải thiện mức sống và cứu vớt người nghèo.
Vấn đề mà chúng ta đang phải đương đầu là tìm cho ra điểm phân cách, giữ cho sự cân đối giữa hội nhập và phúc lợi xã hội trong hệ thống toàn cầu hóa ngày nay? Có ba yếu tố chúng ta cần phải cân băng: chiếc đu bay; đệm nhào lộn; và lưới phúc lợi.
Chiếc đu bay
Trước hết chúng ta cần có một nền kinh tế theo định hướng thị trường tự do cởi mở và tăng trưởng, trong đó con người được phép tự do nhào lộn đu bay. Nếu không có những kẻ mạo hiểm và những nhà tài chính chịu mạo hiểm thì sẽ không có giới kinh doanh, nếu không có kinh doanh thì không có tăng trưởng. Chính vì thế ở tâm điểm của mỗi nền kinh tế lành mạnh chính là chiếc đu bay cho thị trường tự do bay bổng. Vì không có một hệ thống phúc lợi nào tốt hơn là một nền kinh tế lành mạnh với mức thất nghiệp thấp. Kinh tế Mỹ, một nền kinh tế tự do tiêu biểu cho thấy mức thất nghiệp giảm từ 10,75 phần trăm năm 1994 xuống còn 6,75 phần trăm vào năm 1999, cho phép một số đông thanh niên, đặc biệt là dân thiểu số, kiếm được công ăn việc làm, được đào tạo và phát triển lập thân. Tất nhiên không phải ai cũng chắn chắc kiếm được công việc ngon lành - có những người vẫn tiếp tục phải chui vào bếp nấu nướng trong khi có những người khác ngồi thiết kế trang web trong những công sở sang trọng. Nhưng một công việc và bất cứ công việc nào cũng đáng tự hào và tạo được sự ổn định trong đời mỗi người.
Mỗi khi nghĩ đến đều này tôi đều nhớ câu chuyện nhà báo người Nga Aleksei Pushkov kể cho tôi vào tháng 4 năm 1995 về một trong những người hàng xóm của anh ở Moskva. "Anh ta là một tài xế nghèo sống ở căn hộ cạnh cầu thang. Tối thứ sáu nào anh ta cũng xỉn và hát - hát đi hát lại, hát vang vọng hai bài hát tiếng Anh: bài "Đất nước tươi đẹp" và "Em chỉ mong có thêm đứa nữa". Anh chàng này không hiểu nội dung của bài hát. Khi xỉn là hắn đánh vợ và vợ hắn la hét ầm lên. Hắn làm chúng tôi phát khùng. Tôi muốn quăng cho hắn một trái lựu đạn. Nhưng cho đến cách đây 8 tháng tôi không biết sao hắn lại mua được cổ phần và vào làm trong một xưởng sửa chữa xe hơi. Từ ngày đó không ai còn nghe cả đêm bài hát "Đất nước tươi đẹp", không ai nghe thấy tiếng vợ anh chàng la hét nữa. Anh ta đi làm đều đặn vào lúc 8 giờ rưỡi sáng thật vui vẻ. Anh chàng biết rằng đời đang dần tươi đẹp hơn. Vợ tôi nói, "Hãy nhìn thằng cha Đất nước tươi đẹp! Hắn là ông chủ rồi đấy."
Chiến lược chiếc đu bay không chỉ có nghĩa là chính phủ đứng sang một bên cho phép thị trường tha hồ cướp bóc, mà còn có nghĩa là chính phủ phải tạo điều kiện cho dân chúng trở thành ông/bà chủ và là những người thông thạo thị trường tự do. Ở Hoa Kỳ, điều đó có nghĩa là những sáng kiến để mở đường cho nguồn vốn đến được những cộng đồng kém may mắn và thu nhập thấp, từ đó công ăn việc làm sẽ được tạo ra và khỏi uổng công những nhà dạy nghề và những ngừơi học nghề. Những thành phố trong nội địa Hoa Kỳ chính là những thị trường đang trỗi dậy, tương tự như đất nước Bangladesh, và chính chúng nhiều khi cần đến những trợ giúp để tạo thị trường mới. Thời còn làm Bộ trưởng Thương mại, Larry Summers đã chỉ ra: "Trên thế giới, khi đến với những con người cơ cực nhất thì thị trường tài chính tư nhân tỏ ra bất lực. Các ngân hàng lớn không muốn thâm nhập vào những cộng đồng đang cơ hàn - vì ở đó không có tiền. Các rào cản không cho các nguồn vốn đến với những cộng đồng và thiểu số nhất định, chứng tỏ sự bất lực của thị trờng ở đó. Chính vì lẽ đó những cộng đồng nọ không có cơ hội để giao dịch tài chính, để tích lũy hay cho vay tiền, nên đã trì trệ họ càng trì trệ hơn."
Một phương thức giúp dân chủ hóa nguồn vốn ở Hoa Kỳ đó là nỗ lực tu chính Luật tái đầu tư cộng đồng, cho phép các nhân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các khu phố nghèo khó. Nhưng cũng có những khoản vay mà các ngân hàng thương mại không đời nào chuẩn chi. Chính vì thế tôi hoan nghênh những hộ trợ của chính phủ cho những khoản vay đầu tư từ năm 1999 cho những cộng đồng có mức sống tối thiểu. Được biết đến dưới cái tên Quỹ tín dụng phát triển cộng đồng, cung cấp vốn ban đầu cho các doanh nghiệp mới đầu tư vào những nơi cơ hàn những cũng là nơi họ thấy những cơ hội mới cho kinh tế thị trườn. Hoạt động đầu tư bao gồm những trung tâm giữ trẻ, chung cư cho người thu nhập thấp, thẩm mỹ viện và trung tâm giải trí - những lĩnh vực mà những ngân hàng lớn chẳng bao giờ để tâm.
Đệm nhào lộn
Thậm chí những xã hội có nền kinh tế năng động vẫn cần có những tấm đệm đàn hồi, an toàn, để hứng đón những ai trượt ngã vì không bắt kịp tốc độ và môi trường thay đổi nhanh. Đệm phải đàn hồi để đẩy ngược những người đó nhảy vào guồng máy kinh tế. Một tấm đệm thật bền để đón, nhưng không thực êm ái khiến bạn cứ nằm ì trên đó. Tấm đệm này thực sự cần thiết để cấp thời giúp cho những nhân tố chậm phát triển trong xã hội. Và hiển nhiên, theo cách nói trừu tượng, thì tấm đệm quan trọng nhất trong đời người là việc được học hành và đào tạo.
Mỗi người lao động cần hiểu rằng an ninh kinh tế trên thế giới ngày nay, khi không còn những bức tường rào cản, không còn do một nhà nước phúc lợi chu cấp hay một thứ thẻ nghiệp đoàn quy định. Trong thời đại khoa học kỹ thuật thay đổi đến mức chóng mặt và các công ty không bị nhiều cản trở như trước, thì chỉ có kỹ năng đào tạo mới và việc duy trì đào tạo mới giúp cho con người ta giữ được công ăn việc làm. "Trong sự nghiệp của bạn, tri thức giống như sữa vậy," Louis Ross, kỹ thuật viên chính của hãng xe hơi Ford cho biết. Ross nói tiếp: "Thường trên các bịch hay chai lọ đựng sữa có dán nhãn hạn sử dụng. Vậy hạn sử dụng một tấm bằng kỹ sư ngày nay là 3 năm. Sau ba năm, nếu kỹ sư này không trao dồi và đổi mới kiến thức, thì sự nghiệp của anh ta sẽ đi tong." Jim Botkin và Stan Davis viết trong cuốn sách của họ Quái vật dưới gầm giường rằng trong một nền kinh tế tri thức, bạn không những kiếm sống mà còn "học cách kiếm sống."
Trách nhiệm của chính phủ không phải là bảo hộ, che chắn cho người lao động khỏi thực tế đó, mà là giúp đào tạo và giúp đỡ họ đối phó với thực tế đó. Vì mục đích như vậy, tôi nghĩ những ai được vào Nhà Trắng trong thời đại ngày nay nên ban hành một sắc luật, tạm gọi là "Luật về các cơ hội thay đổi nhanh". Đạo luật này sẽ tồn tại song hành với những chính sách hội nhập của chính phủ - đối với việc tiếp nhận Chi Lê vào Hiệp ước mậu dịch tự do NAFTA hay những dàn xếp về thương mại tự do khác. Đạo luật sẽ được sửa đổi mỗi năm với mục đích đôn đốc chính phủ hiểu rõ hơn về thực tế toàn cầu hóa cũng như nhắc nhở chính phủ thấy những điều bất hợp lý và mất cân bằng trong các chính sách của họ. Nhờ đó chính phủ điêù chỉnh độ rộng hẹp của tấm đệm nhào lộn, tăng cường năng lực và điều kiện sống để người lao động bắt kịp với tiến độ phát triển nhanh chóng của thế giới. Đó chính là con đường bền vững đi tới toàn cầu hóa.
Nếu tôi có một chiếc đũa thần trong tay, thì ví dụ, Luật về các cơ hội thay đổi nhanh năm 1999 sẽ có những điều khoản sau đây: Các dự án về việc làm giúp người thất nghiệp tạm thời; miễn thuế cho các khoản bồi thường nghỉ việc; dịch vụ tư vấn miễn phí của chính phủ về cách viết lý lịch xin việc và tăng cường thêm điều khoản cho đạo luật Kassebaum-Kennedy giúp những người mất việc vẫn được hưởng bảo hiểm y tế; và một chiến dịch quảng cáo cho một trong những thành tựu lớn nhất của thời kỳ Bill Clinton mà ít người biết đến - Đạo luật về đầu tư nhân lực. Ký vào năm 1998, đạo luật này quy tụ 150 chương trình dạy nghề của chính phủ vào ba lĩnh vực: Các dự án đào tạo cá nhân tài trợ cho nhân công xin học các ngành nghề mà họ tin rằng sẽ giúp kiếm việc thuận lợi nhất; Các trung tâm việc làm một cửa cho mỗi chương trình dạy nghề; Và việc tăng 1,2 tỷ đô-la tài trợ trong năm năm cho những chương trình dạy nghề cho thanh niên. Thêm nữa, tôi sẽ gắn cho đạo luật mới những dự án cấp tín dụng cho các ngân hàng phát triển ở châu Á , Phi và Mỹ La tinh, để tăng cường đào tạo phụ nữ, cho phụ nữ và các doanh nghiệp nhỏ vay vốn, và giúp cho việc làm sạch môi trường ở những nước mà có quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Tôi cũng mong muốn bao gồm trong đạo luật việc tăng cường tài trợ cho các sáng kiến của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong việc tạo cơ hội việc làm nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột sức lao động của trẻ em ở những nước mà đối tượng trẻ em bị hành hạ nhiều nhất. Tôi cũng muốn trong đạo luật có điều khoản tăng ngân sách cho chương trình Hỗ trợ Điều chỉnh Thương mại hiện nay, nhằm trợ giúp cho những người lao động bị mất việc do các hoạt động ngoại thương gây ra. Tôi cũng muốn mở rộng chương trình mang tên Hỗ trợ người lao động bị mất việc do sự phát triển của các công nghệ mới. Và sau cùng, tôi muốn tổ chức một chiến dịch thông tin về các ưu đãi thuế dành cho việc học hành, cho phép trừ vào tiền thuế của mọi người tới mức 1.000 đô-la/người để đóng góp cho các chi phí đào tạo và giáo dục mới của họ.
Tôi cũng gắn vào đạo luật đó các chương trình tăng cường giá trị của gia đình và cộng đồng, giúp cải thiện về tâm lý cho nhân công, những người đang phải đương đầu với các hoạt động của thị trường đầy sức ép và thay đổi việc làm nhanh chóng. Các chương trình bao gồm việc tăng hỗ trợ cho các trung tâm giữ trẻ, cho tới chính sách giờ giấc uyển chuyển dành cho cha mẹ để họ có thêm thời gian cho gia đình, cho bản thân, và đến việc trả lương cho những người làm thêm giờ. Chúng ta cần có thêm những cá nhân làm việc tự giác, nhưng những cá nhân đó không thể hoạt động trong các môi trường chân không. Họ phải nằm vào các cộng đồng tích cực, lành mạnh và có trách nhiệm. Các cộng đồng phải giúp các cá nhân ứng phó với hành vi của thị trường tự do hay những bức bách của chính phủ. Cố gắng tăng cường năng lực của dân chúng, từ việc dùng những Hội cha mẹ và thầy cô cho tới việc tham gia giữ gìn an toàn cộng đồng, đặt bước đệm giữa thị trường và chính phủ, chính là điều thiết yếu trong hệ thống mới ngày nay.
Điều mà những người theo phái Hội nhập - Anh sinh xã hội như chúng tôi tin vào, đó là có rất nhiều việc mà chính phủ vẫn có thể thực hiện trong thời đại toàn cầu hóa, những việc không cần chi phí cao, không cần có chính sách phân phối lại thu nhập một cách vội vàng - hay không cần đến những khoản chi tiêu tốn kém cho phúc lợi xã hội đến mức vi phạm những luật lệ về Chiếc Áo Nịt Nạm Vàng - nhưng vẫn giúp làm tăng con số những người làm ăn thành đạt. Những sáng kiến như trên sẽ khiến cho dân chúng thấy rằng: "Trong khi toàn cầu hóa bắt người ta phải bay từ đu bay này sang đu bay khác, cao hơn, nhanh hơn, và xa hơn nữa, thì chính phủ sẽ không để cho người ta rơi xuống những mặt đất hiểm trở và bị con quái vật toàn cầu hóa ăn thịt. Mặc dù không tặng bạn các món quà từ thiện, chính phủ nay sẽ giúp bạn tìm kế sinh nhai." Thậm chí nếu chúng ta tốn tiền vào những chương trình trợ giúp kế sinh nhai, thì chi phí cũng vẫn là rất nhỏ so với lợi ích và tính hiệu quả đem lại từ việc duy trì các thị trường tự do đối với thế giới. Chi phí cho một đạo luật như Luật về các cơ hội thay đổi nhanh thật là nhỏ để đạt được sự kết dính về xã hội cũng như những đồng thuận về chính trị hướng tới hội nhập và tự do thường mại. Vậy thì phương châm của tôi là: "Bảo vệ nhưng không bảo hộ. Làm đệm nhưng không dựng rào cản. Ứng phó với "Thế giới Đi nhanh" chứ đừng tránh né nó."
Lưới phúc lợi xã hội
Sau cùng, chúng ta vẫn cần đến những cái lưới phúc lợi xã hội - chế độ an sinh xã hội, bảo hiểm y tế công, trợ giúp y tế công, tem phiếu thực phẩm và phúc lợi xã hội khác - để hứng những người không thể đu bay nhanh và không thể học nhanh để theo kịp vào "Thế giới Đi nhanh", những người mà bạn không muốn để cho bị ngã sấp mặt xuống mặt đất hiểm trở. Nhưng trong toàn cầu hóa, chúng ta cần có tư duy mới về khái niệm lưới phúc lợi xã hội. Chẳng hạn, trong thời đại Internet trở nên thiết yếu đối với việc học hành, đặt vé máy bay, tiếp cận với cơ quan chính phủ, liên lạc, chưa kể đến việc mua sắm tìm hàng giá rẻ, chúng tôi cho rằng cơ hội sử dụng Internet đã trở thành một quyền cơ bản của nhân loại.
Dĩ nhiên có một sự được mất giữa cái đu bay, đệm nhào lộn và lưới phúc lợi xã hội. Ngày nay ở Hoa Kỳ cũng như các nước khác, chính trị là sự tìm tòi một điểm cân bằng mới - là việc tìm cho ra một giải pháp dung hòa đúng đắn giữa một nền kinh tế mở cửa - hội nhập luôn luôn tăng năng suất và các cơ hội việc làm, kết hợp với những tấm đệm nhào lộn và lưới bảo hiểm xã hội. Rõ rằng, điểm cân bằng đó đã và đang di chuyển từ cánh tả, thời chiến tranh Lạnh, sang phái hữu của trung tâm. Thời Chiến tranh Lạnh, thời của những bức tường, các chính phủ cảm thấy họ cần phải ngăn chặn không cho nhân công của họ ngả theo cộng sản chủ nghĩa, vì thế chủ xưởng thiên về việc duy trì các chương trinh phúc lợi xã hội. Ngày đó đã qua rồi. Nhưng giờ đây vẫn không có nghĩa là trao mọi thứ vào tay khu vực tư nhân. Nhờ có hội nhập, chiếc áo nịt của Hoa Kỳ đã sản sinh rất nhiều vàng - dự đoán vào thiên niên kỷ mới mức thặng dư ngân sách vẫn tiếp tục được duy trì - và có khả năng chu cấp đầy đủ cho những mạng lưới bảo hiểm xã hội và các đệm nhào lộn.
Không có thứ chính trị toàn cầu hóa bền vững nào lại chỉ dựa đơn thuần vào các chương trình kinh tế. Trong khi mở đường vào toàn cầu hóa trở nên một nhiệm vụ thiết yếu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, dân chủ hóa các hệ thống chính trị đồng thời cũng là một đòi hỏi quan trọng. Đó là một trong những bài học thực tế rút ra trong thập kỷ đầu tiên của toàn cầu hóa: Đưa xã hội của bạn tăng tốc nhập vào toàn cầu hóa là cả một quá trình đầy đau đớn, và bởi thế, về lâu dài, nó đòi hỏi phải tiếp tục có thêm dân chủ. Trong Chiến tranh Lạnh, lãnh tụ của các quốc gia đã được các siêu cường dung túng, cho phép họ muốn lãnh đạo đất nước ra sao cũng được. Nhưng những siêu cường giờ đây đã ra đi và đa số dân chúng ngày nay không muốn duy trì các chính phủ yếu kém quá lâu - đặc biệt trong thời đại mà họ biết rõ hơn về cảnh sống của đồng loại. (Hãy tra trong từ điển từ Indonesia). Nếu các vị giờ đây yếu kém, các vị sẽ đổ - và nếu không có dân chúng đỡ, thì các vị sẽ đổ rất đau đớn. (Hãy tra trong từ điển từ Suharto).
Larry Diamond, học giả về dân chủ đã chỉ ra: "Chúng ta đã thấy một số ví dụ trong đó các nước Mỹ La tinh, Đông Âu và Đông Á đã dùng lá phiếu đuổi khỏi quyền lực những chính phủ mà họ thấy liên quan tới những tổn thất từ cải cách toàn cầu hóa. Những chính phủ mới lên cầm quyền quả đã đưa ra những điều chỉnh nhưng vẫn giữ lại ít nhiều những chính sách thị trường và toàn cầu hóa như trước kia. Vì sao họ làm được chuyện đó? Vì quá trình dân chủ hóa khiến cho dân chúng các nước đó tự cảm nhận, tự chia sẻ những tổn thất nảy sinh từ những cải cách kinh tế. Những tổn thất đó đối với dân chúng không còn cái vẻ xa lạ như trước kia. Dân chúng ngày nay được quyền tư vấn về các chủ đề kinh tế, ít nhất họ có thể lựa chọn để tự quyết định về tốc độ cải cách kinh tế, thay vì phải chịu sai khiến như trước kia. Hơn nữa, nhờ có cơ hội tham gia cải tổ, được phép đuổi cổ những người mà họ cảm thấy có hành vi thái quá, tham nhũng quá và thiếu nhạy cảm quá, toàn bộ quá trình cải tổ trở nên chính đáng hơn về chính trị, và nhờ đó trở nên bền vững hơn."
Hơn nữa, ngày nay các đảng phái và lãnh đạo phải thay nhau để cầm quyền - các phái đối lập về chính trị đã xuất hiện và theo đuổi các chính sách giải phóng kinh tế và toàn cầu hóa ngày càng giống như của chính phủ - thông điệp mới ngày càng ăn sâu vào dân chúng: không có lựa chọn nào khác, ngoài việc mặc lên người chiếc áo nịt. Có bao nhiêu lãnh đạo đối lập ở Mỹ La tinh, Đông Âu và Đông Á khi lên nắm quyền trong thập niên vừa qua đã tuyên bố: "Ồ, quả là chúng ta tham nhũng thật. Chúng ta đúng là phải mở cửa. Thực tế cho thấy mọi thứ tồi tệ hơn là tôi nghĩ, và chúng ta sẽ phải tăng tốc những cuộc cải cách và nếu không thì sẽ không có đường ra. Nhưng chúng ta sẽ khoác cho những cải cách đó những bộ mặt người." Dân chủ hóa giúp cho quá trình nhận thức đó được nảy sinh. Và do đó các quốc gia điều chỉnh nhanh nhất để hội nhập toàn cầu hóa ngày nay không phải là những nơi giàu tài nguyên như Ả rập Xê út, Nigeria hay Iran, mà là những nước hay vùng được dân chủ hóa nhanh nhất, Ba Lan, Đài Loan, Thái Lan hay Hàn Quốc.
Dân chủ hóa toàn cầu hóa - không những là con đường hiệu quả nhất để giúp toàn cầu hóa được bền vững, mà là một chính sách đúng đắn và hợp lòng dân nhất mà bất cứ chính phủ nào cũng cần theo đuổi.
Địa kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa
Có lần tôi viết một bài theo lối giả tưởng về chủ đề đầu tư trong những năm 90, đại khái như sau: "Vậy là tôi quyết định sẽ đầu tư quốc tế. Tôi học lại tiếng Đức và mua một số trái phiếu công ty của Đức. Tôi học ít tiếng Nhật và mua một vài cổ phần của thị trường Nikkei. Tôi nghe lời mách bảo của một anh hầu bàn trong quán ăn Trung Hoa Chinese House of Hunan gần nhà tôi và đã mua một số cổ phiếu từ thị trường Thượng Hải. Người môi giới tài chính của tôi nói tôi nên mua một số công trái của Li Băng, nhưng tôi nói với anh ta rằng tôi đã có đủ giấy dán tường trong văn phòng của tôi rồi. Tôi cũng đã nghiên cứu về Nga, dò bảng chữ cái Nga và mua một số trái phiếu nước này. Nhưng sau tất cả những nghiên cứu và học ngoại ngữ kể trên, tôi nhận thấy tôi đã bỏ quên không học hai chữ tiếng Anh đơn giản: "Alan Greenspan." Vì, khi Alan Greenspan đột nhiên nâng lãi suất vào giữa những năm 90, khiến cho lãi suất của những trái phiếu nước ngoài giảm đi, mọi người đã bắt đầu bán đổ bán tháo những trái phiếu đó và gom tiền về nhà, và tôi đã bị nghiền nát." Tôi là một chủ nợ thiếu hiểu biết. Khi đến những nước mà tôi mua trái phiếu, tôi không biết tiền họ nợ tôi là bao nhiêu. Và tôi cũng không biết mình lãi lỗ ra sao khi rời những đất nước đó.
Vài năm sau tôi trở nên hiểu biết hơn và trở thành một người cho vay giỏi hơn. Tôi bắt đầu đầu tư quốc tế thông qua một quỹ đầu tư tín thác, có chuyên môn về các thị trường toàn cầu và có khả năng soát xét các hoạt động đầu tư. Ngay sau khi kinh tế Nga trở nên hỗn loạn hồi tháng 8/1998, tôi nhận được một lá thư từ quỹ đó - quỹ Tweedy, Browne Global - cho biết lợi tức sẽ giảm chút ít do những biến động trên thị trường tài chính phản ứng lại việc nước Nga khất nợ, nhưng quỹ này không bị thiệt hại nhiều như nhiều quỹ khác, vì nó đã biết đường tránh xa, không đầu tư vào thị trường Nga. Trong thư họ viết về nước Nga như sau: "Chúng tôi không thể hiểu nổi tại sao lại đầu tư vào những nước không có ổn định về chính trị, không có luật pháp bảo vệ các nhà đầu tư, và tiền nội tệ thì rẻ mạt như giấy lau tay vậy." Vâng, lá thư viết thêm, " hồi đầu năm 1998, thị trường Nga tăng trị giá gấp năm lần, sau đó chị một đêm đã sụt đi 80 phần trăm trị giá đó - mèo lại hoàn mèo." Hóa ra nước Nga là một con nợ tồi. Nó không có hệ điều hành và không có phần mềm, sau cùng nó khiến cho những nhà đầu tư nước ngoài đi từ số không lên mức 80 phần trăm - rồi quay lại số không.
Tôi kể hai câu chuyện trên đây bởi vì chúng cho thấy cốt lõi của hai đe dọa lớn nhất trong hệ thống tài chính toàn cầu ngày nay - khủng hoảng do "chủ nợ tồi" gây ra và khủng hoảng do "con nợ tồi" gây ra. Cũng như trong xã hội có con nghiện và kẻ bán ma túy, thì trong tài chính có loại "con nợ tồi" như nước Nga, và loại "chủ nợ tồi" như bản thân tôi. Vậy câu hỏi lớn mang tính địa-kinh tế mà chúng ta cần xử lý là: Làm thế nào chúng ta có thể làm ổn định được nền kinh tế toàn cầu ngày nay, khiến cho đỡ đi những cảnh cho vay và nợ tồi tệ, những tình huống có thể lan tràn với quy mô và chiều sâu đến mức đe dọa toàn bộ hệ thống?
Hãy bắt đầu với chuyện những con nợ xấu xa. Tôi tin rằng toàn cầu hóa đã giúp chúng ta khi làm tan chảy những nền kinh tế của Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Mehico, Nga và Brazil trong những năm 90, vì nó làm bộc lộ những hành vi và những cơ cấu thối nát và thiếu hiệu quả ở những đất nước du nhập toàn cầu hóa một cách chưa chín muồi. Theo tôi việc vạch trần gia đình Suharto tham nhũng ở Indonesia không mang tính khủng hoảng. Vạch trần sự móc ngoặc tư bản chủ nghĩa ở Hàn Quốc không phải là điều đường đột. Vạch trần những thương vụ tham nhũng tay trong ở Thái Lan cũng không khiến tôi sửng sốt. Vạch trần khoảng thời gian vô lý dành cho những kế hoạch trong đó Chính phủ Mehico cố gắng giật nóng tài trợ bằng đô-la đến nỗi không có khả năng trả nợ, cũng không khiến chúng tôi sửng sốt. Tất cả những hệ thống kể trên, trước hay sau đầu sẽ sụp đổ.
Nhưng toàn cầu hóa đã khiến những sự sụp đổ đó xảy ra nhanh hơn, câu hỏi tiếp theo giờ đây là: Chúng ta phải làm gì nhân cơ hội này? Có người muốn kiềm chế Bầy Thú Điện Tử để chúng khỏi trở lại giày xéo những nước đó. Có người muốn những nước đó áp dụng chế độ kiểm soát tài chính, dựng hàng rào để bầy thú không còn lối vào. Cả hai quan điểm trên đều do thiếu hiểu biết. Bầy thú là nguồn năng lượng của thế kỷ 21. Các nước phải học cách quản trị chúng; kiềm chế chúng sẽ vô hiệu, và nếu không cho chúng vào thì đất nước sẽ thiếu thốn tài nguyên, kỹ thuật và các kỹ năng chuyên môn, và sẽ dung túng cho chủ nghĩa tư bản móc ngoặc. Nhiều chuyên gia đã coi chính sách kiểm soát tài chính của Chi Lê là một ví dụ hay cho thấy các nước đang phát triển có thể dùng để ngăn chặn bầy thú gây rối. Từ năm 1991, Chi Lê buộc các nhà đầu tư nước ngoài đem tiền vào Chi Lê phải để tiền đó trong vòng ít nhất một năm. Chính phủ cũng đã áp đặt mức thuế ngầm đánh vào các công ty có vay mượn từ nước ngoài. Kết quả nói theo lối lạc quan là: tốt xấu lẫn lộn. Tạp chí Forbes (18/5/1998) trích dẫn báo cáo của Sebastian Edwards, cựu kinh tế gia thuộc Ngân hàng Thế giới về Mỹ La tinh, cho thấy chính sách kiểm soát tài chính chỉ thành công một phần, nhưng đã nâng rất cao mức chi phí cho việc tìm kiếm và sử dụng vốn tại Chi Lê. Ví dụ mức chi phí để vay vốn ở Chi Lê cao gấp đôi ở Argentina, nơi ủy ban tiền tệ của đất nước đã không cho phép kiểm soát tài chính. Kiểm soát tài chính đã mở đường cho các vị quan liêu và các thân hữu của họ điều tiết việc đầu tư, thay cho thị trường tự do. Là một biện pháp tạm thời để ổn định kinh tế, kiểm soát tài chính có thể rất hữu hiệu và tiện dụng - miễn là chính phủ giữ đồng nội tệ ở mức ổn định. Nhưng về lâu về dài, đó không phải là giải pháp. Trong những quốc gia ít tham nhũng như Chi Lê chẳng hạn, kiểm soát tài chính rồi sẽ dẫn tới méo mó; và trong những quốc gia nhiều tham nhũng, thì kiểm soát tài chính sẽ khiến tham nhũng nhiều hơn, tồi tệ hơn.
Do đó hướng giải quyết đúng đắn về địa kinh tế là tập trung tăng sức cho những đất nước con nợ xấu, để họ có thể sớm kết nối với bầy thú. Họ có thể lại bị giày xéo, và có những nước dĩ nhiên sẽ phải chấp nhận tổn thất. Nhưng bầy thú không phải lúc nào cũng hung dữ một cách vô lý. Ngoài một số ngoại lệ, chúng thường không bỏ chạy hay tấn công những quốc gia có hệ thống tài chính và những chính sách kinh tế lành mạnh. Một số người khi nói đến Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Nga, đã than vãn rằng bầy thú đã bỏ rơi những nơi đó, làm như thể ở những nơi đó người ta đã theo đuổi các chính sách kinh tế đúng đắn, vậy mà bầy thú vẫn vô cớ bỏ ra đi. Nói thế là vô lý. Những nước đó đã vay tiền một cách tùy tiện - chính phủ và các doanh nghiệp đã lâm vào những món nợ đáo hạn sớm, thường là nợ ngoại tệ, tiền vay không được sử dụng thích đáng, và vì thế họ trở nên dễ bị tổn thất mỗi khi có biến động ngoại tệ. Một khi bầy thú nhận thấy những việc làm thái quá như vậy, chúng sẽ giật mình và vùng chạy. Bộ trưởng Tài chính Larry Summers có lần đã nói: "Trong khi người ta theo nhau đổ lỗi cho thị trường vốn toàn cầu tham lam, coi chúng là nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng, thì phần nhiều nguyên nhân gây khủng hoảng thực ra bắt nguồn từ cung cách các chính phủ thu hút các khoản vay ngắn hạn nhưng không có khả năng thanh toán. Chúng ta đã thấy điều này ở Mexico chẳng hạn với việc mở những tài khoản đô-la; ở Thái Lan trong việc ưu đãi thuế đối với những khoản vay từ nước ngoài; ở Nga trong cố gắng của chính phủ nhằm thu hút ngoại tệ vào chu cấp cho thị trường trái phiếu trong nước."
Các nhà kinh tế và chủ ngân hàng ngày nay sẽ tranh cãi về chi tiết các biện pháp phục hồi các nước chịu nợ xấu, giúp họ tránh những giày xéo của bầy thú. Và mỗi đất nước đều có những đặc điểm khác nhau. Nhưng nói chung, biện pháp cho những nước đó tuân thủ thường có bốn bước:
Bước một, cần phải làm rõ cho những con nợ đó biết rằng mục tiêu của họ là phải tạo những điều kiện để phục hồi tăng trưởng và lôi kéo cho được bầy thú quay lại. Có nghĩa là phải cam kết để cải tiến hệ điều hành kinh tế của đất nước từ mức DOScapital 1.0 lên 6.0. Điều này đòi hỏi sự kết hợp - mức độ khác nhau trong mỗi nước - giữa cắt giảm ngân sách, đóng cửa các hãng xưởng và các cơ sở tài chính làm ăn thiếu hiệu quả và phá sản, điều chỉnh tỷ giá hối đoái, điều chỉnh lãi suất, trả nợ, và xóa đi những hành vi móc ngoặc tư bản. Mục tiêu của những cải cách đó bao gồm ổn định tiền tệ, sau đó đi đến giảm lãi suất để kích cầu trong nước và cải thiện khả năng tôn trọng các hợp đồng cam kết. Trong nhiều trường hợp, bước này cũng bao gồm việc tạo điều kiện cho bầy thú vào chiếm lĩnh các công ty trong các quốc gia đó. Tôi nhận thấy điểm cuối cùng có thể gây tranh cãi. Như thể tôi đang cố gắng làm cho thế giới trở nên rẻ mạt và an toàn hơn cho chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ. Không phải thế. Tôi đang cố gắng làm cho thế giới trở nên an toàn hơn, để thực hiện giải pháp toàn cầu và sự xóa cũ đổi mới - thiết yếu đối với tư bản chủ nghĩa - xóa đi những hãng xưởng yếu kém và thay thế chúng bằng những hãng xưởng được quản trị tốt hơn và có vốn liếng ổn định hơn, hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn quốc tế tốt đẹp nhất. Tôi không biết người mua lại các hãng xưởng cũ là Mỹ, Đức, Nhật hay Ấn Độ. Tôi chủ quan tâm tới tiêu chuẩn và tình hình vốn liếng của họ. Bang Arizona vốn có một hệ thống ngân hàng móc ngoặc khét tiếng. Và điều hay ho nhất đã diễn ra tại bang này là việc các ngân hàng có công nghệ cao hơn, quản trị tốt hơn và vốn ổn định hơn - từ New York, Chicago và San Francisco - vào mua sáp nhập các ngân hàng trong lãnh thổ bang. Một lý do quan trọng cho thấy Argentian phục hồi nhanh từ cuộc khủng hoảng Mỹ La tinh đầu những năm 90 là việc những ngân hàng nội địa của họ được các ngân hàng quốc tế tốt nhất vào chiếm lĩnh.
Được Bầy Thú Điện Tử quay lại đất nước của bạn - với niềm tin rằng chúng sẽ đầu tư dài hạn, chuyển giao kỹ thuật và tổ chức điều hành sản xuất tốt hơn trong các nhà máy - chính là một trong những phương pháp hiệu quả và nhanh nhất để xây dựng một hệ điều hành trong nước. Nói thẳng thắn, nỗi lo rằng một ngày nào đó bầy thú sẽ bỏ chạy chính là một trong những tâm lý quan trọng, một thứ kỷ luật đòi hỏi đất nước phải thường xuyên cải tiến các phần mềm và hệ điều hành của họ. Không giống các con hổ Á châu khác, Hàn Quốc, từ những năm 60 cho tới 90, bao giờ cũng ngăn chặn đầu tư của nước ngoài vào. Họ tài trợ cho tăng trưởng bằng nguồn tiết kiệm trong nước và các khoản vay, để có thể độc lập về tài chính. Nhưng cuộc khủng hoảng Á châu đã buộc Hàn Quốc phải cho phép người nước ngoài vào mua lại những ngành công nghiệp yếu ớt, và những người nước ngoài đó đang dần dần đưa vào Hàn Quốc một phong cách thương mại mới, gồm sự minh bạch và sự kiểm soát của các cổ đông đối với các doanh nghiệp.
Bước hai là thuyết phục các nước con nợ không những cải tổ hệ điều hành kinh tế mà còn hệ điều hành chính trị - chống tham nhũng và trốn thuế, cải thiện nền pháp chế và những tiêu chuẩn dân chủ để phòng khi phải thắt lưng buộc bụng, người dân vẫn hiểu rằng giai đoạn cải cách vẫn có những điều công bằng cơ bản. Không phải ngẫu nhiên mà hai nơi ít phải chịu tác động nhất từ cuộc khủng hoảng Á châu năm 1998 chính là nơi có hai chính thể dân chủ năng động nhất và hai nền báo chí tự do nhất - Đài Loan và Australia. (Có người nói Trung Quốc cũng đã không bị chấn động nhiều, nhưng nền kinh tế của Trung Quốc lúc đó đã không được kết nối đầy đủ, và vẫn còn khá nhiều tường ngăn vách cản trong khu vực tài chính của nước này.) Các nước thường xây dựng được các thành quả kinh tế xứng đáng với tiềm năng của mình, những thành quả kinh tế đó trực tiếp liên quan tới những hệ điều hành và phần mềm cùng nền dân chủ mà họ xây dựng nên.
Chính vì thế mà bước ba bao gồm việc bảo đảm thực hiện các chương trình hỗ trợ cân bằng ngân sách, trả nợ hay hoãn nợ, do IMF hay các định chế tài chính khác đưa ra, với điều kiện các nước con nợ phải thực hiện bước một và hai. Mục tiêu rõ ràng của các chương trình hỗ trợ của IMF là phục hồi sự ổn định, tăng trưởng và lòng tin để bầy thú, trong và ngoài nước, tìm đường nối lại đầu tư. Bộ trưởng Tài chính Summers nói rất đúng khi ông ta lập luận rằng vai trò của IMF trong tương lai nên là kích thích thực hiện các giải pháp dựa trên cơ sở thị trường và tăng cường cung cấp các dữ liệu tài chính chính xác, kịp thời và rộng rãi để bầy thú có thể áp dụng trong việc vạch kế hoạch đầu tư. Trong một thế giới mà khu vực tư nhân đang là nguồn vốn và sáng tạo lớn nhất cho tăng trưởng, nếu không có những thông tin nói trên thỉ sẽ không có sự phục hồi vững chắc.
Bước bốn là sử dụng các hỗ trợ của IMF hay của các định chế tài chính khác duy trì những mạng lưới phúc lợi xã hội tối thiểu trong những nước con nợ vào tạo công ăn việc làm mang tính xã hội để giảm bớt thất nghiệp. Những mạng lưới xã hội thường là những khoản bị cắt giảm đầu tiên theo các chương trình cứu trợ kinh tế. Các chủ ngân hàng quốc tế, những người thường chỉ chú trọng và khả năng thanh toán của các nước mỗi khi cân nhắc cho các nước vay tiền, thường bỏ qua tình cảnh phúc lợi xã hội khốn khó trong các nước. Điều đó thật điên rồ. Vì rốt cuộc, khủng hoảng thực sự trong các nuớc thiếu nợ - sẽ có ảnh hưởng tới toàn cầu - không mang tính kinh tế, mà mang nhiều màu sắc chính trị.
Lý do là: Khi vạch trần những hành vi thối nát trong các nước thiếu nợ, toàn cầu hóa không những đánh vào các nhà tư bản móc ngoặc ở đó mà còn đè bẹp rất nhiều dân thương, những người làm ăn cần mẫn, đúng luật và có lòng tin. Những người đó không nghĩ rằng đất nước của họ chỉ là những chiếc thùng không đáy. Vì khi được lắp đáy vào, như trường hợp Nga, Mexico, Thái Lan, Indonesia và Brazil, thì vẫn xảy ra thất nghiệp, sa thải hàng loạt, lạm thu, tắc nghẽn về tài chính và thu nhập thực tế giảm mạnh. Chính vì thế điều thiết yếu là phải duy trì các hệ thống phúc lợi tối thiểu cũng như các chương trình dạy nghề trong quá trình phục hồi đất nước. Vô nghề nghiệp và thiếu phúc lợi thì chính phủ sẽ không tài nào tìm được từ dân chúng sự kiên nhẫn cần thiết để tiến hành các chính sách cải cách nhằm phục hồi và tăng trưởng đất nước.
Trong các nước lớn, nếu số đông trong dân chúng trở nên đói kém, thì các lãnh đạo thường bị cám dỗ bởi ý tưởng tách đất nước ra khỏi hệ thống thế giới, xây tường ngăn vách cản và theo đuổi các chính sách thả nổi xã hội. Đó chính là những chính sách giúp tạo ra cuộc Đại khủng hoảng và đưa đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Dạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu thứ hai chính là dạng khủng hoảng do những chủ nợ tồi gây ra - từ ngân hàng tới quỹ đầu tư, các cơ sở đầu cơ tiền tệ - những định chế đó ngày nay có thể cho vay nhiều tiền đến nhiều người ở nhiêu nơi với những cấp độ không ngừng, nhưng bỗng nhiên, khi chúng đường đột đòi lại vốn và lãi, chúng có tiềm năng gây phương hại đến tất cả các nền kinh tế, dù là tốt đẹp hay tồi tệ.
Sự tài trợ thiếu lành mạnh có nhiều dạng. Tôi là người cho vay tiền kém cỏi là do tôi đổ tền vào những thị trường mới trong khi mù tịt, không biết ở đó họ làm ăn ra sao. Một vài trong số các chủ nợ tồi tệ nhất trong những năm gần đây là những nhà băng lớn. Bạn tôi làm việc trong thị trường Hồng kông có lần kể rằng vào đầu những năm 90, kinh tế Á châu đang trở nên một cao trào, Ngân hàngDresdner của Đức thông báo với quản trị viên Á châu của họ: "Cho vay, cho vay nữa, cho vay tiếp đi, nếu không chúng ta sẽ không chiếm được thị phần ở đó." Ngân hàng kiếm tiền bằng cách cho vay tiền, và thời đó ngân hàng nào cũng nghĩ châu Á là nơi ngon ăn, và ngân hàng bắt đầu cạnh tranh để chiếm lĩnh châu Á. Vậy là họ ném tiền qua cửa sổ, chẳng khác những tay buôn ma túy dúi thuốc vào tay các con nghiện. Phương châm của các nhà băng đối với thế giới đang phát triển là: "Nhanh lên anh em, tiền đây, khoản vay đầu tiên sẽ được miễn phí." Chính vì thế vào đầu năm 1999, ngay cả sau khủng hoảng ở Á châu và Nga, 500 ngân hàng hàng đầu từ 30 quốc gia dân chủ và công nghiệp hàng đầu vẫn là chủ của món nợ tổng cộng 2,4 ngàn tỷ đô-la dành cho các nước đang phát triển. Thật là một đòn bẩy khổng lồ.
Một dạng cho vay cẩu thả khác là khi nhà băng chuyển hàng triệu đô-la sang các quỹ đầu cơ để chúng có thể nuôi các cơ hội đầu cơ. Quỹ đầu cơ nhận 1 đô-la từ người đầu tư, mượn 9 đô-la từ ngân hàng, rồi dùng số tiền đó đặt vào mua các cổ phần, trái phiếu và các đồng tiền trên khắp thế giới. Thông thường mà nói thì việc đặt tiền đầu cơ như vậy không có gì sai trái. Vay tiền mua nhà trả góp chính là một vụ đặt tiền. Bạn muốn mọi người tận dụng cơ hội đặt tiền. Bạn muốn mọi người chịu mạo hiểm để đầu cơ - thậm chí mạo hiểm cao. Nhờ đó các doanh nghiệp non trẻ có cơ hội tăng tiến để họ có thể bị phá sản hoặc làm nên như Microsoft chẳng hạn. Điều nguy hiểm là ở chỗ số tiền ném vào các quỹ đầu cơ và các thị trường mới trỗi dậy lên đến mức cao khủng khiếp, hệ thống chuyển ngân được bôi trơn, được ăn khớp và hoạt động nhanh chóng quá, nên khi những tay mạo hiểm lớn - như Quỹ LongTerm Capital Management - mắc lỗi, thì chúng có thể phá tan cơ nghiệp của tất cả mọi người.
Chính vì thế từ cuộc khủng hoảng đồng peso của Mexico năm 1994-95, gây chấn động tới việc cho vay toàn cầu trong những năm 90 - và lượng tiền do các chính phủ và các định chế huy động để chống lại hiện tượng các nước theo nhau khất nợ - đã tăng lên nhiều lần. Đó là một khuynh hướng nguy hiểm.
Chúng ta đã hiểu thêm về hiện tượng cho vay nợ cẩu thả và chúng ta nay đang cần đến các loại đòn bẩy trong hệ thống. Chúng ta muốn các nhà đầu tư chịu mạo hiểm. Nhưng chúng ta không muốn các cá nhân, ngân hàng, quỹ đầu cơ, các quốc gia hay các nhóm đầu tư theo đuôi... trở nên quá tham lam, vì làm như vậy họ sẽ tạo ra những phản ứng dây chuyền dẫn đến khủng hoảng. Câu hỏi là: làm cách nào?
Có rất nhiều các nhà địa-kiến trúc sư tiềm năng trên thế giới, họ đều có những đề xuất cải tạo thế giới để đối phó với hiện tượng cho vay lan tràn thiếu kỷ luật. Herry Kissinger nói rằng các quốc gia phải hợp lực để có thể thuần phục các thị trường tự do. Một số các nhà kinh tế cho biết chúng ta phải ném cát vào các guồng máy toàn cầu hóa - bằng cách áp đặt thuế đối với các giao dịch tiền tệ hoặc khuyến khích các chính phủ ra tay kiểm soát tài chính ở một mức nhất định. Một số nhà phân tích thị trường nói chúng ta cần một ngân hàng trung ương toàn cầu để có thể điều tiết kinh tế toàn cầu theo lối Cục Dự trữ Liên bang Mỹ điều tiết kinh tế Mỹ. Và những người khác nói chúng ta phải ấn định giới hạn đối với việc cho vay.
Quan điểm của riêng tôi là những ý đồ nói trên sẽ không thể sớm được thực hiện, và nhiều điều trong đó chỉ là nói suông từ miệng những người thiếu hiểu biết.
Xin trình bày một ý kiến thực tế. Trước hết, chúng ta nên đi chậm rãi và khiêm tốn. Tôi muốn nói là chúng ta phải hiểu cho ra rằng hệ thống kinh tế toàn cầu vẫn còn rất mới và phát triển rất nhanh, đến mức trong số chúng ta chưa ai biết sẽ phải rẽ bên nào và ngưng nghỉ tại đâu. Alan Greenspan là một học giả suốt đời nghiên cứu về tài chính quốc tế và là một trong những nhà hoạt động tài chính quan trọng nhất ngày nay. Nhưng vào tháng 12/1998, khi tôi hỏi ông ta về hệ thống tài chính toàn cầu hóa, ông ta đã đưa ra một câu trả lời chính thức khiến chúng ta phải lấy làm khiêm nhường hơn. Ông ta nói: "Trong 12 tháng qua, tôi đã học thêm về cách hoạt động của hệ thống tài chính quốc tế hơn nhiều về những gì tôi học được trong 20 năm qua."
Đối với những người cho rằng chúng ta nên ném một chút "cát vào guồng máy" kinh tế toàn cầu để nó chạy chậm lại chút ít, tôi xin đáp lại là rất khó có thể ném cát vào guồng máy nếu như bạn không biết guồng máy đó nằm chỗ nào. Nếu ném cát vào một cỗ máy đang chạy trơn tru, đủ dầu mỡ và làm bằng thép không gỉ, thì có lẽ nó không những sẽ chạy chậm lại, mà nó sẽ giận dữ, cọ xát, phát nổ và đứng hẳn lại. Bạn sẽ ném cát vào đâu khi bạn đang phải ứng phó với một nhà quản trị vốn đóng ở bang Connecticut sử dụng một điện thoại di động, một modem hiện đại và Internet, đầu tư vào Brazil, thông qua một ngân hàng ở Panama? Rất khó có thể ném cát vào các chíp vi tính, đó là chưa nói đến không gian điện toán. Hơn nữa vào lúc bạn áp đặt thuế đối với những giao dịch tiền tệ, thì nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư đã rời khỏi Hoa Kỳ sang đóng tại những nơi có luật lệ tài chính lỏng lẻo, ở đảo Cayman chẳng hạn - đảo này là trung tâm đứng thứ năm trên thế giới nơi tập trung các ngân hàng lớn. (Quỹ Long-Term Capital Management có trụ sở ở Connectucut những được đăng ký tại đảo Cayman). Đối với những người muốn giảm lượng tiền tệ mà ngân hàng cấp cho các quỹ đầu cơ và các thị trường mới nổi, tôi chỉ muốn chỉ cho họ một thực tế rằng ngành ngân hàng của Mỹ là một trong những ngành có ảnh hưởng mạnh nhất đối với hành lang quyền lực ở Washington, và các ngân hàng Mỹ sẽ mạnh mẽ chống lại bất cứ hạn chế tài chính nào, dẫu chó chúng có phải tốn tiền vào việc đó. Được rồi, được rồi, bạn sẽ nói rằng các nước khác sẽ làm điều đó, khiến cho tín dụng sẽ không ra vào nhanh như hiện nay. Trung Quốc hiện áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ đối với các khoản vốn, nhưng trong năm 1998, các ngân hàng ở Trung Quốc, các cá nhân và công ty ở nước này đã xoay xở để lách luật, chuyển hàng tỷ đô-la khỏi đất nước - sử dụng nhiều mánh khoé khác nhau - để họ có thể dùng tiền ở nước ngoài, tránh được sự kiểm soát của chính phủ. Nếu một chế độ toàn trị như Trung Quốc mà không áp đặt được kiểm soát một cách hiệu quả thì theo bạn những nước như Brazil làm sao làm nổi điều đó? Sau cùng có những người kêu gọi thiết lập một nhà băng toàn cầu - giống như Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đối với thế giới. Đây là một sáng kiến tuyệt vời nhưng không thể được thực hiện một sớm một chiều được - khi mà chúng ta đang có hai trăm quốc gia với hai trăm chính phủ khác nhau trên hành tinh.
Vậy điều đó có nghĩa chúng ta sẽ chẳng làm được điều gì? Không phải vậy. Có tin mừng là sau những khủng hoảng 1998-99, thị trường, không bị kiểm soát và không có cát nằm trong guồng máy, đã tự khép mình vào một chút kỷ luật. Bạn có thể thấy dấu hiệu đó ở mọi nơi: Các nhà quản trị của các ngân hàng lớn nhất thế giới - Barclays PLC, BankAmerica, United Bank of Switzerland - đã bị sa thải vào năm 1998, sau khi ngân hàng của họ chịu lỗ rất nặng do đã giao dịch với tổ chức cho vay ở các thị trường có độ mạo hiểm cao. Và BankersTrust, thua lỗ 500 triệu đô-la trong một quý năm 1998, phần nhiều do làm ăn với nước Nga, đã không còn được độc lập làm ăn. Nó đã bị ngân hàng Deutsche Bank mua lại.
Sau những vụ thanh trừng đó, tất cả các nhà băng lớn đã và đang hạn cế các đòn bẩy giao dịch, ngưng làm ăn với các nhà quản trị quỹ đầu tư thái quá, đòi hỏi thêm nữa sự minh bạch trong cơ cấu những quỹ đầu tư mà họ còn quan hệ, và soát xét chặt chẽ hơn các thông số của các thị trường mới nổi, không những về cán cân thu chi, mà còn kiểm tra thêm về hệ điều hành, hệ thống luật pháp và ác loại phần mềm khác. Nói cách khác, nếu không có những luật lệ mới thì ai ai trong hệ thống cũng sẽ bắt đầu để tâm đến những rủi ro tiềm tàng. Các nhà băng sẽ thường xuyên chất vấn các quỹ đầu tư: "Tổng số đầu tư của các vị là bao nhiêu? Và trong trường hợp xấu nhất thì chúng tôi, những người cấp vốn, sẽ phải chịu bao nhiêu hệ lụy?" Các nhà đầu tư giờ đây sẽ thường xuyên chất vấn các quỹ đầu tư: "Những khả năng rủi ro lớn nhất hiện là gì và sẽ can hệ thế nào đến cả hai chúng ta, và làm thế nào để có thể phòng chống?" Và IMF, Bộ tài chính Hoa Kỳ và các quản trị viên các quỹ sẽ chất vấn các nước thuộc những thị trường mới: "Quý vị đang làm gì để có tể cải thiện hệ thống tài chính và sử dụng tiền công đang ra vào đất nước của quý vị? Chúng tôi muốn biết tường tận và thường xuyên về những điều đó."
Quản trị viên các quỹ đầu tư đã học được bài học rằng muốn hùn vốn, họ sẽ phải cởi mở hơn với các cổ đông và các ngân hàng. Tôi biết một quản trị viên đầu tư ở London, người, giữa cơn khủng hoảng 1998, đã thông báo cho cổ đông của họ biết rằng ông ta đã lập một địa chỉ web. Khách hàng có thể dùng mật mã vào địa chỉ này để có thể theo dõi những mức và khoản đầu tư của quỹ này đang hàng ngày thực hiện,ở bất cứ đâu và tiến độ đầu tư, thu chi ra sao. Ông này nói với tôi: "Tôi biết rằng nếu muốn lôi kéo thêm đầu tư, tôi sẽ phải cho khách hàng biết thêm thông tin. Nhiều đòn bẩy tài chính đang được các nhà băng tung ra, nhưng họ không biết rằng cũng có những nhà băng khác cùng làm như vậy. Các nhà băng ứng xử không khác gì những thằng ngu. Mỗi ngày, tôi có thể chỉ ra điều đó trong số 20 nhà băng, nhưng chính họ cũng không nhận thấy điều đó. Hằng ngày tôi đều phải mượn tiền, vậy thì nhà băng rồi sẽ đòi hỏi tôi báo cáo vào cuối ngày về tổng số tiền vay mượn của tôi ra sao. Tôi đã thấy điều đó đang được bắt đầu. Các nhà băng hiện nay đang tuyên bố, " Tôi không cần biết anh đang mượn tiền từ những đâu, nhưng tôi muốn biết tiền tôi cho anh mượn nằm ở đâu trong tổng số tiền anh đang đầu tư."
Giải pháp thực tế duy nhất là tìm cách tăng cường áp dụng những phương pháp kể trên vào tương lai, cho đến ngày môt hệ thống điều tiết tài chính toàn cầu được thiết lập, Nếu mọi người từ IMF và Merrill Lynch và bà cô Bev của tôi thường xuyên chất vấn như trên, thì chúng ta có thể phòng được hai và giảm chấn động được một trong số năm cuộc khủng hoảng trong tương lai. Một trong những điều quan trọng nhất mà IMF có thể làm được đó là phối hợp với các quốc gia, khiến họ công khai hóa những báo cáo về chi tiết cán cân thu chi của họ - bao gồm luôn những khoản nợ nước ngoài còn tồn đọng của nhà nước, cùng số lượng và thời gian đáo hạn của các khoản nợ của khu vực tư nhân. Không có một sự giám sát nào hiệu quả hơn là việc bạn tự biết có những người khác đang theo dõi và hiểu chính xác công việc bạn đang làm.
"Điều mà quý vị đang cố gắng làm là tránh những sự thái quá trong vay mượn có thể dẫn đến những mạo hiểm chất chứa, những rủi ro đó không những sẽ làm hại bản thân những thủ phạm, mà cùng sẽ làm cho những người xung quanh liên lụy," William J. McDonough, Chủ tịch Cục Dự trữ New York cho biết. Ngân hàng đó đã đứng ra phối hợp các nhà đầu tư và quản trị ngân hàng tư nhân để cứu Quỹ Long-Term Capital Management. "Điểm then chốt là tìm kiếm, lưu giữ và chia sẻ thông tin. Nếu chúng ta có thông tin qua lại - thỉnh thoảng bằng cách hỏi thêm một vài câu - thì chúng ta có thể báo cho ngân hàng rằng chúng ta đang điều tiết khoản vay, khoản kia, hay có những khoản vay đang vượt quá khả năng quản trị của các quỹ."
Giải pháp nói trên - kêu gọi mọi người trong hệ thống phải tuân thủ kỷ cương, người mượn tiền phải giải trình rõ ràng hơn, cổ đông phải khôn ngoan hơn và nhà băng và các cơ sở tín dụng phải làm ăn cẩn thận hơn - chưa chắc sẽ được hăng hái đón nhận. Nhưng bây giờ chính là lúc chúng ta hãy chấm dứt sự tự huyễn hoặc. Còn lâu mới có thể có được một ngân hàng trung ương cho toàn cầu. Và trong một thế giới được nối mạng, với các siêu thị tài chính và những cá nhân được trang bị siêu hiện đại, gồm cả các cổ đông nhiều hiểu biết - có những sự việc mà chính phủ không thể chặn đứng và có những thế lực mà chính phủ không thể kiểm soát hoàn toàn. Chính vì thế chúng ta phải cộng tác với những định chế sẵn có để quản lý tài chính giỏi hơn, không đợi đến ngày có một ngân hàng toàn cầu sai bảo. Rõ ràng là khi những nhân vật hoạt động trong thị trường tự giác và có kỷ luật hơn đối với bản thân và những người nắm luật lệ thực hiện chức năng nghiêm chỉnh hơn, và IMF điều tra và theo dõi chặt chẽ hơn, thì sẽ có những hiệu ứng mang tính kiềm chế để ít nhất có thể giảm được những sự thái quá trong tài chính ở mức có thể đe dọa toàn bộ hệ thống.
Bạn không thể hy vọng có được điều gì hơn thế. Các thị trường ngày nay rộng lớn, đa dạng, và từ khi có Internet, hoạt động nhanh chóng hơn - chúng không bao giờ có thể được miễn nhiễm khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính sẽ là đặc tính của thời toàn cầu hóa. Với tốc độ thay đổi nhanh chóng ngày nay, và với thực tế cho thấy rất nhiều quốc gia đang ở vào giai đoạn phát triển khác nhau, khủng hoảng sẽ là một căn bệnh truyền nhiễm. Vậy thì, thưa các độc giả kính mến, xin cho tôi được đưa ra một lời khuyên: Hãy buộc dây an toàn, kéo thẳng lưng ghế, khóa bàn ăn phía trước. Vì những thăng trầm sẽ đến với các bạn nhanh khủng khiếp. Hãy quen với chúng và hãy đảm bảo đòn bẩy trong hệ thống tài chính hiện nay không đi quá đà nếu không thì tai họa sẽ đến rất nhanh. Những ai nói với các bạn rằng họ có một kế hoạch xóa bỏ những khủng hoảng nói trên thì chính họ đang lừa dối bạn. Thật ra, khi bạn đang đọc những dòng này, thì đâu đó đã có một mầm mống khủng hoảng đang đâm chồi nảy lộc.
Hãy tưởng tượng việc tham gia vào kinh tế toàn cầu ngày nay không khác gì việc lái một chiếc xe đua tham dự giải Thể thức một. Chắc chắn sẽ có ai đó trong cuộc đua lái chệnh xe đâm vào tường, đặc biệt nếu tay đua trên xe đó vài năm trước chỉ điều khiển được con lừa. Bạn có hai lựa chọn. Cấm cuộc đua Thể thức một. Như vậy sẽ không xảy ra tai nạn. Nhưng sẽ không có tiến bộ. Hay bạn hãy làm tất cả những điều có thể để giảm chấn động và hậu quả của những vụ xe lạc lối tông vào tường - bạn có thể để sẵn một xe cứu thương túc trực, với đội ngũ bác sĩ và nhiều máu thuộc các nhóm khác nhau để truyền. (Trên thị trường, chúng sẽ là IMF, nhóm G7 và các ngân hàng lớn, có khả năng chuyển tiền vào để phòng trừ nguy cơ kinh tế sụp đổ.) Đồng thời, bạn có thể thiết kế các đời xe đua bền chắc hơn. (Mỗi nhà đầu tư nên chi trả thêm để đánh giá các hệ điều hành và luật lệ trong các thị trường mới nổi xem chúng có khả năng sử dụng ngân khoản đúng đắn và làm ra lãi để trả nợ hay không.) Bạn có thể chú trọng huấn luyện các tay đua. (Đảm bảo rằng IMF, giới đầu tư và các ngân hàng thường xuyên đòi hỏi thêm các thông số chính xác về kinh tế các nước, đặc biệt các ngân khoản ngắn hạn được sử dụng ra sao.) Và sau cùng, bạn nên chất rơm, hay đệm mềm xung quanh các đường đua phòng trường hợp các xe đua trượt khỏi đường đua đâm vào đó. Nhưng bạn không nên chất quá nhiều rơm hay đệm, vì làm như thế sẽ lấn vào đường đua. (Thể lệ và quy tắc ngân hàng và tài chính phải được kiện toàn, phải có các hệ thống bảo hiểm và những chuông báo động để tìm ra và cắt ngòi nổ các nguyên nhân khủng hoảng.)
Nếu bạn không muốn làm những điều đó thì có lẽ nên quên đi Thể thức một và chuyển sang chạy bộ. Nhưng hãy cận thận, vì người chạy bộ trong thế giới ngày nay rất dễ bị những tay đua Thể thức một chẹt chết.
Những cây Ôliu của thời kỳ toàn cầu hóa
Sau khi cuốn sách này được xuất bản lần thứ nhất, tôi muốn gửi một lô các ấn bản cuốn sách cho một người bạn ở San Francisco, và có một nhân viên chuyển phát đến nhà tôi nhận sách để chuyển đi. Đó là một người Mỹ gốc Phi, đứng tuổi và mập mạp; tôi mời anh ta vào chờ trong bếp để tôi ký nhận và đóng gói. Ngồi bên bàn, anh ta nhặt một cuốn và dở các trang sách. Sau vài phút, anh ta đặt cuốn sách xuống và hỏi tôi, "Vậy chiếc Lexus là hiện thân của kỹ thuật và máy vi tính hay những thứ tương tự?"
Đúng thế, tôi nói.
"Còn cây Ôliu - đại diện cho cộng đồng và gia đình và những điều liên quan."
Đúng thế, tôi nói. "Anh hiểu đúng đấy!"
" Vậy hãy nói cho tôi biết," anh ta nói. "Chúa trời đứng ở đâu trong bức tranh đó? Trong tôi luôn hiện diện của Chúa Jesus. Ngài đứng đâu trong cái bức tranh toàn cảnh đó?"
Tôi không khỏi bật cười, chỉ vì không biết bao nhiều lần tôi đã bị hỏi như vậy, đặt biệt khi nói chuyện về cuốn sách với các nhóm độc giả. Một vài câu hỏi trong số thường xuyên được nêu ra là: Chúng trời có ở trong không gian điện toán không? Làm thế nào để nuôi dạy con cái trong cái "Thế giới Đi nhanh" này? Và thế giới đó sẽ ảnh hưởng ra sao đến bản thân tôi và cộng đồng của tôi? Tôi cho rằng cả ba câu hỏi trên có chung một nguồn gốc. Mọi người hỏi: Ngay cả khi chúng ta không tạo được một nền chính trị, địa-chính trị, địa-kinh tế và địa-quản lý cho đúng đắn để có khiến toàn cầu hóa trở nên ổn định, thì sẽ có một thứ chính trị khác, khó quan sát hơn nhưng cần phải được gìn giữ trong đầu mỗi người - những cây Ôliu trong mỗi chúng ta: sự cần thiết phải có cộng đồng, có những ý nghĩa tâm linh và những giá trị trong đó chúng ta hun đúc cho con cái chúng ta. Những giá trị đó cần phải được bảo vệ và nuôi dưỡng để toàn cầu hóa có thể được bền vững. Có thể viết cả một cuốn sách về riêng đề tài này. Tôi xin được phác họa sau đây những nét đại thể.
Hãy bắt đầu bằng chủ đề tôn giáo. Chúa trời có tồn tại trong không gian điện toán? Điều này tùy thuộc vào cách bạn nhìn nhận Chúa trời. Nếu quan điểm của bạn cho rằng Chúa trời chỉ liên hệ với bạn qua những điều thiêng liêng thuộc tâm linh, Chúa trời quả đã nhào nặn thế giới, thì bạn sẽ nói Chúa trời không có mặt trong không gian điện toán, hay nói cách khác: không gian điện toán đã biến bạn thành một kẻ vô thần. Bởi vì khi nhìn không gian điện toán thì rất khó cho người ta nghĩ rằng nó được Chúa tạo ra, một trong những nguyên nhân là có rất nhiều các trang web chất chứa các tranh ảnh khiêu dâm, đánh bạc và nhạc pop. Quả thật những từ được sử dụng nhiều nhất trên những trang web là "sex" và "MP3" - một loại nhạc nén - chứ đâu phải là "Chúa trời."
Quan điểm của riêng tôi về đức Chúa, trong truyền thống Do Thái mà tôi được nuôi dưỡng, tương đối khác. Tôi chia sẻ quan điểm hậu Kinh thánh về đức Chúa. Trong Kinh thánh, đức Chúa có mặt ở mọi nơi. Ngài chịu trách nhiệm về hành động của chúng ta. Ngài trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt. Quan điểm hậu Kinh thánh cho rằng nhờ có hành vi và quyết định của chúng ta đức Chúa xuất hiện. Trong quan điểm hậu Kinh thánh, theo truyền thống Do Thái, thì đức Chúa bao giờ cũng đứng vô hình. Vậy thì trong không gian điện toán, trong siêu thị, trong phòng riêng của bạn, bạn có thể mời đức Chúa đến với bạn thông qua các hành vi của bạn, khi bạn có những lựa chọn mang tính đạo đức và luân lý và cả khi nhắp con chuột vi tính.
Giáo sĩ Tzvi Marx thầy tôi chỉ ra cho tôi rằng có một vần thơ trong kinh Isaiah, viết rằng, "Bạn là nhân chứng. Còn tôi là Chúa trời." Theo thầy giáo Marx, thì những người thuyết giảng về Do Thái giáo giải thích vần thơ đó như sau, "Nếu bạn là nhân chứng thì chúng tôi là Chúa trời. Và nếu bạn không là nhân chứng, thì tôi không phải là Chúa trời." Nói cách khác, thầy Marx giải thích, nếu chúng ta không làm điều thiện, thì Chúa sẽ không đến với chúng ta, không tồn tại trong chúng ta. Nếu chúng ta không hành xử như thể Chúa đang ngự trị ở đó, thì ngài sẽ không ở đó. Trong thế giới hậu Kinh thánh chúng ta hiểu rằng từ ngày đầu tiên của thế giới, Chúa trời đã cho phép nhân loại được lựa chọn, bằng cách cho phép Adam được tự quyết định sẽ ăn loại trái cây nào trong vườn địa đàng. Chúng ta chịu trách nhiệm làm Chúa trời xuất hiện bằng cách thể hiện trong những hành vi và lựa chọn của chúng ta. Và lý do làm cho việc này càng rõ nét trong không gian điện toán, đó là do không ai đứng ra chịu trách nhiệm trong không gian này cả. Vậy không gian điện toán là nơi lý tưởng nhất mà Chúa dành cho mỗi người để mỗi người tự lựa chọn và quyết định cho bản thân.
Vậy đáng nhẽ tôi sẽ phải trả lời người nhân viên chuyển phát rằng không có đưc Chúa trong không gian điện toán, nhưng ngài mong muốn vào được đó - và chỉ cho chúng ta, con người, thông qua các hành vi của bản thân, có thể đưa ngài vào đó. Đức Chúa ban phước cho tự do của nhân loại, vì ngài biết rằng cách duy nhất mà ngài tồn tại được trên thế gian là không can thiệp - và con người được quyền tự do lựa chọn. Rabbi Marx nói: "Trong quan điểm hậu Kinh thánh của người Do Thái, bạn không thể là người có đạo đức nếu bạn không được hoàn toàn tự do, vì nếu thiếu tự do thì bạn không thực sự được tiếp sức lực, và nếu bạn không có sức lực, thì những lựa chọn của bạn không hoàn toàn là của riêng bạn. Những gì đức Chúa phán truyền về không gian điện toán là: ở đó con hoàn toàn được tự do, Chúa hy vọng là con đưa ra những lựa chọn đúng đắn, vì nếu như thế, thì ta sẽ đến với con."
Không có điều gì trong toàn cầu hóa hay Internet lại có thể xóa đi sự cần thiết của lý tưởng và luân thường đạo lý trong hành vi con người. Càng lệ thuộc vào kỹ thuật mới, chúng ta càng phải được trang bị kỹ càng các lý tưởng và đạo lý. David Hartman, một triết gia Do Thái về tín ngưỡng lập luận rằng quả thực, lý do đức Chúa rất muốn có mặt trong không gian điện toán, lý do mà chúng ta muốn ngài ở đó, là vì về một nhiều phương diện không gian điện toán chính là thế giới mà các đấng tiên tri đã mô tả, "một nơi mà nhân loại có thể đoàn kết và được hoàn toàn tự do. Điều nguy hiểm ở chỗ chúng ta đoàn kết nhân loại trong không gian điện toán - cùng nói một thứ tiếng, dùng một công cụ truyền thông chung - nhưng lại không có Chúa ở đó." Và chắc chắn chúng ta sẽ không muốn đoàn kết nhân loại trên Internet nếu không có những hệ thống giá trị, không có những bộ lọc, không có những hệ khái niệm khác hơn là kinh doanh và nếu không có những quan điểm về nhân loại khác hơn là cái lối hành xử của giới tiêu thụ tìm kiếm hàng ngon và rẻ.
Những giá trị quan trọng nhất đó lại nên được giảng dạy ở ngoài đời, chứ không phải trên Internet. Các duy nhất mà con người tìm thấy Chúa trên Internet là họ phải đưa ngài đến đó, mang bằng suy nghĩ, trái tim và hành vi của chính họ - rút ra từ các hoạt động trong cuộc sống thường ngày - từ những rặng Ô liu trong ngôi nhà của cha mẹ, hay trong cộng đồng, nhà thờ, chùa, miếu, đền hay thánh đường của họ.
Điều đó dẫn sang câu hỏi thứ hai thường xuyên được đặt ra: Làm sao tôi chuẩn bị cho con cái tôi hòa nhập được vào "Thế giới Đi nhanh? " Nhiều bậc cha mẹ ở Mỹ đã bắt đầu nghĩ về điều đó sau khi nghe bản tin về vụ nổ súng ở Trường Trung học Columbine. Nó bao gồm hai mảng đề tài mới mẻ: NRA và AOL. Chắc chắn NRA, Hiệp hội Súng trường Quốc gia, sẽ cảm thấy đầy tội lỗi khi nghe về vụ thảm sát học trò tại ngôi trường đó. Bản tin nói về hai đứa học sinh trung học dùng tiền tiết kiệm của chúng mua được cả một kho vũ khí gồm cả loại AB-10, một loại súng máy bán quân dụng, không để lại dấu tay, và súng carbine 9mm, súng ngắn cưa nòng, và súng hai nòng cũng cưa nòng. Sự việc đó khiến cho những người xưa nay vốn chống lại luật kiểm soát vũ khí dân dụng phải hổ thẹn.
Nhưng còn AOL, American Online, một công ty cung cấp đường truyền Internet, đã cho đăng ký cả một trang web của Eric Harris, một trong hai kẻ giết người đang còn lứa tuổi học sinh? Thông tin được đăng trong trang mạng của Harris bao gồm cả những chỉ dẫn cách lắp ráp những trái bom hình ống (" điều quan trọng là phải có nhiều mảnh sát thương"), trong trang này có hình một con thú múa tay tung súng và dao, trong khi đứng trên một đống đầu lâu, với lời hát, "Những gì ta không làm, ta không thích. Những gì ta không thích, ta giết đi."
Là những người cha, người mẹ, chúng ta có nên lo sợ về Internet? Câu trả lời ngắn gọn là: không. AOL không phải là NRA - nhưng như thế chưa thật sự là lời giải đáp. Khi Internet di chuyển vào trung tâm cuộc sống của chúng ta - cách liên lạc, giáo dục và làm ăn trong thiên niên kỷ mới - chúng ta phải nhớ một điều thiết yếu: Điều khiến cho Internet trở nên hấp dẫn là, không giống như tờ báo The New York Times, Internet không có biên tập viên, không có nhà xuất bản, và không bị kiểm duyệt. Bạn và con cái của bạn quan hệ tương hỗ với Internet một cách hoàn toàn bình đẳng. Nhưng cũng chính vì Internet là một cỗ xe trung dung, cởi mở, tự do và không bị điều tiết dành cho thương mại, giáo dục và liên lạc, thì tính tự giác và trách nhiệm của bản thân mỗi người chính là những cốt lõi của công nghệ này. Bộ máy sàng lọc chính nằm trong đầu của con cái của bạn khi chúng vào truy cập, và vì trẻ em thường không có đủ những hiểu biết để lựa chọn, vậy thì cha mẹ và thầy cô giáo phải trang bị cho chúng. Nếu chúng ta không cáng đáng hoàn toàn trách nhiệm xây dựng trong con cái những phần mềm đúng đắn cho sự xét đoán để chúng có thể tương tác đúng đắn với công nghệ đó, thì chúng ta sẽ gặp khó khăn.
Tôi lớn lên trong một khu phố nhỏ ở bang Minneapolis. Phải mất một tiếng đồng hồ đi từ nhà tôi thì bạn mới đến những ổ tội phạm. Trên Internet, chỉ cần một cú nhấp chuột là tai họa sẽ đến. Bạn có thể lang thang vào một quán bia ảo của những phần tử phát xít mới hay những kho tư liệu tranh ảnh khiêu dâm, truy cập vào các máy tính của NASA hay vào thư viện của Đại học Sorbone, mà không có ai chặn bạn lại. Nói cách khác, Internet có thể biến chúng ta thành những cơ quan truyền thông, những nhà nghiên cứu, nhà tiêu dùng và những người bán hàng và, lạy thánh, những nhà chế tạo bom. Càng như thế thì thầy giáo, cha mẹ và cộng đồng của chúng ta càng phải có trách nhiệm dạy dỗ chúng ta thành những công dân đúng đắn. Công việc đó chỉ có thể được thực hiện bên ngoài Internet. Internet và máy vi tính chỉ là những công cụ - những công cụ tuyệt vời, tiếp tay thích đáng cho mọi người. Nhưng bạn vẫn cần phải biết cách hiểu chúng và tận dụng những cái hay cái đẹp của chúng. Những công cụ đó giúp cho bạn suy nghĩ nhưng chúng không làm cho bạn thông thái hơn. Chúng cho bạn tìm tòi và đi lại, nhưng chúng không có quyền xét đoán. Chúng làm cho bạn quan hệ tương tác đi xa và đi sâu, nhưng chúng không dạy cho bạn cách trở thành một người láng giềng tốt. Chúng tăng cường cho bạn khả năng gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người khác, nhưng chúng không dạy cho bạn cách phát biểu trong các cuộc họp phụ huynh học sinh, và lý do vì sao phải phát biểu như thế. Đó chính là nghịch lý của Internet trong việc dạy dỗ thế hệ trẻ. Điều hay nhất là cha mẹ có chuẩn bị cho trẻ em trong thời đại Internet là dạy cho chúng các kỹ năng công nghệ cao, hay mua cho chúng modem và máy, nhưng cha mẹ vẫn phải kiên nhẫn sử dụng các biện pháp giáo dục truyền thống. Máy tính và modem của trẻ có tốc độ càng nhanh thì bạn càng phải có những phần mềm giáo dục truyền thống thích đáng - nếu bạn muốn trẻ tiến bộ. Phần mềm giáo dục cần bao gồm những biện pháp truyền thống: chú trọng vào việc tập đọc, tập viết và toán, nhà thờ, chùa chiền, thánh đường và gia đình. Những điều đó không thể được lấy xuống từ Internet; chúng chỉ có tể đến từ bản thân cha mẹ và thầy cô, từ các cha xứ và thầy chùa. Chính vì thế nếu tôi có được một điều ước mong, thì tôi sẽ ước mong có được một modem với một lời cảnh báo của bác sĩ: "Không kèm khả năng xét đoán." Bạn phải cung cấp cho con cái những khả năng xét đoán của chính bản thân bạn - theo lối cổ điển, dưới tán của những cây Ô liu.
Tôi mở đầu cuốc sách này bằng một cuộc đối thoại giữa Cain và Abel và tôi xin kết thúc cuốn sách bằng một trao đổi về Tháp Babel. Tháp Babel thì sao? Chẳng phải đó là giấc mơ của các nhà chủ trương toàn cầu hóa ngày nay - một thế giới trong đó chúng ta có chung một ngôn ngữ, một đồng tiền, theo đuổi cùng một hệ tiêu chuẩn kế toán? Chính do sự đồng dạng đó mà những người trong Kinh thánh có thể xây dựng được một toà tháp Babel - một tòa tháp vươn được tới Thiên Đàng. Tôi đã nói về điều này trong một buổi chiều với Giáo sĩ marx; đặt ly cà phê xuống, ông ta ngẩng lên và hỏi tôi: "Liệu tháp Babel có phải là phiên bản gốc của Internet?" Sau cùng thì Internet cũng là một loại ngôn ngữ đại chúng, nằm bên ngoài khuôn mẫu của bất cứ nền văn hóa nào. Đó là một mô hình liên lạc đại chúng và ít nhất về bề ngoài, cho phép chúng ta hiểu được nhau, dẫu cho phép chúng ta không cùng chung một ngôn ngữ. Và nó cho phép chúng ta kết nối với rất nhiều hạng người - những người mà chúng ta chưa từng chia sẻ cùng một tán cây Ô liu.
Nhưng đức Chúa đã làm gì đối với tháp Babel? Ngài chặn nó lại. Và làm cách nào mà ngài chặn được nó? Bằng cách buộc những người trên đó nói những thứ ngôn ngữ khác nhau vì thế họ không còn hợp tác với nhau nữa. Vì sao đức Chúa làm như vậy? Giáo sĩ Marx giải thích: " Đức Chúa là như thế một phần là do những người trên tháp đang vượt qua những giới hạn của họ, cố gắng xây tháp vươn tới thiên đàng, thách thức quyền lực của ngài. Nhưng ngài cũng đã thiêu hủy toà tháp vì ngài thấy việc con người có chung một ngôn ngữ và quan điểm sẽ dẫn đến hiện tượng phi nhân tính. Vì làm như thế mọi người sẽ để mất đi những đặc điểm riêng của họ. Do vậy ngài đã phá đi tòa tháp bằng cách bắt mọi nguời phải nói các thứ tiếng khác nhau."
Đó là cách đức Chúa buộc mọi người phải quay lại với những cây Ô liu của họ. Những cây Ô liu phản ánh những cá tính riêng và đặc điểm riêng của con người, gắn bó với một chốn nương thân, một cộng đồng, một văn hóa, một bộ tộc và một gia đình.
Vâng, toàn cầu hóa và Internet giúp kết nối những người xưa nay chưa từng biết đến nhau - giống như mẹ tôi và các người bạn chơi bài cùng bà đang sống bên Pháp. Nhưng thay vì tạo nên những cộng đồng mới, công nghệ Internet thường chỉ đưa đến những cảm giác ảo về sự kết nối và gắn bó. Cũng giống như hai linh kiện được nối với nhau. Liệu chúng ta có thể gắn bó với người khác thông qua email hay ván bài trên Internet hay các chatroom? Liệu cái công nghệ kỹ thuật ảo này tiếp tay cho chúng ta vươn ra thế giới trong khi tránh cho chúng ta trách nhiệm làm những công việc cộng đồng và quan hệ trên thế giới thực? Tôi đã từng trò chuyện và gặp gỡ nhiều người từ khắp thế giới khi đi trượt tuyết ở Colorado. Tôi vẫn đi trượt tuyết, và ngày nay mọi người đều đã có điện thoại di động. Vậy là thay vì gặp gỡ người khác trong các thang máy trượt tuyết, giờ đây tôi lại nghe được những người đó tán chuyện với bè bạn của họ từ khắp nơi trên thế giới. Tôi rất ghét chuyện đó. Email không thể dùng để xây dựng tình cộng đồng - tham dự một cuộc họp phụ huynh mới là xây dựng cộng đồng. Chat room không thể xây dựng được cộng đồng - phối hợp với láng giềng của bạn để đề nghị tòa thị chính mở cho một trục đường mới: đó mới là xây dựng cộng đồng. Liệu chúng ta có thể xây dựng những cộng đồng trong không gian điện toán để thay thế những cộng đồng thực sự của chúng ta? Chắc không thể được. Chính vì thế mà tôi sẽ không lấy mà ngạc nhiên nếu một ngày nào đó thức dậy và phát hiện thấy Internet bị đấng tối cao phá nát, giống như điều ngài đã làm đối với tòa tháp Babel ngày nào.
Tôi cứ nghĩ mãi đến người bạn trẻ người Kuwait tôi gặp ở quán cà phê Internet ở Kuwait City, anh ấy nói với tôi: "Khi còn là một sinh viên, chúng tôi không có Internet. Lúc đó chúng tôi chỉ có một vài giáo sư có đầu óc phóng khoáng và thường chúng tôi hay đến nhà họ tụ tập và bàn chuyện chính trị. Giờ đây, một sinh viên có thể ngồi ở nhà mà nói chuyện với toàn thế giới." Nhưng, anh này thú nhận, anh và các vị giáo sư nọ không còn tụ tập cùng nhau như ngày trước. Đó là một điều nguy hiểm - hậu quả của việc Internet hóa các xã hội, khi công nghệ đó chiến thắng trong cuộc sống của chúng ta: một ngày nào đó dân chúng thức dậy và nhận thấy họ không muốn giao thiệp với ai khác nếu không thông qua máy vi tính. Khi điều đó xảy ra thì con người sẽ dễ trở thành nạn nhân của những bậc giáo điều và những giấc mơ tôn giáo thời đại mới. Những phần tử đó nảy sinh ra và bắt đầu rao giảng cho chúng ta cách thức liên hệ tâm hồn và thể xác và những cây Ô liu. Đó là lúc chúng ta sẽ thấy những phản ứng chống lại sự đơn điệu và tiêu chuẩn hóa - dân chúng khác biệt nhau một cách lấy lệ, không còn do sự khác biệt về gốc rễ lịch sử hay truyền thống.
Cân đối giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu là điều mà mỗi xã hội cần phải thực hiện mỗi ngày.
HẾT