GIA TỘC ROTHSCHILD - CƯỜNG
QUYỀN DUY NHẤT Ở CHÂU ÂU
Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ
của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt
ra(1).
Mayer Rothschild
Cho đến nay, Bill Gates vẫn được giới truyền
thông không ngừng ca tụng và được coi là người đàn ông giàu nhất hành tinh với
khối tài sản khổng lồ. Nếu tin rằng đó là sự thật thì có nghĩa là bạn đã bị lừa
dối. Bởi vì bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được bóng dáng của các ông trùm thật
sự giàu có trên bảng xếp hạng những người giàu nhất hành tinh này, còn giới
truyền thông phương Tây thì đã bị những thế lực “vô hình” của các ông trùm kia
khoá miệng.
Cho đến ngày nay, gia tộc Rothschild vẫn theo
đuổi ngành ngân hàng, nhưng nếu bất chợt hỏi 100 người dân Bắc Kinh hay Thượng
Hải, bạn sẽ thấy rằng, có đến 99 người biết rất rõ về Ngân hàng Hoa Kỳ, trong
khi chẳng một ai biết được ngân hàng Rothschild là ngân hàng nào.
Rốt cuộc, vậy ai là Rothschild? Nếu một người
làm việc trong ngành tài chính mà chưa từng nghe đến cái tên Rothschild thì
chẳng khác nào một người lính không biết Napoleon, sinh viên ngành vật lý không
biết Einstein là ai vậy. Cái tên Rothschild hết sức xa lạ đối với đa số người
dân Trung Quốc (cũng như với người Việt Nam). Tuy nhiên, gia tộc này có một sức
ảnh hưởng rất lớn đối với quá khứ, hiện tại và tương lai của người dân Trung
Quốc cũng như người dân khắp nơi trên thế giới. Thông qua sự đối lập giữa tầm
ảnh hưởng và mức độc nổi tiếng của của gia tộc Rothschild đối với thế giới hiện
tại, ta có thể thấy khả năng giấu mình của dòng họ này cao siêu đến mức nào.
Rốt cuộc thì dòng họ Rothschild có bao nhiêu tài
sản?
Đây vẫn là điều bí mật của thế giới. Theo tính
toán sơ bộ thì con số đó là vào khoảng 500 tỉ đô-la(2). Rốt cuộc thì bằng cách
nào mà dòng họ Rothschild đã kiếm được khoản tài sản khổng lồ như vậy? Đây là
câu chuyện mà chương này sẽ giãi bày cùng bạn.
Sự kiểm soát chặt chẽ trong nội bộ gia tộc, các
thao tác ngấm ngầm trong bóng tối, sự hiệp đồng chính xác như một chiếc đồng
hồ, việc thu thập tin tức luôn đi trước thị trường lý trí lạnh lùng tuyệt đối,
tham vọng vô hạn đối với quyền lực và tiền bạc, sự nhìn nhận thấu đáo đối với
tiền tài và sự giàu có cũng như khả năng dự đoán thiên tài đã giúp cho dòng họ
Rothschild xây dựng được một vương quốc tài chính rộng lớn và hùng mạnh nhất
trong lịch sử xoài người, cho dù vương quốc đó đã từng nằm trong vòng xoáy khốc
liệt và tàn bạo của tài chính, chính trị và chiến tranh suốt hơn hai trăm năm
qua.
1.
Waterloo của Napoleon và Khải hoàn môn của Rothschild
Nathan là con trai thứ ba và cũng là người gan
dạ, thông minh nhất trong số năm anh em trong gia tộc Rothschild.
Năm 1798, Nathan được cha mình điều chuyển từ
Frankfurt đến Anh để khai phá lĩnh vực ngân hàng của dòng họ Rothschild. Nathan
là một chuyên gia ngân hàng có lòng dạ thâm hiểm và cách hành xử quyết đoán,
chưa từng có ai thực sự hiểu được thế giới nội tâm của ông ta. Do có tài năng
thiên bẩm đáng kinh ngạc về tài chính cùng những thủ đoạn tinh vi, đến năm
1815, ông ta đã trở thành một trong những ông trùm ngân hàng nổi tiếng tại
London.
Amschel - người anh trai của ông ta chuyên lo
việc điều hành đại bản doanh (M.A Rothschild and Sons) của ngân hàng gia tộc
Rothschild tại Frankfurt, trong khi Salomon người anh trai thứ hai - đã xây
dựng được một chi nhánh ngân hàng khác của dòng họ này ở thành Vienna - Áo (S.M
Rothschild and Sons), còn Calmann - người em thứ tư của Nathan - đã xây dựng
một chi nhánh khác ở thành phố Napoli của Ý, và James - người em trai thứ năm -
cũng có một ngân hàng ở Paris. Hệ thống ngân hàng do dòng họ Rothschild xây
dựng là tập đoàn ngân hàng quốc tế đầu tiên trên thế giới. Lúc này, năm anh em
nhà Rothschild đang tập trung chú ý vào tình hình chiến tranh châu Âu năm 1815.
Đây là một cuộc chiến tranh quan trọng liên quan
đến số phận và tiền đồ của đại lục địa châu Âu. Nếu như Napoleon giành được
thắng lợi chung cuộc thì nước Pháp sẽ ở vào vị thế bá chủ đại lục châu Âu. Còn
nếu Công tước Wellington đánh bại được quân Pháp thì nước Anh sẽ ở vào thế cân
bằng chiến lược của một nước lớn chủ đạo của châu lục này.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, với tầm nhìn
xa rộng, dòng họ Rothschild đã xây dựng hệ thống thu thập và truyền tin tình
báo chiến lược cho riêng mình. Họ đã xây dựng một mạng lưới những người đại
diện bí mật, giống như những gián điệp tình báo chiến lược. Những người này
được cử đi nằm vùng ở các thủ đô, các thành phố lớn, các trung tâm giao dịch và
trung tâm thương mại quan trọng ở các quốc gia châu Âu. Tình báo thương mại,
chính trị cũng như tình báo trong các lĩnh vực khác đi về như con thoi giữa các
thành phố lớn như London, Paris, Frankfurt, Vienna và Napoli. Hiệu suất, tốc độ
và độ chính xác của hệ thống tình báo này đều đạt đến trình độ khiến người ta
phải thán phục, vượt rất xa so với tốc độ của bất kỳ mạng lưới tin tức của các
cơ quan nhà nước nào, còn các đối thủ cạnh tranh thương mại khác càng khó mà
đuổi kịp họ. Tất cả những điều này khiến cho ngân hàng Rothschild luôn chiếm
được ưu thế vượt trội trong cạnh tranh quốc tế(3).
“Cỗ xe của ngân hàng Rothschild băng băng trên
con đường quốc lộ của các vùng đất châu Âu, con thuyền ngân hàng Rothschild lao
nhanh qua những eo biển hẹp, những tay gián điệp của ngân hàng Rothschild tràn
ngập trên các đường phố châu Âu. Gia tộc này nắm giữ một lượng lớn hiện kim,
công trái, thư tín và thông tin. Thông tin độc quyền nóng hổi nhất của họ được
truyền đi với tốc độ cực nhanh trên 'trị trường cổ phiếu và thị trường hàng
hoá. Nhưng những tin tức ấy đều không thể nào so sánh được với kết quả của
chiến dịch Waterloo”(4).
Ngày 18 tháng 6 năm 1815, trận Waterloo được.
triển khai ở ngoại ô Brussels - Bỉ. Đó không chỉ là cuộc quyết đấu sinh tử giữa
hai đoàn hùng binh của Napoleon và Wellington mà còn là canh bạc lớn của hàng
vạn nhà đầu tư, kẻ thắng sẽ giàu có vô biên, còn kẻ thua sẽ trắng tay, mất
nghiệp. Không khí trên thị trường giao dịch cổ phiếu London căng thẳng đến cực
điểm, tất cả mọi người đều chờ đợi kết quả cuối cùng của trận Waterloo trong lo
âu. Nếu nước Anh thất bại thì giá trái phiếu của xứ sở sương mù sẽ rớt xuống
đáy vực; còn nếu thắng, trái phiếu của quốc gia này sẽ tăng giá ngút trời xanh.
Khi hai đoàn hùng binh chạm trán nhau trong
những trận chiến sống mái thì các gián điệp của Rothschild cũng khẩn trương cố
gắng hết mức để thu thập các thông tin tình báo chính xác về tình hình chiến sự
của hai bên. Nhiều điệp viên còn phụ trách việc chuyển các thông tin mới nhất
liên quan đến tình hình chiến sự về trạm trung chuyển tin tình báo Rothschild
gần chiến trường nhất. Đến chạng vạng tối, kết cục thất bại của Napoleon đã an
bài. Một nhân viên chuyển thư nhanh của Rothschild tên là Rothworth đã tận mắt
chứng kiến tình hình chiến sự và lập tức lao lên xe ngựa chạy với tốc độ phi mã
về hướng Bruxelles, sau đó chuyển hướng về cảng Oostende. Khi Rothworth nhảy
lên chuyến thuyền Rothschild tốc hành với giấy thông hành đặc biệt thì trời đã
rất khuya. Eo biển Anh (English Channel) lúc này sóng to gió lớn, sau khi trả
khoản phí 2.000 francs, Rothworth cũng đã tìm được một thuỷ thủ chịu giúp mình
vượt được eo biển này ngay trong đêm(5). Đến sáng ngày 19 tháng 6, anh ta đã
đến được bờ bên kia, tức là Folkestone của Anh. Đích thân Nathan Rothschild đã
đứng đợi anh ta ở đó Nathan tức tốc xé thư ra xem, lướt nhanh qua dòng tít của
bản tin chiến sự rồi giục ngựa lao thẳng về phía Sở Giao dịch chứng khoán
London.
Khi Nathan vừa bước chân vào Sở Giao dịch chứng
khoán, tất cả những người đang chờ đợi tin chiến tranh trong bầu không khí sốt
ruột ở đó lập tức yên lặng. Mọi con mất đều đổ dồn vào gương mặt đầy bí ẩn
không lộ chút cảm xúc của Nathan. Nathan bước chậm rãi về phía ghế chủ toạ vốn
được xem là “trụ cột của Rothschild”. Lúc này, cơ mặt của ông ta gần như chẳng
biến đổi chút nào, trông cứ như là tượng đá vậy. Đại sảnh của Sở Giao dịch khi
đó hoàn toàn im phăng phắc chứ không huyên náo như mọi ngày. Mỗi người đều đem
tất cả mọi sự giàu sang vinh nhục của mình ký thác vào ánh mắt của Nathan. Im
lặng trong giây lát, Nathan liếc mắt ra hiệu cho các nhà đầu tư cổ phiếu của
gia tộc Rothschild đang đứng chờ bên cạnh, mọi người ngay lập tức ùa về phía
quầy giao dịch, bắt đầu bán đổ bán tháo công trái Anh. Đại sảnh thoáng chốc trở
thành một khu hỗn loạn. Một số người bắt đầu to nhỏ với nhau, không ít người đờ
đẫn đứng một chỗ. Khi đó, một lượng trái phiếu của Anh trị giá hàng mấy trăm
nghìn đô-la Mỹ trong phút chốc bị đẩy thốc đẩy tháo ra thị trường. Giá công
trái bất đầu tuột dốc, tạo nên một cơn sóng trượt giá, cơn sau mạnh hơn cơn
trước, báo hiệu một sự sụp đổ hoàn toàn.
Lúc này, Nathan ngồi dựa mình vào ghế với vẻ mặt
lạnh tanh. Cuối cùng, trong đại sảnh Sở Giao dịch có người đã thét lên rằng
“Rothschild đã biết rồi!”, “Rothschild đã biết rồi!“, “Wellington đã thất
bại?”. Tất cả mọi người có mặt ngay lập tức hoảng loạn như bị điện giật. Cuộc
bán tháo trái phiếu cuối cùng đã trở nên hỗn loạn. Trong lúc mất hết lý trí,
người này đã bắt chước người kia tạo nên một kiểu hành vi tự phát. Mỗi người
đều muốn bán tống bán đổ những trái phiếu trong tay vốn đã không còn chút giá
trị, cố vớt vát được gì hay nấy. Sau mấy giờ bán đổ bán tháo như vậy, trái
phiếu của Anh đã chất đầy thành đống như đống rác, giá trị mệnh giá công trái
chỉ còn lại 5%(6). Nathan lúc này vẫn thản nhiên ngồi quan sát tất cả những
diễn biến xảy ra. Ông ta liếc nhẹ ánh mắt về phía các nhà đầu tư cổ phiếu - cái
liếc mắt mà nếu không trải qua huấn luyện lâu dài thì không ai có thể hiểu
được. Ngay lập tức, các nhà đầu tư cổ phiếu ập đến các quầy giao dịch, bắt đầu
mua vào bằng hết những công trái Anh có trên sàn.
11 giờ đêm ngày 21 tháng 6, Henry Percy - người
đưa tin của Công tước Wellington - cũng đã về đến London. Tin cho hay, đại quân
của Napoleon đã thất bại hoàn toàn sau trận đánh suốt 8 giờ, tổn thất một phần
ba số quân, nước Pháp đã tiêu rồi!
Tin tức này đã chậm hơn cả một ngày so với tin
tình báo của Nathan! Và trong một ngày này, Nathan đã kiếm được một lượng tiền
gấp 20 lần so với tổng số của cải mà Napoleon và Wellington có được từ mấy chục
năm chiến tranh(7)! Trận Waterloo đã biến Nathan trở thành chủ nợ lớn nhất của
chính phủ Anh để từ đó chi phối quyền phát hành công trái của nước này. Công
trái Anh chính là chứng từ thu thuế của chính phủ trong tương lai, và nghĩa vụ
nộp các khoản thuế của người dân Anh cho chính phủ đã biến tướng thành việc
trưng thu thuế mà ngân hàng Rothschild đánh vào toàn dân. Các khoản chi tiêu
của chính phủ Anh chủ yếu dựa vào việc phát hành công trái mà có, hay nói cách
khác, chính phủ Anh cần phải đi vay tiền của các ngân hàng tư nhân để chi tiêu
vì không có quyền phát hành tiền tệ trong khi còn phải chi trả lãi suất khoảng
8%, và toàn bộ đều được kết toán bằng tiền kim loại. Khi đã nắm giữ công trái
Anh với số lượng áp đảo, trên thực tế Nathan là người đang quyết định giá trị
của công trái, chi phối hoàn toàn lượng cung ứng tiền tệ của nước Anh, và như vậy,
mạch máu kinh tế của nước Anh đã bị gia tộc Rothschild siết chặt.
Nathan đã không cần che đậy vẻ kiêu ngạo khi
chinh phục được đế quốc Anh:
Tôi chẳng cần quan tâm con rối Anh nào đang
thống trị đế quốc mặt trời không bao giờ lặn này. Ai khống chế được việc cung
ứng tiền tệ của đế quốc Anh thì người đó khống chế được đế quốc Anh, mà người
này chẳng ai khác ngoài tôi(8).
2.
Bước khởi nghiệp của Rothschild.
Một số người có thể hiểu được hệ thống tiền tệ
chi phiếu và tiền tệ tận dụng. Hoặc là họ cảm thấy vô cùng hứng thú với những
khoán lợi nhuận mà hệ thống này tạo ra, hoặc là hết sức ỷ lại vào sự bố thí của
các chinh trị gia. Mặt khác, đa số người dân không đủ trí lực để có thể hiểu
được ưu thế to lớn được sinh ra tư hệ thống này. Họ thừa nhận sự áp bức mà
không hề oán thán, thậm chí không chút nghi ngờ rằng hệ thống này sẽ làm tổn
hại đến lợi ích của họ(9).
Anh em nhà Rothschild năm 1863.
Rothschild sinh trưởng trong thời đại khi mà
cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ, ngành tài chính phồn vinh chưa
từng thấy, thực tiễn và lý thuyết tài chính mới mẻ từ Hà Lan và Anh lan truyền
ra khắp châu Âu. Cùng với sự ra đời của Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm
1694, một khái niệm và thực tiễn tiền tệ phức tạp hơn rất nhiều so với quá khứ
đã được một loạt các ông chủ ngân hàng sáng tạo ra.
Trong 100 năm của thế kỷ 17, khái niệm và hình
thức tiền tệ đều có những biến đổi sâu sắc. Từ năm 1694 đến 1776, khi tác phẩm
“The Wealth of Nations” (Của cải của các quốc gia) của Adam Smith ra đời, lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tổng lượng tiền giấy do các ngân hàng phát
hành đã nhiều hơn tổng lượng tiền kim loại đang lưu thông(10). Mâu thuẫn giữa
nhu cầu lưu thông tiền tệ tăng đến mức cực đại trong những ngành công nghiệp
mới trỗi dậy như ngành đường sắt, khoáng sản, đóng tàu, cơ khí, dệt may, công
nghiệp quốc phòng, năng lượng… và khả năng yếu kém trong lưu thông tiền tệ của
các ngân hàng cũ đã ngày càng trở nên gay gắt. Ngân hàng mới nổi của dòng họ
Rothschild đã nắm bất được cơ hội lịch sử này. Bằng việc áp dụng những phương
thức có lợi nhất cho mình, họ đã làm chủ toàn diện hướng đi lịch sử của lĩnh
vực tiền tệ hiện đại, mà những người khác thì không có chút cảm giác nào đối
với việc số phận của họ đang bị chế độ này quyết định.
Hai lần nội chiến và xáo động trên chính trường
từ năm 1625 đã khiến quốc khố của nước Anh trống rỗng. Khi lên ngôi ở nước Anh
vào năm 1689, William đệ nhất đã phải đối mặt với một cục diện rối rắm, thêm
vào đó là cuộc chiến tranh mà ông đang tiến hành với vua Louis 14 của Pháp đã khiến
cho William đệ nhất phải chạy vạy khắp nơi để vay tiền đến mức gần như không
cần suy tính thiệt hơn. Lúc này, ngân hàng mà William Paterson làm thống đốc đã
đề xuất với quốc vương của mình một ý tưởng mới xuất hiện từ Hà Lan: thành lập
một ngân hàng trung ương tư nhân - Ngân hàng Anh, để tiến hành luân chuyển tiền
tệ cho những khoản chi khổng lồ của quốc vương.
Ngân hàng tư nhân này đã cung cấp khoản hiện kim
trị giá 1,2 triệu bảng Anh cho chính phủ và nó được xem như là “khoản vay vĩnh
viễn” (Perpetual Loan) của chính phủ với mức lãi suất hàng năm là 8%, phí quản
lý mỗi năm là 4.000 bảng Anh. Như vậy, mỗi năm chỉ cần tốn 100 nghìn bảng Anh,
chính phủ đã có thể được hưởng khoản hiện kim 1,2 triệu bảng Anh ngay tức khắc,
đồng thời có thể không cần hoàn trả tiền gốc vĩnh viễn? Đương nhiên, những “lợi
ích” mà chính phủ phải cung cấp cho họ còn nhiều hơn nữa, đó chính là việc cho
phép Ngân hàng Anh độc quyền phát hành chứng chỉ ngân hàng được quốc gia thửa
nhận(11).
Lâu nay ai cũng biết cái lợi nhất của ông trùm
ngân hàng Goldsmith chính là việc phát hành chứng chỉ ngân hàng. Những chứng
chỉ này kỳ thực là sự biên nhận đối với tiền vàng được các khách hàng ký gửi
tại ngân hàng Goldsmith. Bởi vì việc đem tiền mặt theo người là điều rất bất
tiện cho nên phần lớn mọi người đã dùng chứng chỉ ngân hàng để giao dịch, sau
đó thanh toán lại với nhau bằng tiền vàng tương ứng thông qua ngân hàng
Goldsmith. Lâu dần, người ta cảm thấy chẳng cần thiết phải đến ngân hàng rút
tiền vàng ra để thanh toán cho nhau làm gì, vì vậy, những biên nhận này sau đó
dần biến thành tiền giấy. Các nhà hoạch địch chiến lược thông minh của
Goldsmith phát hiện thấy rằng, hàng ngày có rất ít người đến rút tiền, cho nên
họ bắt đầu ngấm ngầm dùng một số tiền nhàn rỗi của khách ký gửi để cho những người
cần tiền vay lấy lời, sau khi người vay trả hết cả vốn lẫn lãi thì những chứng
từ vay này cũng được các ngân hàng của Goldsmith bí mật tiêu huỷ mất như chưa
từng có chuyện gì xảy ra, dù trên thực tế thì lợi nhuận vẫn cứ chảy vào túi họ
đều đặn. Phạm vi lưu thông của các chứng chỉ ngân hàng Goldsmith càng rộng, mức
độ chấp nhận càng cao thì lợi nhuận thu về càng lớn. Mà phạm vi lưu thông cũng
như mức độ chấp nhận chứng chỉ ngân hàng do Ngân hàng Anh phát hành đều cao hơn
rất nhiều so với những ngân hàng khác, những chứng chỉ ngân hàng được quốc gia
công nhận này chính là tiền tệ quốc gia.
Lượng tiền mặt của Ngân hàng Anh được thu hút từ
các nguồn trong xã hội. Những ai đặt mua chứng chỉ từ 2.000 bảng Anh trở lên
đều có thể trở thành uỷ viên Hội đồng quản trị. Tổng cộng đã có 1.330 người trở
thành cổ đông của Ngân hàng Anh, 14 người trở thành thành viên thường trực của
Hội đồng quản trị, bao gồm cả William Patersonl(12).
Năm 1694, William đệ nhất đã ban hành Hiến
chương Hoàng gia (Royal Charter) của Ngân hàng Anh, và như vậy, ngân hàng hiện
đại đầu tiên đã ra đời.
Ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Anh chính là biến
khoản nợ của quốc vương và những khoản nợ riêng của các thành viên trong hoàng
gia thành món nợ vĩnh cửu của quốc gia, lấy thuế của toàn dân làm thế chấp, và
tiền tệ quốc gia được Ngân hàng Anh phát hành dựa trên cơ sở các khoản nợ.
Cứ như vậy, quốc vương có tiền để tham chiến hay
hưởng thụ, còn chính phủ thì có tiền để làm những gì mình thích làm, ngân hàng
giải phóng được những khoản tiền lớn của các khách hàng đang khiến họ ngày đêm
lo lắng và thu được những khoản lợi tức khả quan. Tóm lại là tất cả đều vui vẻ,
chỉ có điều, những khoản thuế của người dân đã trở thành vật thế chấp. Do có
được một công cụ tài chính mới và lớn mạnh như vậy nên số tiền bội chi của
chính phủ Anh tăng lên chóng mặt. Từ năm 1670 đến năm 1685, thu nhập của chính
phủ Anh là 24,80 triệu bảng Anh, từ năm 1685 đến 1700, thu nhập của chính phủ
đã tăng lên hơn gấp đôi, đạt đến con số 55,7 triệu bảng Anh, nhưng việc vay
tiền của ngân hàng Anh từ ngân hàng chính phủ trong khoảng thời gian 1685-1700
đội lên hơn 17 lần, từ 800 nghìn bảng Anh lên đến 13,80 triệu bảng Anh(13).
Điều lạ lùng là, thiết kế này đã cắt đứt mối
quan hệ giữa việc phát hành tiền tệ quốc gia với khoản nợ vĩnh cửu của quốc
gia. Cho nên, nếu phát hành thêm lượng tiền tệ mới thì điều tất yếu là phải
tăng thêm quốc nợ, còn muốn thanh toán hết quốc nợ thì điều đó cũng đồng nghĩa
với việc huỷ hoại cả đồng tiền quốc gia. Như vậy, trên thị trường sẽ không còn
tiền tệ để lưu thông, cho nên chính phủ cũng mãi mãi không thể nào hoàn trả hết
khoản nợ này. Do phải hoàn trả lợi tức và đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh
tế, cho nên điều tất yếu là chính phủ cần phải có nhiều tiền hơn đổ vào lưu
thông, và những khoản tiền này lại cần phải vay từ ngân hàng mà ra, cho nên
quốc nợ cũng không ngừng tăng lên, và toàn bộ lợi tức của những khoản nợ này
đều chảy vào túi ngân hàng, còn gánh nặng lãi suất thì được đổ dồn vào nghĩa vụ
đóng thuế của người dân!
Quả thật là từ đó về sau, chính phủ Anh cũng
chẳng thể nào hoàn trả hết các khoản nợ đã vay. Đến cuối năm 2005, khoản nợ của
chính phủ Anh từ 1,2 triệu bảng năm 1694 đã tăng lên thành 525,9 tỉ bảng, chiếm
đến 42,8% GDP của nước Anh(14).
3.
Thùng vàng thứ nhất của Rothschild
Ngày 23 tháng 2 năm 1744, Mayer A. Bauer cất
tiếng khóc chào đời trong một khu tập trung Do Thái ở Frankfurt.
Móse - cha của Mayer - là một thợ bạc chuyên cho
vay lãi lưu động, sinh sống và làm việc ở vùng Đông Âu. Sau khi Mayer ra đời,
Móse quyết định định cư tại Frankfurt. Ngay từ nhỏ, Mayer đã thể hiện tài trí
bẩm sinh đáng kinh ngạc về kinh doanh. Cha của Mayer đã dồn rất nhiều tâm huyết
để đầu tư cho con trai, dốc lòng giảng giải cho Mayer một cách hệ thống những
kiến thức kinh doanh liên quan đến tiền tệ và cho vay. Mấy năm sau, Móse qua
đời, lúc này Mayer mới 13 tuổi nhưng được sự khích lệ của những người thân
thích trong gia đình nên đã quyết định theo nghề tài chính và làm việc trong
ngân hàng của dòng họ Heimer gốc Âu ở Hannover(15).
Với sự mẫn cảm và tính cần cù phấn đấu hơn
người, Mayer đã nhanh chóng nắm bắt được các kỹ năng chuyên môn trong ngành
ngân hàng. Trong suốt 7 năm ròng rã, Mayer giống như một miếng bọt biển đã hấp
thu và tiêu hoá những kỳ mưu diệu kế trong ngành tài chính được truyền từ Anh
sang. Nhờ vào khả năng làm việc xuất sắc của mình, anh được đề bạt trở thành cổ
đông sơ cấp. Trong những ngày tháng làm việc ở ngân hàng, anh đã làm quen được
một số khách hàng rất có ảnh hưởng, bao gồm cả tướng Stauffer- người có vai trò
rất quan trọng trong sự phát triển sau này của anh. Chính ở đây Mayer đã ý thức
được lợi nhuận và hệ số an toàn khi cho chính phủ và quốc vương vay tiền với
mức cao hơn rất nhiều so với việc cho vay cá nhân, bởi vì đây không chỉ là
khách hàng lớn mà còn được đảm bảo bởi khoản thuế của chính phủ. Những khái
niệm tài chính hoàn toàn mới mẻ đến từ nước Anh này đã khiến cho đầu óc của
Mayer bừng sáng hẳn lên.
Mấy năm sau, khi đã trở thành một chàng thanh
niên khỏe mạnh, Mayer trở về Frankfurt tiếp tục công việc làm ăn là cho vay lãi
của cha mình. Anh còn đổi họ của mình thành Rothschild (Roth trong tiếng Đức có
nghĩa là màu đỏ, Schild có nghĩa là dấu mốc). Khi biết được tướng Stauffer cũng
đã trở về Frankfurt và đang làm việc trong cung vua William, Mayer nghĩ ngay
đến việc phải lợi dụng tốt mối quan hệ này. Tướng Stauffer cũng tỏ ra rất vui khi
gặp lại Mayer. Bản thân tướng Stauffer là một nhà sưu tập tiền có tiếng, còn
việc nghiên cứu lĩnh vực tiền tệ của Mayer cũng đã có mấy đời gia truyền, cho
nên khi đàm đạo đến các loại tiền cổ thì chàng trai trẻ này tỏ ra vô cùng thành
thạo khiến cho vị tướng rất hài lòng. Một việc khiến cho tướng Stauffer càng
vui hơn - đó là Mayer đã tự nguyện bán cho vị tướng này mấy đồng tiền hiếm với
giá chiết khấu rất cao, vì thế mà ông đã xem Meyer như người tri kỷ. Sự khéo
léo này đã giúp cho Mayer nhanh chóng thân quen với rất nhiều nhân vật có máu
mặt trong hoàng cung. Một hôm, thông qua sự giới thiệu của tướng Stauffer,
Mayer được vua William tiếp kiến, và anh chàng nhận ra rằng, vị vua này cũng là
một nhà sưu tầm tiền cổ, vậy là Mayer lại dùng cách tương tự để lấy lòng
William.
Sau nhiều lần được Mayer bán cho những đồng tiền
quý với giá rẻ, vua William tỏ ra áy náy trong lòng, bèn hỏi xem Mayer có muốn
giúp gì không. Chớp lấy thời cơ này, Mayer đề xuất muốn trở thành người đại
diện chính thức của hoàng cung, và ngay tức khắc, anh đã được William đồng ý
Ngày 21 tháng 9 năm 1769, Mayer đã gần huy hiệu hoàng gia lên tấm bảng hiệu của
mình, bên cạnh viết một dòng chữ vàng: “M.A. Rothschild, người đại diện do vua
William chỉ định”(16). Một thời gian sau, uy tín của Mayer nổi như cồn, công
việc làm ăn cũng theo đó mà ngày càng phát đạt.
Trong lịch sử, bản thân thái tử William được
mệnh danh là người ham tiền hơn mạng sống, nổi tiếng là người cung cấp “quân
đội đánh thuê” cho quốc gia khác để “gìn giữ hoà bình”. Ông có mối quan hệ mật
thiết với các hoàng thất ở nhiều quốc gia châu Âu, đặc biệt rất thích làm ăn
với hoàng gia Anh quốc. Nhờ có rất nhiều nguồn lợi hải ngoại nên nước Anh
thường xuyên phải dùng đến quân đội để duy trì và bảo vệ lợi ích của mình,
nhưng số lượng binh lính lại không đủ trong khi lượng tiền mà nước Anh xuất ra
lại tương đối nhiều và rất ít khi khất nợ, cho nên, quốc gia này rất hợp rơ với
thái tử William. Sau này, khi cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ nổ ra, số
lượng quân Đức mà Washington phải đối phó còn nhiều hơn cả số quân của Anh
quốc. Về sau, thái tử William đã tích luỹ được một khoản tài sản lớn nhất trong
các hoàng thất châu Âu, ước khoảng 200 triệu đô-la Mỹ. Cũng vì thế mà người đời
gọi ông là “con cá mập cho vay máu lạnh nhất châu Âu”(17). Sau khi trở thành
một thành viên dưới trướng của thái tử William, Mayer tận tâm tận lực xử lý tốt
tất cả mọi việc, vì vậy rất được William tin tưởng. Không lâu sau cuộc đại cách
mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789 - 1799), làn sóng cách mạng dần lan rộng sang
các nước theo chế độ quân chủ lân cận.
Thái tử William bắt đầu nhấp nhổm không yên và
lo rằng cuộc cách mạng đang ngày càng lan dần đến nước Đức, các phần tử phản
loạn sẽ cướp sạch tài sản của ông. Ngược lại với cách nghĩ của thái tử, Mayer
lại hết sức vui mừng với cuộc cách mạng Pháp, bởi vì cuộc khủng hoảng sẽ khiến
cho lượng tiền bạc của ông tăng lên. Khi ngọn lửa cách mạng lan đến thành La Mã
cổ kính, cắt đứt đường trung chuyển thương mại của Anh, giá hàng hoá nhập khẩu
đã tăng vọt. Công việc vận chuyển hàng hoá từ Anh sang Đức đã giúp cho Mayer
kiếm được bộn tiền.
Mayer luôn là nhân vật hết sức tích cực trong
khu tập trung Do Thái. “Mỗi tối thứ sáu hàng tuần, sau khi kết thúc đợt hành lễ
ở giáo đường của người Do Thái, Mayer luôn mời một số học giả Do Thái uyên bác
nhất đến nhà mình tụ họp. Họ cùng nhau nhấm nháp rượu vang và thảo luận công
việc một cách chi tiết tuần tự hoặc làm một số việc mãi cho đến khuya mới
thôi”(18).
Mayer có câu nói nổi tiếng: “Gia đình cầu nguyện
cùng nhau sẽ kết dính lại với nhau”(19) (người Do Thái thường cầu nguyện cùng
nhau và xem đó như là sự biểu hiện của tình đoàn kết - ND). Người đời sau không
thể hiểu được sức mạnh nào có thể khiến cho những người trong dòng họ
Rothschild lại quyết tâm theo đuổi quyền lực đến như vậy.
Đến năm 1800, dòng họ Rothschild đã trở thành
một trong những dòng họ Do Thái giàu có nhất ở đất Frankfurt.
Trong năm này, Mayer còn nhận được danh hiệu
“đại diện hoàng gia đế chế” do quốc vương của xứ La Mã thần thánh trao cho.
Danh hiệu này khiến cho ông có thể đi lại khắp nơi trong đất nước này, được
miễn trừ các loại thuế đánh vào người Do Thái, thậm chí nhân viên công ty của
ông còn có thể mang theo vũ khí.
Năm 1803, mối quan hệ giữa Mayer và thái tử
William ngày càng mật thiết hơn khiến cho thế lực của Mayer mạnh hơn rất nhiều
so với trước. Một người anh họ của thái tử William là quốc vương Đan Mạch ngỏ ý
muốn vay của William một khoản tiền, nhưng sợ người khác biết được sự giàu có
của mình nên thái tử đã không đồng ý. Sau khi biết được việc này, Mayer cho
rằng đây là một cơ hội rất tốt, bèn đưa ra một phương án giải quyết cho thái
tử: thái tử cứ xuất tiền, còn Mayer là người ra mặt thương lượng việc cho vay,
lấy danh nghĩa Rothschild cho quốc vương Đan Mạch vay, và như vậy, Mayer có thể
trích phần trăm lãi suất. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, cảm thấy đây là một phương
án vẹn cả đôi đường, vừa có thể cho vay mà lại không để lộ sự giàu có của mình
ra cho thiên hạ biết, thái tử bèn nói với Mayer rằng, việc cho quốc vương vay
tiền quả là chuyện nằm mơ mà Mayer cũng khó có thể thấy được, và việc này không
chỉ được báo đáp về sau, mà còn là cơ hội tuyệt vời để nâng cao danh dự. Kết
quả là công việc này đã đem lại cho Mayer thành công rất lớn. Liền sau đó, sáu
khoản vay của hoàng thất Đan Mạch được giao dịch thành công thông qua Mayer.
Thanh danh của Rothschild theo đó cũng nổi lên
như cồn, đặc biệt là mối quan hệ mật thiết giữa ông và hoàng gia bất đầu được
mọi người biết đến ở châu Âu.
Sau khi lên ngôi, Napoleon đã từng có ý đồ muốn
lôi kéo William về phía mình, nhưng William lại chần chừ nửa muốn nửa không và
không đưa ra được lựa chọn của mình.
Vì không lôi kéo được William, Napoleon đã không
nén được bực tức và tuyên bố phải quét sạch dòng họ William ra khỏi bản đồ
những “nhân vật có quyền lực thống trị ở châu Âu”, rồi liền đó đưa quân áp sát
biên giới. Thái tử William hốt hoảng trốn sang Đan Mạch lưu vong, và trước khi
chạy ra nước ngoài đã đem khoản hiện kim trị giá 3 triệu đô-la Mỹ giao cho
Mayer cất giữ. Chính khoản hiện kim này đã đem lại cho Mayer quyền lực và sự
giàu sang chưa từng có trong đời. Đó cũng chính là thùng vàng đầu tiên giúp
Mayer khai thông con đường đến đế chế tài chính của ông trong tương lai.
Mayer còn có một ý chí mạnh mẽ hơn nhiều lần so
với việc thành lập Ngân hàng Anh. Khi có được khoản tiền kếch xù từ tay thái tử
William, ông lại bắt đầu có ý muốn điều binh khiển tướng. Năm người con của ông
giống như năm mũi tên sắc bén nhằm vào năm khu vực trung tâm của châu Âu. Người
con cả Amschel trấn giữ toàn vùng Frankfurt, con thứ Salomon được cử đến Vienna
khai phá chiến trường mới, người thứ ba Nathan được phái đến Anh để nắm giữ đại
cuộc, người thứ tư Calmann được cử đến Napoli của Ý để xây dựng căn cứ địa và
đóng vai trò như con thoi truyền đạt thông tin giữa các anh em, và người con út
là James thì nắm giữ nhiệm vụ tác nghiệp ở Paris.
Một đế quốc tài chính chưa từng có trong lịch sử
loài người đã được hình thành.
4.
Nathan - chúa tể thành phố tài chính London
Họ là chúa tể của thị trường tiền tệ thế giới,
đương nhiên cũng chinh là chúa tể của tất cả những gì có trên thế giới này.
Trên thực tế, họ có cả nguồn thu nhập tài chính của vùng đất nam Italy, còn vua
và bộ trưởng của các quốc gia (châu Âu)đều phải lãng nghe họ(20).
Benjamin Disraeli - Thủ tướng Anh, năm 1844
Thành phố tài chính London là một khu đất chỉ
chiếm diện tích 2,6 km2 thuộc trung tâm London. Từ thế kỷ 18,
nơi đây đã là trung tâm tài chính của nước Anh và thậm chí là của toàn thế giới
với hệ thống tư pháp độc lập giống như Vatican, tức là một quốc gia nhỏ trong
một đất nước lớn.
Vùng đất nhỏ bé hình viên đạn này tập trung toàn
bộ cơ cấu tài chính chủ yếu của thế giới, tạo ra đến 1/6 GDP của nước Anh lúc
bấy giờ. Kẻ nào nắm được thành phố London này cũng sẽ trở thành chúa tể của
nước Anh. Khi Nathan đến Anh, đúng thời điểm này, cuộc đối đầu giữa Anh và Pháp
đang diễn ra gay gắt. Cả hai nước ban hành lệnh cấm vận lẫn nhau, vì thế hàng
hoá của Anh rất có giá ở châu Âu. Nathan bắt đầu bắt tay với người em của mình
đang ở Pháp - James - để vận chuyển hàng hoá theo kiểu trao tay từ Anh sang
Pháp, và công việc này đã đem lại rất nhiều tiền cho họ. Sau này, Nathan làm
quen với John Harris - một nhân vật quan trọng trong Bộ tài chính Anh, và thông
qua người này biết được quân Anh đang gặp khốn ở Tây Ban Nha.
Lúc đó quân Anh do huân tước Wellington chỉ huy
đã chuẩn bị xong việc tấn công Pháp, nhưng cái thiếu duy nhất lúc bấy giờ là
lương thực. Huân tước Wellington tuy có sự đảm bảo của chính phủ Anh, nhưng cho
dù có nói khô bọt mép cũng khó thuyết phục được các nhà ngân hàng của Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha chấp nhận chứng chỉ ngân hàng do ông đưa ra. Đại quân của
huân tước Wellington đòi hỏi phải có vàng khẩn cấp(21).
Nathan rất nhanh nhạy và quyết tâm phải kiếm một
mẻ từ việc này. Ông đi khắp nơi để hỏi nguồn vàng nhàn rỗi. Cũng may lúc đó có
một lô vàng mới về từ Ấn Độ do công ty Đông Ấn Độ vận chuyển đến và chuẩn bị
đem ra tiêu thu. Đây là lô vàng mà chính phủ Anh muốn đặt mua, chỉ có điều họ
còn chần chừ vì giá quá cao, và muốn chờ giá vàng giảm mới chịu mua vào. Sau
khi nắm được tình hình, Nathan bèn lập tức dồn hết số tiền 3 triệu đô-la của
thái tử William cùng số tiền mình buôn bán hàng hoá kiếm được ở Anh để đặt mua
trước một lượng vàng trị giá 800 nghìn bảng Anh của công ty Đông Ấn Độ(22) và
sau đó lập tức nâng giá vàng lên. Thấy giá vàng chỉ tăng mà không giảm trong
khi tình hình quân đội ở tiền tuyến ngày càng nguy cấp nên chính phủ Anh chỉ
còn cách là mua lại vàng từ tay của Nathan với giá cao hơn. Phi vụ này đã giúp
Nathan kiếm được bộn tiền.
Nhưng kế liên hoàn của Nathan vẫn chưa hết. Ông
ta lại đề xuất phương án hộ tống số vàng này đến cho huân tước Wellington. Khi
đó Pháp đang tiến hành phong toả đường bộ hết sức nghiêm ngặt đối với Anh, cho
nên nếu đi bằng đường này thì rủi ro rất lớn, vì thế chính phủ Anh đã đồng ý
trả một khoản tiền rất lớn để vận chuyển lô vàng này. Sau khi thương thảo xong,
Nathan liền bảo em trai mình là James chỉ mới 19 tuổi thông báo cho chính phủ
Pháp biết ông muốn vận chuyển vàng đến Pháp. Chính phủ Anh có thể sẽ hết sức
tức giận đối với việc này, bởi vì việc vàng chảy sang Pháp sẽ khiến cho khả
năng tài chính của Anh suy yếu đi rất nhiều. Vì có lợi trong việc này nên nhà
cầm quyền Pháp bèn lập tức lệnh cho cảnh sát bảo vệ dọc đường bật đèn xanh cho
qua. Cá biệt, một số viên quan còn được hối lộ với những khoản tiền lớn để che
tai bịt mắt vờ như không thấy.
Vậy là số vàng do nhóm Nathan vận chuyển trên
thực tế là nhằm mục đích nhận được sự giúp sức của chính phủ cả hai nước Anh -
Pháp. Vì vậy, số vàng này đã được nhập một cách chính thức vào ngân hàng Paris.
Nathan một mặt tham dự yến tiệc chào đón của chính phủ nước Pháp, một mặt ngấm
ngầm phái người đem đổi toàn bộ số vàng này thành tiền vàng mà công tước
Wellington đang cần, rồi vận chuyển đến tay quân Anh ở Tây Ban Nha thông qua hệ
thống bí mật của gia tộc Rothschild. Cách xử lý “cao tay ấn“ này của Nathan
thật chẳng khác gì những tình tiết trong phim Hollywood thời hiện đại.
Một nhân vật ngoại giao của Bỉ thường trú ở Anh
đã nói rằng: “Sự ảnh hưởng của Rothschild đối với nền tài chính ở đây (London)
lớn đến mức đáng sợ. Họ hoàn toàn quyết định giá giao dịch ngoại hối của thành
phố tài chính London. Với tư cách là ngân hàng, quyền lực của họ khiến người ta
phải trố mất. Khi Nathan nổi giận thì Ngân hàng Anh cũng phải run rẩy”.
Một lần, Nathan cầm một tờ chi phiếu được mở bởi
ngân hàng Rothschild do anh trai của mình là Amschel gửi đến từ Frankfurt với
đề nghị ngân hàng Anh đổi thành hiện kim.
Nhưng lấy lý do là chỉ đổi chi phiếu do mình
phát hành, ngân hàng này đã từ chối. Nathan tức giận vô cùng. Sáng hôm sau, ông
ta đã dẫn theo chín nhân viên của mình, đem theo một xấp chi phiếu của ngân
hàng Anh đến và yêu cầu đổi ra vàng, chỉ trong một ngày đã khiến lượng dự trữ
vàng của ngân hàng Anh giảm xuống rõ rệt.
Ngày thứ hai, Nathan lại đem đến nhiều chi phiếu
hơn. Một quản lý cao cấp của ngân hàng Anh lập bập hỏi Nathan còn muốn đổi
trong mấy ngày nữa, Nathan lạnh lùng trả lời: “Ngân hàng Anh từ chối nhận chi
phiếu của tôi, tội gì tôi cần đến nó?” Ngân hàng Anh lập tức triệu hồi cuộc họp
khẩn cấp, sau đó quản lý cao cấp của ngân hàng Anh đã phải khách khí báo cho
Nathan biết rằng, từ nay về sau, ngân hàng Anh sẽ rất hân hạnh được quy đổi tất
cả những chi phiếu do Rothschild phát hành.
Trong trận chiến Waterloo, Nathan chỉ cần nhất
cử đã đoạt được quyền kiểm soát thành phố tài chính London, từ đó nắm giữ mạch
máu của nền kinh tế Anh. Và cũng từ đây, các quyết định quan trọng bao gồm
quyền phát hành tiền tệ và giá vàng đều nằm trong tay chi phối của dòng họ
Rothschild.
5.
James chinh phục Pháp
Một khi chính phủ lại vào nguồn tiền vàng của
một ngân hàng, các ngân hàng sẽ đóng vai trò nắm giữ cục diện của chính phủ,
bởi vì kẻ trao tiền bao giờ cũng có thế hơn kẻ nhận tiền. Tiền bạc không có tổ
quốc, các nhà hoạt động trong lĩnh vực tài chính không biết thế nào là yêu nước
và sự cao thượng, mục đích duy nhất của họ đó là làm sao để nhanh chóng có được
tiền lời(23).
Napoleon - năm 1815
Trong thời kỳ Napoleon chấp chính, James - người
con thứ năm của Rothschild - đi lại như con thoi giữa London và Paris, xây dựng
hệ thống mạng lưới vận chuyển hàng hoá của Anh. Sau khi giúp Wellington vận
chuyển tiền vàng thành công và cuộc chiến thu mua trái phiếu chính phủ Anh quốc
kết thúc, James trở nên nổi tiếng ở Pháp. Ông đã xây dựng được ngân hàng Paris
Rothschild, đồng thời âm thầm giúp đỡ cuộc cách mạng ở Tây Ban Nha.
Năm 1817, sau chiến bại ở trận Waterloo, nước
Pháp đã mất đi một lượng lớn lãnh thổ có được từ chiến tranh của Napoleon, đồng
thời rơi vào cảnh bị bao vây chính trị, nền kinh tế quốc dân cũng ngày càng
tiêu điều. Chính phủ của Louis 18 chạy vạy khắp nơi để vay tiền, hy vọng nền
tài chính quốc gia có thể từng bước ổn định. Việc một ngân hàng của Pháp và
Ngân hàng Barings của Anh nhận được những khoản xin vay khổng lồ trong khi Ngân
hàng Rothschild với tiếng tăm lừng lẫy như vậy lại rơi vào thinh lặng đã khiến
James cảm thấy rất sốt ruột.
Đến năm 1818, những công trái chính phủ phát
hành một năm trước ở Paris và nhiều khu vực khác đều bắt đầu tăng giá. Chính
phủ Pháp đã nếm được vị ngọt của lợi nhuận nên muốn vay tiếp của hai ngân hàng
kia. Và cho dù có thử đủ mọi cách đi nữa thì anh em nhà Rothschild cũng chẳng
kiếm được một chút lợi ích nào. Thì ra, tầng lớp quý tộc Pháp tự cho mình là
những người có dòng máu cao quý, còn Rothschild chỉ là kẻ tầm thường nên không
muốn làm ăn với Rothschild. Mặc dù giàu nứt đố đổ vách, hào hoa rất mực, nhưng
James không phải là người có địa vị xã hội cao. Sự kiêu ngạo của đám quý tộc
Pháp đã khiến James hết sức phẫn nộ.
Ông bèn bắt tay cùng các anh em của mình lập kế hoạch
khống chế quý tộc Pháp. Còn đám quý tộc cao ngạo nhưng dốt nát của Pháp lại
đánh giá thấp chiến lược chiến thuật nổi bật trong lĩnh vực tài chính của dòng
họ Rothschild. Khả năng hoạch định chiến lược cũng như bản lĩnh kinh doanh của
họ vốn được ví với tài chỉ huy trên chiến trường của Napoleon.
Ngày 15 tháng 11 năm 1818, công trái của Pháp
trước đó vẫn đang tăng giá ổn định thì đùng một cái lại có những biến động thất
thường. Rất nhanh sau đó, những công trái khác của chính phủ cũng bắt đầu chịu
ảnh hưởng, giá cả lần lượt trượt dốc với những mức độ khác nhau. Các nhà đầu tư
trên thị trường bắt đầu bàn tán xôn xao. Cùng với thời gian, tình hình chẳng
những không có chuyển biến tốt mà trái lại ngày càng có chiều hướng tệ hại(24).
Sự bàn tán ở sở giao dịch ngày càng lan rộng đi khắp nơi, có người nói có thể
Napoleon sẽ lên nắm quyền lại, cũng có người nói việc thu thuế tài chính của
chính phủ không đủ để chi trả lợi tức cho các cổ đông, có người còn lo rằng sẽ
xảy ra cuộc chiến mới.
Nội bộ hoàng cung của vua Louis 18 cũng hết sức
căng thẳng. Nếu công trái vẫn tụt dốc với biên độ không phanh như vậy thì chính
phủ sau này sẽ chẳng biết bấu víu vào đâu. Trên gương mặt của các nhà quý tộc
cao ngạo lộ ra vẻ chán nản, ai ai cũng đều lo lắng cho tương lai của đất nước
này. Chỉ có hai người đứng ngoài cuộc với vẻ mặt bàng quan lạnh lùng. Đó là
James và Calmann.
Do rút ra bài học từ vết xe đổ của nước Anh, một
số người đã bắt đầu nghi ngờ rằng gia tộc Rothschild đang thao túng thị trường
công trái này. Tình hình thực tế chính là vậy. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1818,
dòng họ Rothschild đã dùng tài lực hùng hậu của mình làm hậu thuẫn, ngấm ngầm
mua vào các công trái Pháp trên tất cả các thị trường lớn ở châu Âu khiến cho
công trái của nước này bắt đầu tăng giá. Sau đó bắt đầu từ ngày 5 tháng 11, họ
lại đồng loạt bán các trái phiếu này với số lượng lớn ra tất cả các thị trường
châu Âu, gây nên sự hoang mang cực độ cho thị trường.
Khi chứng kiến cảnh giá trị công trái của mình
rơi tự do xuống đáy như vậy, vua Louis 18 cũng cảm thấy ngôi vị của mình đang
lung lay dữ dội. Lúc này, người đại diện của dòng họ Rothschild đã nói với vua
Louis 18 rằng, tại sao ông không thử nhờ Ngân hàng Rothschild cứu vãn tình thế.
Trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, Louis đã quên
cả địa vị cao sang của mình, đòi cho triệu anh em nhà James đến ngay lập tức.
Bầu không khí của điện Elysee nhờ đó mà thay đổi ngay tức khắc, anh em James bị
đối xử khinh rẻ trước đây giờ đi đến đâu cũng được tung hô chào đón. Và quả
nhiên, chỉ với một cái búng tay của anh em James, thị trường trái phiếu đã bình
ổn trở lại, còn họ thì trở thành trung tâm chú ý của nước Pháp. Sau chiến bại
về quân sự của Pháp, họ đã cứu được nước Pháp từ cuộc khủng hoảng kinh tế?
Những lời ca tụng và những tràng hoa tươi khiến anh em James sung sướng ngất
ngây, ngay cả quần áo họ mặc cũng trở thành mốt thời thượng khi đó. Ngân hàng
của họ trở thành nơi người ta vào ra giao dịch tấp nập.
Nhờ vậy, dòng họ Rothschild đã khống chế được
hoàn toàn nền tài chính Pháp.
“Tài sản của James Rothschild đã đạt đến 600
triệu francs. Ở Pháp chỉ có tài sản của một người có thể sánh với ông ta, đó
chính là quốc vương Pháp với khối tài sản trị giá 800 triệu francs. Tài sản của
các ngân hàng khác tại Pháp cộng lại vẫn thấp hơn 150 triệu francs so với khối
tài sản của James. Và nguồn tài sản này bỗng nhiên đem lại cho ông quyền lực
cao siêu không thể tả được, thậm chí đến mức bất cứ lúc nào cũng có thể khiến
cho nội các chính phủ tan vỡ”(25).
6.
Salomon thăm Áo
Trong mắt họ (gia tộc Rothschild) không có chiến
tranh và hoà bình, không có khẩu hiệu và tuyên ngôn, cũng không có chết chóc và
danh dự, họ xem thường những thứ mê hoặc đôi mắt của người đời này. Trong mắt
họ chỉ có bàn đạp. Thám tử William là một còn người thứ hai chính là
Metternich(26).
Fryderyk Merton.
Salomon là con trai thứ hai của Mayer. Hàng năm,
ông đi lại như con thoi giữa các thành phố lớn của châu Âu, đảm nhận vai trò
điều phối giữa các ngân hàng của dòng họ. Ông là người có tài ngoại giao vượt
trội trong số các anh em, nói năng cẩn trọng, rất khéo léo trong việc lấy lòng
người khác. Một nhân vật làm ăn trong lĩnh vực ngân hàng từng giao tiếp với
Salomon đã nhận xét về ông rằng “Không ai không hài lòng khi chia tay ông ấy”.
Chính bởi nguyên nhân này mà các anh em trong nhà đã cùng cử ông đến Vienna
khai trương nghiệp vụ ngân hàng của vùng trung tâm châu Âu.
Lúc này, Vienna vẫn là trung tâm chính trị của
châu Âu, hầu như các hoàng gia của các nước châu Âu đều có mối quan hệ dây mơ
rễ má với vương triều Habsburg. Habsburg được xem là vương thất của đế quốc La
Mã thần thánh (giải thể năm 1806), thống trị một vùng rộng lớn bao gồm Áo, Đức,
bắc Ý, Thuỵ Sĩ, Biliti, Hà Lan, Luxembourg, Tiệp Khắc, Solvenia và cả miền đông
nước Pháp trong suốt hơn 400 năm, là dòng máu vương thất chính tông và cổ nhất
châu Âu.
Tuy đế quốc La Mã thần thánh đã bị đánh bại
trong cuộc chiến Napoleon, nhưng người kế thừa của vương triều Áo lại tỏ ra
kiêu ngạo với vai trò vương triều chính thống của mình. Thêm vào đó là giáo lý
Thiên Chúa giáo chính thống của vương triều này không kém phần cứng rắn so với
giáo lý mới đang thịnh hành ở các quốc gia như Anh, Pháp.
Việc giao lưu với một gia tộc cao quý như vậy so
ra còn cao hơn một cấp so với mối quan hệ với Thái tử William. Tuy đã nhiều lần
có ý muốn thiết lập quan hệ kinh doanh với Habsburg, nhưng dòng họ Rothschild
luôn nhận được sự cự tuyệt của vương triều này và chẳng thể nào bước vào bậc
cửa của đế chế đó.
Ngay sau khi chiến tranh Napoleon kết thúc,
Salomon đến gõ cửa đại thành Vienna. Tuy nhiên, tình thế lúc này đã hoàn toàn
đổi khác. Dòng họ Rothschild khi đó đã trở thành một dòng họ danh gia vọng tộc
ở châu Âu, với nhuệ khí dũng mãnh đã chinh phục được cả hai nền tài chính Anh
và Pháp.
Dù vậy song Salomon cũng không dám trực tiếp bàn
chuyện làm ăn với người của Habsburg mà muốn tìm được một bàn đạp. Và bàn đạp
này chính là Klemens von Metternich ngoại trưởng Áo, nhân vật nổi tiếng trên
chính trường châu Âu thế kỷ 19.
Sau chiến bại của Napoleon, thành phố Vienna do
Metternich xây dựng nên đã duy trì thời kỳ hoà bình dài nhất ở châu Âu thế kỷ
19. Trong tình thế nước Áo ngày càng suy vi còn kẻ thù mạnh đang bao vây tứ
phía, Metternich đã phát huy sự tinh tuý của chế độ đến mức cao nhất. Ông đã
lợi dụng sức mạnh hiệu triệu chính thống của hoàng gia Habsburg còn lại ở châu
Âu để lôi kéo và xây dựng mối quan hệ đồng minh bền chặt với các nước láng
giềng là Phổ và Nga, vừa ngăn chặn được sự khôi phục của Pháp, lại kiểm soát
được sự bành trướng của Nga, đồng thời còn hình thành nên một cơ chế kiểm soát
liên hoàn đối với làn sóng chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do trong nước, đảm
bảo không mất kiểm soát thế lực của các phần tử đa dân tộc trong nước.
Hội nghị Aix-la-Chapelle năm 1818 là một hội
nghị quan trọng quyết định đến tương lai của châu Âu sau cuộc chiến tranh với
Napoleon. Các đại biểu đến từ các nước như Anh, Nga, Áo, Phổ, Pháp đã quyết
định khoản bồi thường chiến tranh của Pháp và vấn đề rút quân của các nước đồng
minh. Cả Salomon và Calmann đều tham gia hội nghị này.
Chính tại hội nghị này, Salomon đã làm quen được
với Metternich thông qua Gentz - một thủ hạ của Metternich, và rất nhanh chóng
trở thành bạn tâm giao. Một mặt, sự tán dương thấu tình đạt lý của Salomon đã
khiến Metternich mát lòng mát dạ, mặt khác, Metternich cũng muốn dựa vào thế
lực tài chính hùng hậu của gia tộc Rothschild. Hai người tỏ ra rất hiểu nhau.
Mối quan hệ giữa Salomon và Gentz cũng ngày càng khăng khít hơn.
Dựa vào Metternich và sự tiến cử của Gentz, thêm
vào đó là mối quan hệ làm ăn mật thiết giữa Rothschild với thái tử William và
hoàng thất Đan Mạch, bức tường cao ngất của Habsburg cuối cùng cũng bị Salomon
vượt qua. Các khoản vay và đầu tư của hoàng thất cho ngân hàng của Salomon ngày
càng ổn định và tăng lên, chẳng mấy chốc Salomon đã trở thành “tay trong” của
hoàng thất. Năm 1822, hoàng gia Habsburg đã phong hiệu Nam tước cho bốn anh em
nhà Rothschild (trừ Nathan).
Được sự giúp sức về tài chính của Salomon,
Metternich bắt đầu mở rộng sức ảnh hưởng của Áo, đưa quân đi khắp nơi đến các
điểm nóng để “bảo vệ hoà bình”, vì vậy tiềm lực vốn ngày càng suy kiệt của nước
Áo lại bị các cuộc điều quân này làm cho thảm hại thêm, và lẽ dĩ nhiên là ngày
càng rơi vào vòng xoáy tài chính của dòng họ Rothschild. Khoảng thời gian từ
năm 1814 đến năm 1848 ở châu Âu được gọi là thời đại của “Metternich”, còn trên
thực tế, người khống chế Metternich lại chính là ngân hàng Rothschild đứng sau
lưng.
Năm 1822, Metternich, Gentz, Salomon, James và
Calmann đã tham dự hội nghị Verona quan trọng. Sau hội nghị này, ngân hàng
Rothschild nhận được một khoản đầu tư với lợi nhuận. rất lớn là công trình
đường sắt Trung Âu.
Lúc này, người Áo đã ngày càng ý thức được sức
ảnh hưởng của Rothschild, và họ bắt đầu nói đùa với nhau rằng “Nước Áo có một
hoàng đế Ferdinand và một quốc vương Salomon”.
Năm 1843, Salomon đã mua Công ty liên hiệp
khoáng sản Vitkovice và Công ty luyện kim Magyar - hai công ty nằm trong nhóm
10 công ty công nghiệp nặng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ.
Năm 1848, Salomon đã trở thành ông trùm kinh tế
và tài chính của Áo.
7.
Ảnh hưởng của Rothschild đối với Đức và Ý
Kể từ khi người Đức rút quân sau chiến dịch
Napoleon, Liên bang Đức đã được hình thành từ hơn 30 quốc gia phong kiến phân
tán trong quá khứ. Amschel nắm giữ vùng Frankfurt và được bầu làm Bộ trưởng tài
chính đầu tiên của nước Đức liên bang, năm 1822 được hoàng đế của Áo phong làm
Nam tước. Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt trở thành trung tâm tài chính của
nước Đức. Nhưng vì không có con nối dõi, nên Amschel luôn nhiệt tình giúp đỡ
các bậc anh tài mới xuất hiện. Trong số những nhân tài này có một chàng thanh
niên mà ông đặc biệt mến mộ - đó chính là Ottovon Bismarck, vị tể tướng có ý
chí kiên cường và giàu lòng hy sinh của nước Đức và là một nhân vật nổi tiếng
thế giới trong lịch sử hiện đại sau này.
Tình cảm giữa Amschel và Bismarck có cái gì đó
giống như tình cha con. Và sau khi Amschel qua đời, Bismarck vẫn duy trì mối
quan hệ mật thiết với dòng họ Rothschild. Nhà ngân hàng Samuel Bleichroder đứng
sau lưng Bismarck cũng là người đại diện của dòng họ Rothschild(27).
Calmann là người bình dị nhất trong số năm anh
em nhà Rothschild, đảm nhận vai trò người đưa tin chủ yếu trong dòng họ, chuyển
tin tức đến các vùng của châu Âu và hiệp đồng với các anh em khác. Sau khi
giúp. người em thứ năm giành được thắng lợi vang dội trong chiến dịch công trái
năm 1818 của Pháp, ông liền được Nathan cử đến Napoli của Ý để xây dựng ngân
hàng. Chính ở đây ông đã thể hiện khả năng vượt trội đến khó tưởng tượng so với
những người anh em của mình. Calmann không những giúp sức cho Klemens Wenzel
von Metternich phái quân đội đến Ý đàn áp cách mạng mà còn dùng những mánh khóe
chính trị xuất sắc buộc chính phủ địa phương của nước này phải thừa nhận đã sử
dụng chi phí của quân đội. Ông còn giúp cho Medici lập kế hoạch và thu hồi lại
chức vị Bộ trưởng tài chính của Napoli. Calmann dần dần trở thành trụ cột tài
chính trong hoàng cung của nước ý, sức ảnh hưởng của ông lan toả khắp bán đảo
nước này. Ông thiết lập mối quan hệ giao thương qua lại với với Vatican. Khi
gặp ông, giáo hoàng Gregory 16 đã phá lệ giao tiếp của Toà thánh bằng cách đưa
tay ra cho phép Calmann hôn lên, thay vì đưa chân ra cho hôn như lẽ thường.
8.
Đế chế tài chính của Rothschild
Chỉ cần anh em các ngài tụ họp lại cùng nhau thì
trên đời chẳng có một ngân hàng nào có thể cạnh tranh, làm tổn thương hoặc kiếm
lợi ở các ngài. Một khi các ngài hợp sức với nhau thì uy lực của các ngài sẽ
lớn hơn bất cứ ngân hàng nào trên thế giới này(28).
Lời của Davison nói với Nathan, ngày 24 tháng 6
năm 1814.
Trước khi qua đời vào năm 1812, Rothschild cha
đã để lại di chúc cho năm người con:
1. Những chức vụ quan trọng trong các ngân hàng
của dòng họ phải do các thành viên trong dòng họ nắm giữ, tuyệt đối không để
người ngoài nắm những cương vị này. Chỉ cần là đàn ông trong dòng họ thì đều có
thể tham gia vào hoạt động thương mại của dòng họ.
2. Việc kết hôn chỉ có thể được tiến hành giữa
những người họ hàng với nhau trong dòng họ, để tránh tình trạng thất thoát tài
sản ra ngoài. (Quy định này trước đây được thực hiện nghiêm túc, về sau đã được
nới rộng với việc cho phép các thành viên trong gia tộc được kết hôn với các
dòng họ khác gốc Do Thái trong lĩnh vực ngân hàng).
3. Tuyệt đối không cho phép công bố tình hình
tài sản ra bên ngoài.
4. Trưởng nam trong mỗi gia đình được xem là các
thủ lĩnh, trừ khi được dòng họ đồng ý mới có thể chọn con thứ để tiếp quản. Bất
cứ ai vi phạm di chúc này, sẽ mất đi toàn bộ quyền thừa kế tài sản(29).
Tục ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể
đông cũng cạn”, Rothschild đã thông qua hình thức kết hôn trong nội bộ dòng họ
để triệt để đề phòng khả năng của cải thất thoát ra ngoài. Trong hơn 100 năm,
việc kết hôn theo hình thức này đã diễn ra 18 lần, trong đó có 16 lần là giữa
những người con cả vốn là các anh chị em họ với nhau.
Theo tính toán, khoảng năm 1850, dòng họ
Rothschild đã tích luỹ tổng số tài sản lên đến 6 tỉ đô-la, và nếu tính tỉ lệ
lãi suất 6% thì đến ngày nay, sau hơn 150 năm, tài sản của dòng họ này ít nhất
cũng đã trên 50.000 tỉ đô-la.
Một quy chế gia tộc hà khắc, hoạt động hoàn toàn
kín kẽ, sự phối hợp nhịp nhàng chính xác như một chiếc đồng hồ, nguồn thông tin
sớm hơn thị trường, lý trí lạnh lùng sáng suất, tham vọng quyền lực và tiền tài
vô hạn, sự hiểu biết thấu đáo về tiền bạc và của cải cũng như khả năng dự đoán
thiên tài đã giúp cho dòng họ Rothschild xây dựng nên một đế chế tài chính lớn
nhất trong lịch sử loài người, ngay cả khi đế chế này rơi vào vòng xoáy tàn bạo
của tài chính, chiến tranh và chính trị.
Đến đầu thế kỷ 20, tổng số của cải mà dòng họ
Rothschild khống chế đã bằng một nửa tổng của cải thế giới lúc bấy giờ(30).
Số lượng các ngân hàng của dòng họ Rothschild đã
phủ khắp các thành phố quan trọng của châu Âu. Dòng họ này có một hệ thống thu
thập thông tin tình báo và truyền tin nhanh chóng của riêng mình, thậm chí quý
tộc và hoàng gia của các nước châu Âu khi muốn truyền những tin khẩn và bí mật
đều phải thông qua hệ thống của họ. Họ còn là những người đầu tiên sáng lập nên
hệ thống thanh toán tài chính quốc tế, lợi dụng sự khống chế của họ đối với thị
trường vàng thế giới để xây dựng một hệ thống thanh toán sổ sách vận chuyển
vàng mà không cần dùng đến hiện vật trong hệ thống ngân hàng của dòng họ.
Trên thế giới này, không ai có thể lý giải sâu
sắc hơn ý nghĩa đích thực của vàng bằng dòng họ Rothschild. Vào năm 2004, khi
tuyên bố rút lui khỏi hệ thống định giá vàng London, dòng họ Rothschild đang
ngầm rời bỏ trung tâm bão táp tài chính chưa từng có của 'thế giới tương lai để
định lại mối quan hệ giữa họ với giá trị của vàng. Nền kinh tế đô-la Mỹ chồng chất
nợ nần và hệ thống tiền tệ pháp định của thế giới bốn phía rủi ro rình rập,
cũng như hệ thống ngoại hối thế giới rất có thể sẽ đối mặt với một đợt thanh
toán, chỉ có của cải nhiều năm tích luỹ của các quốc gia Đông Nam A có dự trữ
vàng không đáng kể sẽ bị “phân phối lại cho những người thắng cuộc trong tương
lai”. Quỹ đối xung sẽ phát động công kích một lần nữa, chỉ có điều, lần này đối
tượng sẽ không phải là đồng bảng Anh hay tiền tệ của châu á, mà là trụ cột của
nền kinh tế thế giới - đồng đô-la.
Đối với các ngân hàng, chiến tranh là một thông
tin vô cùng tốt lành. Bởi các sản phẩm hay các thiết bị đắt tiền phải khấu hao
dần dần trong thời bình sẽ tan thành mây khói trong tức khắc, các bên tham
chiến sẽ không tiếc bất cứ giá nào để đạt được thắng lợi cuối cùng, đến khi
chiến tranh kết thúc, chính phủ dù là của bên thắng hay thua đều bị lún sâu vào
vòng nợ nần của các ngân hàng. Trong khoảng thời gian 121 năm kể từ khi ngân
hàng Anh thành lập cho đến khi chiến tranh Napoleon kết thúc (1694 - 1815), nước
Anh đã có 56 năm sống trong cảnh chiến tranh, một nửa thời gian còn lại được
tiêu tốn cho việc chuẩn bị cuộc chiến kế tiếp sau đó.
Việc giật dây gây chiến và tài trợ cho chiến
tranh phù hợp với lợi ích căn bản của ngân hàng, và ngân hàng của dòng họ Rothschild
cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuộc đại cách mạng Pháp (1789) đến chiến tranh
thế giới lần thứ hai, hầu như đằng sau cuộc chiến tranh cận đại nào cũng đều
thấp thoáng bóng dáng của họ. Dòng họ Rothschild hiện là chủ nợ lớn nhất của
các quốc gia phát triển ở phương Tây.
Trước khi qua đời, phu nhân Gutle Schnaper của
Rothschild cha còn nói rằng: “Nếu các con trai của ta không thích có chiến
tranh, thì sẽ chẳng có ai còn nhiệt tình với chiến tranh nữa”.
Đến giữa thế kỷ 19, quyền phát hành tiền tệ của
các quốc gia công nghiệp chủ yếu ở châu Âu như Anh, Pháp, Đức Áo, Ý đều lọt vào
tầm khống chế của Rothschild, “Quân quyền thần thánh đã bị kim quyền thần thánh
thay thế”. Lúc bấy giờ, sự phồn vinh thịnh đạt của đại lục địa châu Mỹ nằm bên
kia bờ Đại Tây Dương đã lọt vào tầm ngắm của gia tộc này.
CHÚ
THÍCH
(1) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll
(The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002,
tr.218.
(2) Morton (1962) chú thích rằng, tài sản của
gia tộc Rothschild được ước tính vào khoảng trên 6 ở đô-la Mỹ vào năm 1850. Con
số này có thể không có ý nghĩa gì trong thời đại bảy giờ, tuy nhiên, hãy thử
nghĩ một chút về giá trị của sản nghiệp đó sau 156 năm (tính đến năm 2006).
Nhưng, nếu thử tính 6 tỉ đô-la này trong mối quan hệ với tỉ suất ROI - tỉ suất
lợi nhuận trên vốn đầu tư - và thường dao động từ 4% đến 8%) thì chúng ta có
thể thấy được rằng, khối tài sản của gia tộc Rothschild lớn thế nào:
7 tỉ tỉ đô-la Mỹ (4%)
12.1 tỉ tỉ đô-la Mỹ (5%)
53.2 tỉ tỉ đô-la Mỹ (6%)
230.2 tỉ tỉ đô-la Mỹ (7%)
982.3 tỉ ti đô-la Mỹ (8%)
(3) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(4) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, tr. 94.
(5) Eustace Mullins, The Secrets of the Federal
Reserve - The London Connection (Bankers Research Institute, 1985), Chương 5.
(6) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(7) Ignatius Balla, Chuyện tình của gia tộc
Rothschilds (The Romance of the Rothschilds) - Everleigh Nash, London, 1913
Tờ New York Times, số 1/4/1915 đăng
một báo cáo rằng, năm 1914, Baron Nathan Mayer de Rothschild yêu cầu toà án
đình bản cuốn sách của Igatius Balla vì những gì mà tác giả viết về thân phụ
ông trong cuốn sách này đều không đúng và bôi nhọ danh dự của gia đình ông. Toà
án ra phán quyết rằng, cảu chuyện trong cuốn sách là đúng sự thật và bác đơn
của Baron Nathan Mayer de Rothschild đồng thời ra lệnh cho ông ta phải chi trả
toàn bộ chi phí toà án.
(8) Eustace Mullins. Bí mật của Cục Dự trữ liên
bang (The Secrets of the Federal Reserve) - Bankers Research Institute, 1985,
Chương 5.
(9) Anh em nhà Rothschild trong bức thư gửi vào
năm 1863 đến các ông chủ ngân hàng New York để hỗ trợ cho Đạo luật Ngân hăng
quốc gia.
(10) Glyn Davis. Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press 2002, tr.257, 258.
(11) Eustace Mullins, Bí mật của Cục Dự trữ liên
bang ((The Secrets of the Federal Reserve) - Bankers Research Institute, 1985,
Chương 5.
(12) Xem sách đã dẫn.
(13) Glyn Davis. Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press 2002, tr. 239.
(14) Cục Thống kê quốc gia Anh
(http://www.statistics.uk/CCI/ nugget.asp?ID=277).
(15) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(16) Xem sách đã dẫn.
(17) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books 1961), tr. 40.
(18) Xem sách đã dẫn, tr. 31.
(19) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(20) Benjamin Disraeli, Coningsby (New York:
Alfred A. Knopf, xuất bản tại Anh năm 1844), tr. 224.
(21) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo
Jekyll (The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA
2002, tr. 224.
(22) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books 1961), tr. 45.
(23) R. Mcnair Wilson, Quân chủ hay Quyền lực
tiền tệ (Monarchy or Money Power) - London: Eyre and Spottiswoode, Ltd., 1933,
tr. 68.
(24) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(25) David Druck, Baron Edmond de Rothschitd
(Privately printcd), N.Y. 1850.
(26) Frederic Morton, Gia tộc Rothschilds (The
Rothschilds) - Fawcett Books, 1961.
(27) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(28) Lord Rothschild, The Shadow of a Great Man.
London: 1982, tr. 6.
(29) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(30) Ted Flynn, Hy vọng của kẻ xấu xa (Hope of
the Wicked) - Maxkol Communication, lnc, 2.000, tr. 38.