20/6/12

Mưu trí thời Tùy Đường - Phần IV (KT): Giang Sơn Còn Đợi Người Tài

Chương 54


Đường Huyền Tông thừa uy "Trinh Quán” , lấy nhân tài làm gốc, trọng dụng hiền tướng, làm cho nhà Đường bước vào thời kỳ cực thịnh Khai Nguyên phồn vinh nhất. Nhưng cũng chính ở đỉnh cao của sự phồn vinh đó, An Lộc Sơn đã nổi dậy làm phản, vương triều đại Đường giống như một vật rơi tự do, nhanh chóng trượt xuống sự suy bại, diệt vong từ đỉnh cao phồn thịnh. “Loạn An Sử" nổ ra vào đúng giai đoạn giữa của 300 năm vương triều đại Đường, cũng là cái mốc đánh dấu sự đi xuống từ thịnh chuyển thành suy của nhà Đường.
“Loạn An Sử" kéo dài đúng 8 năm. Đến năm thứ 8, tuy nhà Đường đã dẹp được loạn quân, thu hàng phiến quân nhưng đa số các tướng lĩnh của phiến quân lại đội lốt trở thành những Tiết độ sứ nắm giữ quân đội, chính quyền, tài sản của một vùng. Đối với chúng chính quyền trung ương nhà Đường vốn đã sức cùng lực kiệt chẳng làm thêm được gì nữa. Thế là tình trạng "Phiên trấn cát cứ" dẫn đến đường chết kéo dài hơn nửa thế kỷ của nhà Đường đã xảy ra.
Giữa nhà Đường và các phiên trấn, giữa phiên trấn với phiên trấn luôn diễn ra các cuộc giao chiến về quân sự, ngoại giao liên miên. Các chí sĩ tài năng qua lại không ngớt thi thố tài năng của mình, nô nức đóng những vai đặc sắc, độc đáo trên vũ đài lịch sử. Bắt đầu từ năm 875 sau Công nguyên, thời kỳ cuối cùng của nhà Đường đã xuất hiện các cuộc khởi nghĩa của nông dân trên quy mô rộng lớn. Sau đó Tuyên Vũ Tiết độ sứ Chu ôn đã cướp đoạt thành quả của cuộc khởi nghĩa nông dân, đặt dấu chấm hết cho nhà Đường.
Lịch sử Trung Quốc vì thế mà bước vào một giai đoạn mới - Ngũ đại thập quốc.
54. Ghép hoa này vào cây khác
Từ những năm Thiên Bảo, triều Đường bắt đầu đi từ thời kỳ cực thịnh xuống sự suy bại. Việc Đường Huyền Tông quá sủng ái tin dùng anh em nhà Dương Quý phi và hoạn quan là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự suy thoái của triều Đường. Trong thời kỳ này, Đường Huyền Tông tự cho rằng mọi việc đều đã thành công nên chỉ lo hưởng lạc, sống một cuộc sống xa hoa dâm đãng mà ít lo việc triều chính, suốt ngày chìm đắm trong vòng tay dịu dàng của chị em Dương Quý phi. Một số con cái nhà quan lại cũng hùa theo bắt chước diễn trò hề "Con rùa Đường".
Đạt Hề Doanh Doanh là tiểu thiếp của một hoạn quan được Đường Huyền Tông sủng ái. Nàng có sắc đẹp làm rung động lòng người, đương thời có thể gọi là vô song. Nàng không chỉ đẹp mà còn có tài trí, lại là người phong lưu lãng mạn, trong phòng ngủ luôn dấu một chàng trai tuấn tú. Có lần nàng còn để một thiếu niên đẹp trai đảm nhận chức "Thiên ngưu vệ" trong phòng mình đến mấy ngày mà vẫn chưa nỡ rời xa.
Sau khi Thiên Ngưu Vệ mất tích, quan phủ rất lo lắng sai người đi khắp nơi tìm. Qua một thời gian Đường Huyền Tông cũng biết sự việc đó. Đường Huyền Tông nghe nói quan cấm vệ ở bên cạnh mình có thể cũng sẽ mất theo thì rất ngạc nhiên, lập tức ra chiếu thư cho các quan phủ phải lục soát khắp kinh thành. Song đã tìm khắp nơi mà cũng không thấy bóng dáng Thiên Ngưu Vệ đâu. Vì thế đành phải hỏi xem gần đây Thiên Ngưu Vệ đã đi qua những đâu. Cha của Thiên Ngưu Vệ nói lần trước có một hoạn quan bị bệnh, Thiên Ngưu Vệ đã từng đi thăm. Đương nhiên viên hoạn quan đó là "chồng" của Đạt Hề Doanh Doanh. Vì vậy Đường Huyền Tông hạ chiếu đến nhà viên hoạn quan để truy tìm.
Đạt Hề Doanh Doanh đành phải nói với Thiên Ngưu Vệ: “Sự việc đã đến nước này ta không thể để chàng ở đây mãi được Nhưng chàng yên tâm, sau khi chàng ra khỏi sẽ không có gì nguy hiểm cả, bọn họ không hại được chàng đâu” . Thiên Ngưu Vệ rất sợ hãi, chỉ sợ vì thế mà phạm phải tội nào đó. Doanh Doanh bèn dạy anh ta: "Sau khi ra khỏi đây chàng không được nói là ở chỗ ta, nếu hoàng thượng hỏi chàng đã đi đâu, chàng hãy nói với hoàng thượng một cách mơ hồ rằng người mà chàng gặp trông như vậy, cái phòng mà chàng thấy bày biện như thế, cái mà chàng ăn ở đó như thế này... Sau đó lại mơ mơ hồ hồ nói với hoàng thượng rằng việc chàng ở lại đó lâu như thế là vì tình thế bắt buộc chứ không phải là ý của chàng... Nếu chàng nói như vậy thì chắc chắn sẽ không có tai họa gì xảy ra".
Thiên Ngưu Vệ cũng chẳng nghĩ ra được cách gì. Anh ta thừa hiểu rằng viên hoạn quan lúc đó pháp lực vô biên, cái kế của Đạt Hề Doanh Doanh có thể biến một con ngựa đã chết thành ngựa sống nên cố gắng ghi nhớ từng lời, và khi ra khỏi nơi ẩn nấp là trực tiếp đi gặp Đường Huyền Tông ngay.
Đường Huyền Tông thấy Thiên Ngưu Vệ không được triệu lại đến, không nén được cơn giận truy hỏi anh ta mấy hôm nay đi đâu. Thiên Ngưu Vệ bèn đem những lời Đạt Hề Doanh Doanh dặn thuật lại một lần, không ngờ Đường Huyền Tông nghe xong quả nhiên nguôi giận ngay, chỉ cười mà không hỏi thêm câu nào.
Mấy hôm sau chị của Dương Quý phi là Quắc Quốc phu nhân vào cung gặp Đường Huyền Tông. Đường Huyền Tông giễu bà rằng: "Sao lại giấu một chàng trai lâu như vậy mà không để anh ta đi?". Quắc Quốc phu nhân cũng không hề tỏ ra ngạc nhiên xấu hổ mà chỉ cười.
Thiên Ngưu Vệ không hiểu tại sao mình lại thoát được cái họa đó cho đến khi gặp Quắc Quốc phu nhân mới biết rằng Đạt Hề Doanh Doanh đã dùng kế "di hoa tiếp mộc" một cách kỳ diệu. Hóa ra Đạt Hề Doanh Doanh là người biết rất rõ mọi việc trong cung. Quắc Quốc phu nhân tuy là một trong những người tình của Đường Huyền Tông nhưng vẫn có không ít kẻ trai lơ, thường xuyên giấu trong nhà một số thanh niên. Vì thế mà Đạt Hề Doanh Doanh đã bảo Thiên Ngưu Vệ miêu tả lại một cách không có căn cứ về cách phục sức, cách bài trí đồ đạc và thói quen ăn uống của Quắc Quốc phu nhân để Đường Huyền Tông hiểu nhầm Thiên Ngưu Vệ là người bị bà ta giấu. Nếu nói về thực lực và tính cách của Quắc Quốc phu nhân thì một Đạt Hề Doanh Doanh nhỏ bé sao có thể so sánh được. Đường Huyền Tông đương nhiên là không thể trách Thiên Ngưu Vệ mà chỉ có thể lấy chuyện quân cơ đại sự ra để làm chủ đề góp vui với người tình.
“Di hoa tiếp mộc" nghĩa đen là chỉ việc lấy cành hoa để ghép lên một cây khác, nó được ví với việc ngầm thay đổi người hoặc sự vật. Đạt Hề Doanh Doanh đã khéo léo đem Thiên Ngưu Vệ vốn có liên quan đến mình ("cành hoa") để “ghép" lên người Quắc Quốc phu nhân ("cây") quả là một cách “di hoa tiếp mộc" điển hình.
Di hoa tiếp mộc là một mưu kế mà thông qua cách "ghép cây” để tống khứ những cái xấu, cái dữ đi để đón cái may đến. Đạt Hề Doanh Doanh thông qua việc "ghép cây" để dễ dàng trừ bỏ cái họa của Thiên Ngưu Vệ (và cũng có thể ảnh hưởng đến chính cô ta). Trong kinh doanh, cái kế "di hoa tiếp mộc" cũng rất có đất dụng võ. Bởi vì nếu sản phẩm, cửa hàng của mình có liên quan với những người nổi tiếng, tới chất lượng tốt thì sẽ luôn gây ra sự xôn xao và làm cho người tiêu dùng chú ý đến. Vì vậy luôn cần phải áp dụng phương pháp "ghép cây”, để biến cái không liên quan thành có liên quan, quan hệ không chặt chẽ thành quan hệ chặt chẽ thì mới có thể đạt được hiệu quả.
Một cửa hàng đá quý vốn làm ăn rất hiệu quả ở Luân Đôn vì muốn thoát khỏi tình trạng khó khăn hết sức nguy ngập nên ông chủ quyết định dùng kế "di hoa tiếp mộc", để gắn liền cửa hàng đá quý của mình với tên tuổi của công nương Diana.
Một buổi chiều tối, ở cửa hàng đó đèn điện sáng choang, ông chủ quần áo chỉnh tề đứng ở bậc thềm chờ đón "khách quý”. Lúc sau, một chiếc xe sang trọng đột nhiên dừng trước cửa tiệm, Diana chầm chậm bước ra khỏi xe, cười và thân mật gật đầu chào những người qua đường. Mọi người thấy vậy vội vàng chen chúc nhau để nhìn cho rõ Vương phi mãi không chịu giải tán. Một số em bé còn mạnh dạn chen lên trước để hôn tay Vương phi. Cảnh sát đường phố vội vàng chạy đến để duy trì trật tự, tránh việc người xung quanh làm ảnh hưởng đến hoạt động của Vương phi.
Ông chủ thì luôn miệng cười, cảm ơn Vương phi đã đến với cửa hàng và cùng Vương phi đến trước quầy hàng. Nhân viên bán hàng đem ra dây chuyền, kim cương, khuyên tai... toàn những trang sức quý hiếm nhất để Vương phi lựa chọn. Diana lộ rõ vẻ thích thú, vui vẻ không muốn rời, luôn miệng khen đẹp. Các máy quay phim đã được sắp đặt trước thu vào máy tất cả các hình ảnh và ngay hôm sau các hình ảnh đó đã được phát đi rộng rãi trên đài truyền hình. Tuy rằng từ đầu đến cuối không có một lời giải thích cũng không có sự dẫn dắt quảng cáo nhưng địa chỉ và tên cửa tiệm tương đối rõ ràng. Vì thế mà cửa hàng đá quý đó lập tức làm xôn xao cả thành phố Luân Đôn.
Những thanh niên ưa chuộng thời trang, những người hâm mộ Diana lập tức chen chúc nhau đến, trước cửa tiệm xe nối thành hàng dài, mọi người tranh nhau mua loại trang sức mà Vương phi đã khen. Ông chủ mặt mày hớn hở trực tiếp đứng bán, liên tục không ngừng đón tiếp khách. Chỉ trong vài ngày, doanh số bán hàng đã vượt qua cả doanh số từ ngày mở cửa đến nay, kinh doanh càng ngày càng phát đạt.
Ông chủ cửa hàng đã đem cửa tiệm đá quý của mình "ghép" lên người Diana, dùng kế "di hoa tiếp mộc" để kiếm một khoản tiền lớn vậy là đã thành công.
Chắc chắn sẽ có người hỏi rằng: Chẳng phải mỗi cửa hàng đều có cơ hội được Vương phi đến thăm sao? Ở đây cần phải nói rằng nếu Vương phi chủ động đến thì quan hệ giữa chúng và Vương phi được hình thành một cách "tự nhiên" chứ không phải do "ghép cây" mà thành, càng không thể nói là đã dùng “mưu kế" được. Chỉ có cách "ghép cây" biến cái không có quan hệ với nhau thành cái có quan hệ này mới có thể gọi là đã dùng mưu kế. Chúng ta nói rằng ông chủ cửa hàng đá quý đó đã dùng kế "di hoa tiếp mộc" còn bởi vì đoạn sau đây:
Việc kinh doanh cửa hàng đá quý ngày càng phát đạt đã trở thành bản tin của dư luận phố phường và vì thế làm chấn động cả hoàng cung. Không lâu sau, người phát ngôn của hoàng gia tuyên bố: "Sau khi xem bảng sắp xếp nhật trình thì ngày hôm đó Vương phi không đến cửa tiệm đá quý". Mọi người đều cho rằng ông chủ cửa tiệm đá quý sẽ bị khởi tố. Nhưng ông đã bình tĩnh một cách tự nhiên. Ông thừa nhận rằng từ trước tới nay Vương phi chưa từng đến cửa hàng của mình. Vị khách quý được đón tiếp thịnh tình hôm đó là do ông phải rất vất vả mới tìm ra được. Phong cách, thần thái, dáng người, cử chỉ của cô ta đều rất giống Vương phi Diana, dưới bàn tay của các nhà thẩm mỹ, kiểu tóc, phục sức của cô ta đều giống hệt. Nhưng rốt cục cô ta không phải là Diana. Cái băng mà hôm đó đài truyền hình đã phát đi từ đầu đến cuối chỉ có âm nhạc mà không nói một câu nào cả, vì thế cửa hàng đá quý không phạm phải tội khi quân. Mọi người tưởng nhầm cô "Diana" đó là Vương phi Diana thì đấy là chuyện của mọi người.
Mọi người tự "ghép cây" của tiệm đá quý đó lên người Vương phi còn cửa hàng chỉ là biết cách làm sao để bán được hàng nhiều nhất. Kỹ xảo "ghép cây" của ông chủ mới cao siêu làm sao! Cái lý lẽ biện giải của ông chủ mới đàng hoàng làm sao!
 
Chương 55
Giương đông kích tây, lợi dụng sơ hở để tấn công


Ngày 9 tháng 11 năm Thiên Bảo Đường Huyền Tông thứ 4 (năm 755 sau Công nguyên), An Lộc Sơn mượn cớ đi dẹp giặc, Dương Quốc Trung đã dẫn hơn 100.000 quân lính và quân đội dân tộc thiểu số, trên danh nghĩa là 200.000 người từ Phạm Dương (Bắc Kinh ngày nay) cấp tốc Nam chinh. Những nơi đại quân đi qua thì đa phần các châu huyện chỉ có cách đầu hàng, hoặc bỏ chạy, hoặc bị giết chứ tuyệt đối không có khả năng kháng cự. Đến tháng 12, An Lộc Sơn đã đến được Linh Xương (phía tây nam huyện Hà Nam ngày nay) lợi dụng nước sông đóng băng vượt qua Hoàng Hà, đánh Trần Lưu, hãm Huỳnh Dương, áp sát Hổ Lao (Tự Thủy - Hà Nam ngày nay).
Đến tận lúc này An Lộc Sơn mới gặp phải sự ngăn cản của 6 vạn quan quân nhà Đường do Phong Thường Thanh dẫn đầu. Nhưng số quan quân đó đều là lính mới chiêu mộ vội vàng, chưa qua huấn luyện thì làm sao chịu được sự tấn công của kỵ binh, Phong Thường Thanh đại bại ở Hổ Lao, ở ngoài thành Lạc Dương và cả ở trong cửa đông của thành Lạc Dương. Dù đã làm mọi cách nhưng cũng phải tháo lui, hợp quân với Cao Tiên Chi ở Thiểm Châu, bỏ lại thành quách, lui giữ Đồng Quan, mưu tính dựa vào thế hiểm để đánh lại, đề phòng yên quân tiến vào Trường An. Đường Huyền Tông lòng dạ như lửa đốt chỉ muốn phản công, tức giận cho chém đầu Phong Trường Thanh và Cao Tiên Chi, hai kẻ dám lui về phía sau tránh giặc. Sau đó sai Ca Thư Hàn đem theo 8 vạn quân đến Đồng Quan để thay thế. Mặt khác hạ lệnh cho các nơi tiến binh, hợp sức tiến công đông đô lạc Dương.
An Lộc Sơn vốn định từ Lạc Dương tiến công luôn Đồng Quan để có thể chiếm ngay Tây kinh Trường An, lật đổ nhà Đường. Không ngờ quân dân Hà Bắc, dưới sự lôi kéo của Nhan Cảo Khanh, Nhan Chân Khanh đã đứng dậy phản kháng, thanh thế to lớn, cắt đứt liên lạc giữa yên quân Lạc Dương với lão sào Phạm Dương. Thêm vào đó hai đại tướng Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi kịp thời dẫn quân ra khỏi Tỉnh Kinh, liên lạc với quân dân Hà Bắc, đe dọa nghiêm trọng yên quân. An Lộc Sơn đành phải rút về Lạc Dương để sắp xếp lại phái mãnh tướng Sư Tư Minh quay lại cứu Hà Bắc, lệnh cho con trai là An Khánh Tư tấn công chiếm Đồng Quan. Tiếc rằng quân dân Hà Bắc nhất là hai danh tướng Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi là những người túc trí đa mưư, anh dũng thiện chiến nên Sử Tư Minh liên tiếp bại trận. Ca Thư Hàn thì dựa vào địa thế hiểm yếu của Đồng Quan cố thủ không ra nên yên quân không có cách nào tiến về phía tây. Nhà Đường cuối cùng cũng ổn định được thế trận, có cơ hội điều binh lực ưu thế để tiêu diệt địch. An Lộc Sơn phía trước bị chặn bởi Đồng Quan, phía sau thì không có đường về, tuy đã vội vàng lên ngôi hoàng đế Đại Yến ở Lạc Dương nhưng trên thực tế thì đã mất hết tự tin, chẳng làm gì được nữa.
Không ngờ vào lúc An Lộc Sơn đang ngày đêm lo lắng như vậy thì Đường Huyền Tông vì muốn nhanh chóng dẹp loạn nghe theo tin tức tình báo phiến diện của Lương Quốc Trung hạ lệnh cho Ca Thư Hàn nhanh chóng ra khỏi Đồng Quan vào tiêu diệt yên quân. Ca Thư Hàn đành phải bỏ thế hiểm yếu đó để mạo hiểm tiến công. Hơn 100.000 binh sĩ nhà Đường mất mạng bởi mai phục của yên quân. Bức tường ngăn cách Trường An bỗng dưng lại rơi vào tay phiến quân.
Đồng Quan thất thủ, Trường An rối loạn. Đường Huyền Tông vì không kìm nén được cơn giận, nóng vội muốn dẹp phản, giờ đây mất hết nhuệ khí, chỉ mang theo được chị em Dương Quý phi cùng các hoàng tôn run rẩy thừa lúc đêm khuya trấn khỏi Trường An chạy về phía Tây Thục. Tháng 6 năm 765 sau Công nguyên, An Lộc Sơn lại dễ dàng chiếm được Tây kinh Trường An. Đây chính là điểm mấu chốt khiến nhà Đường từ đỉnh cao cường thịnh rơi xuống vực sâu suy bại - giai đoạn đầu tiên của "An - Sử chi loạn".
Mọi người không kìm được câu hỏi: Đế quốc đại Đường đang ở vào giai đoạn cường thịnh nhất, tuy triều chính đã bắt đầu suy bại nhưng với 80 vạn hùng binh, hàng loạt các tướng lĩnh trung thành sẵn sàng xả thân nơi chiến trường vì hoàng thất, và với đất đai rộng lớn nhất trong lịch sử cùng tài nguyên chiến lược vô biên như vậy thì chỉ với một An Lộc Sơn nhỏ bé tính tình xảo trá nhưng không đủ mạnh mẽ để mưu trí lớn, tuy có trong tay gần 20 vạn quân nhưng vẫn không bằng một phần tư quân Đường, hơn nữa kẻ làm phản đó lại không được lòng người thì tại sao có thể chỉ trong chớp mắt đã đánh chiếm được hai kinh đô nhà Đường, buộc Đường Huyền Tông phải bỏ chạy như vậy? Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do An Lộc Sơn đã vận dụng thành công mưu kế "Giả dương hành âm, thừa sơ kích giải".
Kẻ địch mà phòng bị lơ là lỏng lẻo tất sẽ dẫn đến tư tưởng tê liệt ý chí chiến đấu rời rạc, chỉ huy bất lực, hiệp đồng không tốt, phản ứng chậm chạp, chiến đấu yếu ớt. "Thừa sơ kích giải" tức là nhân lúc kẻ địch không ngờ tới để tấn công mạnh mẽ, làm cho chúng không kịp trở tay, thần trí rối loạn, mất khả năng kháng cự. Nhưng thông thường thì kẻ địch ít khi tê liệt, lỏng lẻo. Do đó trước khi tấn công mạnh mẽ luôn phải thông qua "giả dương hành âm" để mê hoặc kẻ địch, làm chúng tê liệt, còn mình thì nuôi dưỡng chí khí. "Dương" là công khai, bao lộ, "âm" là ngụy trang, ẩn nấp. "Giả dương hành âm" tức là dùng hành động công khai để che giấu những hành vi, ý đồ kín đáo.
Trước khi An Lộc Sơn tiến công, ông ta đã phải dùng một khoảng thời gian mất 10 năm để thực hiện kế "giả dương hành âm". "Giả dương" của An Lộc Sơn là giả vờ tỏ ra thật thà, thẳng thắng, trung thành, để giành được lòng tin của Đường Huyền Tông, để rồi Đường Huyền Tông không hề có sự phòng bị gì với ông ta. Năm 743 sau Công nguyên An Lộc Sơn đã làm tới chức Binh Lư Tiết độ sứ, mỗi lần vào triều thường được Đường Huyền Tông tiếp kiến và có những ưu đãi đặc biệt. Ông ta đã thừa cơ dâng tấu: "Năm ngoái cả một vùng Doanh Châu bị sâu bọ tàn phá hoa màu thần đã thắp hương khấn trời: “Nếu thần không ngay thẳng, chính trực, không trung thành với quân vương thì nguyện làm thức ăn cho sâu bọ, nếu không thì xin hãy đuổi hết lũ sâu bọ đi". Thần vừa khấn xong thì ngay lập tức từng đàn từng đàn chim từ phương Bắc sà xuống, lũ sâu bọ không con nào thoát chết cả. Qua đó có thể thấy chỉ cần tấm lòng thành của vi thần thì ông trời nhất định sẽ phù hộ. Do đó nên viết chuyện này vào sử sách".
Một lời nói dối vốn rất nực cười nhưng vì An Lộc Sơn rất giỏi xu nịnh nên Đường Huyền Tông lại tin là thật và càng cho là ông ta thật thà chân chất. An Lộc Sơn là người dân tộc thiểu số lai Đông Bắc, ông ta thường nói với Đường Huyền Tông: “Thần là kẻ ngoại tộc, may được hưởng hoàng ân, được hoàng thượng sủng ái, tự thấy hổ thẹn vì mình ngu xuẩn, không đủ tài đức đảm nhận, chỉ có tấm thân sẵn sàng tử vì nước để báo đền hoàng ân". Đường Huyền Tông rất đỗi vui mừng. Một lần đúng lúc có hoàng thái tử ở đó, Đường Huyền Tông lệnh cho hoàng thái tử gặp An, An cố ý không bái kiến. Thị vệ trước điện quát hỏi: "An Lộc Sơn gặp điện hạ sao không bái?". An giả vờ kinh ngạc: "Điện hạ là ai?". Đường Huyền Tông mỉm cười: “Điện hạ tức là hoàng thái tử". An trả lời: "Hạ thần không biết lễ nghi trong triều, thế hoàng thái tử là quan gì?". Đường Huyền Tông cười phá lên: "Sau 100 năm nữa người lên ngôi hoàng đế kế vị trẫm thì gọi là hoàng thái tử". Lúc này An Lộc Sơn mới giả bộ như mới tỉnh ngộ ra: "Ngu thần chỉ biết có bệ hạ, không biết có hoàng thái tử, tội đáng muôn chết". Đồng thời bái lạy hoàng thái tử. Đường Huyền Tông lại cảm thấy ông ta "thật thà, chất phác" hết lời khen ngợi.
Vào một ngày năm 747 sau Công nguyên, Huyền Tông mở tiệc An Lộc Sơn tự mình ra múa điệu Hồ Toàn (một điệu múa xoay tròn của rợ Hồ) để góp vui. Huyền Tông thấy ông ta bụng to như vậy mà vẫn có thể múa mới cười hỏi rằng, "Trong bụng có những thứ gì mà to đến vậy?". An Lộc Sơn trả lời rằng: "Chỉ có tấm lòng chân thành". Huyền Tông rất vui lệnh cho ông ta kết nghĩa với anh em Quý phi. An Lộc Sơn lại mặt dày mày dạn xin làm con trai Dương Quí Phi. Từ đó trở đi An Lộc Sơn ra vào cung cấm như người trong hoàng tộc.
Dương Quý phi và hắn thì cứ xoắn lấy nhau, Huyền Tông càng tin dùng hắn, giao vào tay hắn tổng quản một phần tư tinh binh trong thiên hạ. Âm mưu phản loạn của An Lộc Sơn rất nhiều người biết và cũng đã nhiều lần nói cho Huyền Tông. Nhưng Đường Huyền Tông đã bị kế "Giả dương hành âm" của An Lộc Sơn mê hoặc, nên xem tất cả các bản tấu đó chỉ là sự đố kỵ với An Lộc Sơn, không những không đề phòng gì đối với An Lộc Sơn mà còn rất đồng tình, thương tiếc, không ngừng ban cho ân sủng, ngoài chức Binh Lộ Tiết độ sớ còn kiêm thêm Tiết độ sứ các vùng Phạm Dương, Hà Đông, Nhàn Cứu, Quần Mục.
An Lộc Sơn thấy rằng kế "Giả dương hành âm" đã thuận lợi, Đường Huyền Tông lại chỉ tin dùng chứ không hề đề phòng gì ông ta nên nhanh chóng dùng biện pháp "thừa sơ kích giải" để tập kích bất ngờ. Sự sắp xếp chiến lược của ông ta là dốc toàn lực để giành được Hà Bắc, đánh thẳng vào hai kinh Đông Tây (tức Trường An và Lạc Dương).
Vì thế mà An Lộc Sơn chỉ với hơn 20 vạn binh lực, chưa bằng một phần tư nhà Đường, nhưng tất cả mãnh tướng tinh binh của nhà Đường đều tập trung ở Tây Bắc, không có sự phòng bị gì đối với An Lộc Sơn, cả một vùng rộng lớn bao gồm cả hai kinh chỉ có 8 vạn người, binh tướng ở Hà Nam, Hà Bắc lại càng ít. Mà quân lính thì đã quen với sự bình yên, võ bị lỏng lẻo nên khi đối mặt với sự tấn công một mạch với đội quân binh mã tinh nhuệ dọc theo mặt Đông của bình nguyên Hà Bắc áp sát hai kinh thì đương nhiên là hoang mang, lúng túng, không còn khả năng kháng cự. Vì thế mà cuộc tấn công của An Lộc Sơn bắt đầu từ Bắc Kinh chiếm đến Lạc Dương chỉ mất ba mươi ba ngày.
Nhà Đường với thực lực hùng hậu hơn, khả năng ứng biến nhanh nhẹn hơn An Lộc Sơn đã ngăn chặn được mũi nhọn của phiến quân, cắt đứt liên lạc giữa phiến quân với đại bản doanh ở Hà Bắc. Nhưng Đường Huyền Tông đã bị kế "giả dương hành âm" làm cho vô cùng phẫn nộ lại bị kế "thừa sơ kích giải" chạm vào lòng tự tôn đã trở nên rất nôn nóng, vội vàng. Thêm vào đó Tôn Tử lại khuyên: "Chúa không thể nóng giận như vậy mà khởi binh, cũng không thể tức giận như vậy mà chiến đấu được”. Mưu kế của An Lộc Sơn đã làm cho Đường Huyền Tông mất đi sự bình tĩnh khách quan cần có trong chỉ huy chiến đấu, trong cơn nóng giận vội vàng quên mất điều cần thiết đối với nhà Đường là giữ nguyên thế trận để có thời gian điều tinh binh đến bao vây tiêu diệt ý nghĩa cốt yếu của phiến quân, đã vội vàng xử trảm Phong Thường Thanh, Cao Tiên Chi là hai tướng đã phòng thủ rất đích đáng, lại bắt Ca Thư Hàn bỏ đi cái thế hiểm yếu của Đồng Quan để xuất kích phiến quân thì làm gì mà toàn quân chẳng bị tiêu diệt, thất bại thiên lý như vậy?
Sau khi yên quân chiếm lĩnh Đồng Quan đã dừng quân 10 ngày và khi vào Trường An cũng không tổ chức truy kích, để cho Đường Huyền Tông đào thoát yên ổn. Có thể thấy An Lộc Sơn là người có tầm nhìn nông cạn, ông ta chỉ lo củng cố hai kinh đã chiếm được và để nối thông với đại bản doanh Hà Bắc, hưởng thụ những chiến lợi phẩm thu được, hưởng thụ cảm giác làm hoàng đế đại yến mà không lo dập tắt một cách triệt để kế hoạch to lớn của chính quyền triều Đường. Song chỉ với một kẻ vô lại có tầm nhìn nông cạn như vậy mà lại có thể đánh cho hoàng đế đại Đường phải bỏ chạy xa thì cũng đủ thấy hiệu lực của mưu kế "Giả dương hành âm, thừa sơ kích giải” .
Trong chiến tranh không thiếu gì chuyện treo đầu dê bán thịt chó, trên thương trường cũng thường gặp kế "giả dương hành âm" như vậy, nhân lúc đối thủ lơ là không để ý cắt bỏ cả đầu anh ta thì anh ta cũng không biết là ai đã ra tay. Trong cạnh tranh thương mại cũng rất hay dùng kế "thừa sơ kích giải", bất ngờ cướp từ tay đối thủ cái mà mình cần. Guwid nhờ thực hiện kế "Giả dương hành âm, thừa sơ kích giải" mà cướp lấy West Fun công ty điện báo.
Đầu tiên là Guwid đã dùng 100 vạn đô la để mở một đường dây điện báo mới, thành lập công ty điện báo Thái Bình Đại Tây Dương. Ông chủ của West Fun đã ý thực được rằng đang có sự đe dọa nên phái người đi đàm phán trước. Sau một hồi mặc cả, Guwid giả bộ như bị uy hiếp bởi thế lực của West Fun nên "gác súng đầu hàng", đồng ý để lại công ty Thái Bình Đại Tây Dương một cách vô điều kiện với giá 5 vạn đô la Mỹ, toàn bộ nhân lực, thiết bị, của công ty thuộc về West Fun. Vì lý do kỹ thuật và tri thức nên Agetera vẫn đảm nhiệm chức kỹ sư trưởng của West Fun. West Fun mở rộng được thực lực lại có thêm một dũng tướng nên rất đắc ý, cho rằng không còn gì đáng lo nữa. Đối với một người thấy tiền là lóa cả mắt, chưa đánh đã hàng như Guwid thì ông ta không thèm để mắt đến.
Qua một khoảng thời gian, Edison phát minh ra loại máy phát điện bốn tầng, hiệu suất của nó được nâng từ gấp hai lần trở lên so với loại điện báo cũ. Đương nhiên ai được độc quyền loại máy đó sẽ là người đứng đầu trong ngành điện báo. West Fun lập tức cử đại diện đi tìm Edison để đàm phán. Mà đại diện đi đàm phán thì không phải ai khác mà chính là thành viên cũ của công ty Thái Bình Đại Tây Dương trước đây và kỹ sư trưởng của West Fun hiện nay - Agetera. Trước khi đi, William còn dặn đi dặn lại là mua lại bản quyền của Edison với giá thấp hơn 5 vạn đô la.
William tự cho rằng West Fun là công ty lũng đoạn duy nhất, các công ty khác không có khả năng cạnh tranh, Edison cũng chẳng có cách lựa chọn nào khác và đàm phán nhất định sẽ như ý muốn nên về cơ bản chẳng để tâm đến chuyện đại sự như vậy.
Nhưng Agetera đúng là nội gián được bố trí ở West Fun trong kế "Giả dương hành âm" của Guwid, một mặt tiến hành đàm phán với Edison, mặt khác ngầm báo cho Guwid về tiến triển của cuộc đàm phán. Guwid thấy rằng kế "Giả dương hành âm" đã có hiệu quả, ông chủ của West Fun đã lơ là không để ý nên lập tức quyết định tấn công, bất ngờ cướp mất đồ trong tay.
10 giờ tối ngày đàm phán đầu tiên, hai người cùng đi trên một chiếc xe đến đón Edison đến nhà Guwid. Vừa ngồi xuống, Agetera nói ngay: "Ban sáng đàm phán với ngài là tôi đại diện cho West Fun. Còn bây giờ tôi lại đại diện cho công ty điện báo Meilian vừa được thành lập. West Fun đưa ra cái giá dưới 5 vạn đô la còn công ty mới mở của chúng tôi đồng ý trả 10 vạn đô la để mua bản quyền của ngài và khẩn thiết mời ngài đảm nhận chức kỹ sư trưởng của công ty chúng tôi. Mức lương thì dễ bàn thôi". Một người chỉ biết nghiên cứu khoa học chứ chẳng hiểu gì về việc kinh doanh làm ăn như Edison cảm thấy điều kiện mà công ty mới đưa ra hơn hẳn của West Fun nên lập tức đồng ý ngay.
Guwid dùng mưu kế và thành công rực rỡ. ông đã lợi dụng tình thế có được trong tay những người tài giỏi như Agetera và Edison bất ngờ tập kích William làm ông ta gần như tê liệt, bị mắc lừa, tức muốn chết mà vẫn bó tay không còn cách nào, đành để cho cả hai công ty cùng tồn tại và lại do Guwid làm tổng giám đốc.
 
Chương 56
Tích cực cố gắng, chủ động tiến công


An Lộc Sơn mất 10 năm bí mật chuẩn bị, đến năm 755 sau Công nguyên mới làm cuộc đảo chính. Chỉ vì Đường Huyền Tông không hề phòng bị, trong cơn tức giận mất đi sự bình tĩnh và kiên nhẫn, thêm vào đó là bọn Dương Quốc Trung chỉ lo các tướng lĩnh khác có công lớn mà đã xúi giục Đường Huyền Tông chỉ huy mò, dẫn đến thất bại nghiêm trọng đó. An Lộc Sơn rất nhanh chóng chiếm cứ được Đông kinh Lạc Dương và đánh hạ Đồng Quan. Đường Huyền Tông hoang mang lo sợ, đem theo anh em Dương Quý phi cùng hoàng tử hoàng tôn thừa lúc đêm khuya rời khỏi Trường An, bỏ trốn về phía Tứ Xuyên. Trên đường vừa đi vừa nghỉ phải mất ba tháng mới đến được Mã Nguy Dịch (Thiểm Tây, Hưng Bình Tây). Vì dọc đường đi quan lại sớm nghe tin đều đã bỏ trốn hết nên chuyện cơm ăn áo mặc không có người cung phụng. Các tướng sĩ vừa đói vừa mệt không chịu nổi nữa, phẫn nộ giết chết kẻ đầu sỏ gây nên tội ác Dương Quốc Trung, đồng thời kiên quyết đòi xử tử Dương Quý phi. Đường Huyền Tông vì muốn làm quân sĩ nguôi giận để tiếp tục trốn nên đành phải ban cho Dương Quý phi cái chết. Lúc đó các tướng sĩ mới đồng ý đi tiếp.
Không ngờ dân chúng dọc đường đột nhiên chặn phía trước, viết bốn chữ "cung điện lăng tẩm" để trách Đường Huyền Tông, đồng thời bao vây Đường Huyền Tông và thái tử yêu cầu họ phải ở lại quyết chiến với phiến quân. Đường Huyền Tông vì muốn nhanh chóng thoát thân nên hạ lệnh cho thái tử ở lại để làm yên lòng dân chúng còn mình thì chạy mất dạng.
Thái tử Lý Hưởng chỉ muốn cùng cha chạy trốn nên nói: “Hoàng đế đường xa một mình rất mạo hiểm, tôi sao có thể nhẫn tâm rời xa người được? Hơn nữa tôi cũng chưa kịp cáo từ...”. Nhưng lúc đó hàng ngàn người vây chặt lấy, một mực chặn trước đầu ngựa không chịu để cho thái tử đi. Lý Hưởng định thúc ngựa cố chạy thì bỗng nhiên phía sau xuất hiện hai người, họ tiến lên níu lấy dây cương ngựa và nói: "An Lộc Sơn chiếm cứ kinh thành, đất nước vì thế mà sắp bị chia cắt, nếu không cố gắng, thuận theo lòng dân thì sao có thể cứu được đất nước? Nếu bây giờ điện hạ cùng chí tôn Tây hành mà quân giặc ngay lập tức đốt sạn đạo ra vào Tứ Xuyên thì chẳng phải là đã cống cả Trung Nguyên vào tay giặc rồi ư. Một khi lòng người ly tán chẳng có cách nào hợp lại được, đến lúc đó thì có muốn quay lại chỗ này e rằng cũng chi là điều không tưởng. Xin điện hạ hãy nghĩ đến xã tắc, lập chí cứu nước ở lại đây đồng tâm hiệp lực cùng dân chúng, chủ động phản kích lại phiến quân".
Lý Hưởng nghe xong thấy cũng có lý, nhìn lại người nói thì ra là con trai thứ ba của mình Kiến Ninh Vương Lý Đàm và Đông cung thị vệ Lý Phụ Quốc. Lý Hưởng đáp rằng. "Ngươi dù muốn giữ ta ở lại thì cũng phải bẩm báo với chí tôn cho rõ ràng". Ngay lập tức con trai trưởng của Lý Hưởng là Quảng Bình Vương Lý Thích đuổi theo Đường Huyền Tông để trình báo tình hình. Đường Huyền Tông nói rằng: "Lòng người như vậy cũng tức là ý trời". Sau đó để lại 2000 hậu quân cho thái tử, bảo Lý Thích về báo lại: "Phải lấy xã tắc làm trọng, không cần lo cho ta. Đến Tứ Xuyên ta sẽ hạ chỉ nhường ngôi". Thế là thái tử Lý Hưởng ở lại, quyết tâm phản kích lại quân giặc, cứu lấy xã tắc Dân chúng ai nấy đều giải tán.
Không lâu sau, tại Linh Võ (ngày nay là Tây Nam Linh Võ - Ninh Hạ) theo lời thỉnh cầu của các đại thần, không đợi chiếu thư nhường ngôi của Đường Huyền Tông đến, Lý Hưởng đã lên ngôi hoàng đế, sử gọi là Đường Túc Tông. Từ đó, Lý Hưởng tự mình nắm đại chính, mời đại mưu trí gia Lý Tất, lấy Linh Võ làm căn cứ địa, chỉnh đốn quân đội, chủ động bố trí, tích cực chuẩn bị. Ông đã tiếp thu nhiều sáng kiến, thu thập binh lính đang trấn giữ ở Hà Bắc lại, trọng dụng những danh tướng như Quách Tử Nghi... lần lượt vào tháng 6 và tháng 10 năm 757 sau Công nguyên thu hồi lại Tây Kinh Trường An và Đông Kinh Lạc Dương, mời thái thượng hoàng (tức Đường Huyền Tông) Lý Long Cơ từ Tây Thục trở về cung điện của mình.
Nhà Đường đã chiến đấu giành lại hai kinh dưới thế tấn công hùng hổ của An Lộc Sơn, và cuối cùng đã dẹp được An - Sử chi loạn do nhờ điểm mấu chốt "Linh Võ chinh quân" của Đường Túc Tông.
Đường Huyền Tông tả tơi thảm hại đi về phía tây là sự chạy trốn tiêu cực, một cách làm bị động rất không đáng có. Vả lại tự nói rằng mình đã mất quyền phản kích, chống cự sẽ có thể mang đến một tai họa lớn chưa từng có: Đế quốc đại Đường biến thành một bãi chiến trường với những cuộc hỗn chiến quân phiệt, với sự hoành hành của các kỵ binh dân tộc thiểu số. Còn nói về số phận của cả nhà Đường Huyền Tông, nếu An Lộc Sơn thừa thắng truy kích thì bọn Đường Huyền Tông tướng thì mất hết ý chí chiến đấu, lính thì mất hết sĩ khí chỉ có thể bó tay chịu bắt, chết không có chỗ chôn thân.
Dân chúng Mã Nguy và hội Kiến Ninh Vương Lý Đàm hết lời khuyên thái tử ở lại để ổn định lòng dân, tích cực tiến thủ, chủ động nỗ lực phản kích phiến quân, đây có thể coi là hành động sáng suốt nhất trong tình thế nguy hiểm lúc bấy giờ. Sau khi thái tử nhận thức được điều này đã kiên quyết xưng tôn, chỉnh quân ở Linh Võ, nhờ vậy mà đã sửa lại được lịch sử bất hạnh có thể xảy ra.
Khi bàn về mưu trí, nói trên nghĩa rộng thì có nghĩa là nghĩ ra hoặc lựa chọn một cách làm hợp lý nhất trong số các phương án. Nghĩ hoặc chọn ra được một phương pháp nhất định nào đó được coi là có mưu trí, bởi vì nếu theo tiêu chuẩn về tình cảm nguyện vọng của những người bình thường thì những phương pháp này luôn bị coi nhẹ hoặc bỏ qua. Nói như vậy vì khi người ta gặp phải những tình cảnh quẫn bách không có lợi cho mình như khó khăn, thất bại hoặc nguy hiểm thì họ thường dùng những cách làm tiêu cực như trốn đi hoặc phóng túng một cách bị động, tự mình bỏ đi những cơ hội để có thể thoát khỏi khó khăn, từ đó dẫn đến chẳng làm được gì hoặc trong những lúc cùng đường không xuất đầu lộ diện nữa, vĩnh viễn không cựa mình được nữa. Ngược lại cách "chỉnh quân Linh Võ” , như vậy của Đường Túc Tông dám "tích cực cố gắng, chủ động tiến thủ” là kế đầu tiên trong hoàn cảnh khó khăn. Trong cạnh tranh thương mại lại càng hay gặp phải hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm và chỉ có áp dụng mưu kế "tích cực cố gắng, chủ động tiến thủ” , dám đứng lên chống lại trong tình thế đường cùng thì mới có khả năng thoát khỏi khó khăn, chuyển hóa sự nguy hiểm thành sự yên ổn.
Công ty Alan là một doanh nghiệp kinh doanh các linh kiện điện tử ở Mỹ, năm 1979 công ty đứng ở vị trí thứ hai trên toàn thị trường Mỹ. Song ở đời bao giờ cũng có bão tố, bất trắc. Vào một ngày tháng 12 năm 1980, công ty tổ chức một hội nghị các nhân viên chủ quản ở một nhà hàng thì bỗng nhiên nhà hàng đó bốc cháy. 13 vị nhân viên chủ quản cao cấp bao gồm cả chủ tịch hội đồng quản trị Klin, phó giám đốc điều hành Hoopkin đều bị chết trong vụ hỏa hoạn, chỉ có một phó giám đốc điều hành khác may mắn thoát nạn. Người may mắn thoát chết nói một cách thương tâm: "Vụ hỏa hoạn đó đồng nghĩa với việc cả công ty bị xử tử".
Hôm sau, cổ phiếu của công ty mất giá 19%, chỉ trong vòng có mấy ngày lại liên tục giảm xuống mấy lần, lòng tin của mọi người đối với công ty giảm sút nghiêm trọng. Các đối thủ cạnh tranh vui mừng trên nỗi đau khổ của người khác, mắt nhìn thèm thuồng như hổ đói, chỉ chực thôn tính doanh nghiệp đang phải đối mặt với tai họa khôn lường. Trong nội bộ công ty không ngừng truyền đi những tin đồn thất thiệt, một bầu không khí căng thẳng bao trùm cả công ty. Mấy năm trở lại đây sức ngưng tụ được hình thành nhờ việc kinh doanh phát triển nhanh chóng của công ty nay đột nhiên tan rã, mọi người từ cấp trên đến cấp dưới trong công ty đều cảm thấy rất nguy cấp thậm chí có số người còn bức thiết xin được từ chức để chuyển sang công ty khác.
Tai họa bất ngờ đó đã khiến nhà cung cấp nguyên liệu cho công ty Alan, họ tỏ ra rất lo lắng về tiền đồ của công ty, thậm chí còn nghi ngờ công ty có thể không tồn tại tiếp được nữa và họ không chịu mạo hiểm, dứt khoát ngừng quan hệ buôn bán lại.
Trong lúc nguy nan, việc làm hay không làm điều liên quan trực tiếp đến vận mệnh tương lai của công ty. Hội đồng quản trị quyết định “tích cực cố gắng, chủ động tiến thủ” , khắc phục khó khăn.
Trước tiên công ty trả một khoản tiền trợ cấp tương đối lớn cho vợ, chồng và người thân của những người tử nạn. Tiền trợ cấp và tiền bảo hiểm tổng cộng bằng năm lần lương năm của mỗi người trong số họ lúc còn sống, mọi người đều biết rằng công ty đã dốc hết toàn lực nên cũng không tìm thêm cớ để gây chuyện nữa.
Tiếp đó, công ty chủ động điều tra tìm hiểu rõ nguyên nhân hỏa hoạn là do đường ống dẫn ga bị rò rỉ gây ra chứ không phải do những đối thủ cạnh tranh châm lửa. Như vậy là đã xóa đi được tâm lý lo sợ của nhân viên, ổn định tư tưởng của mọi người. Ngoài ra, công ty còn áp dụng tích cực các biện pháp bảo đảm cho mọi cơ cấu hoạt động bình thường, cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của ngân hàng và phía nhà cung cấp nguyên liệu. Chủ động hỏi thăm công chúng có quan hệ mật thiết với công ty, tuyên truyền tư tưởng tiến thủ trước sau như một của công ty.
Công ty Alan đã cải tử hoàn sinh từ trong tai họa lúc đầu đó khôi phục được sản xuất bình thường. Doanh thu của công ty trong năm 1993 đã tăng lên 567 triệu đô la, tăng 6 % so với trước khi gặp tai họa. Đồng thời giá cổ phiếu của công ty đã đạt mức cao nhất. Ngoài ra công ty còn chiêu mộ thêm nhân tài không ngừng khai thác chí tiến thủ, không bao lâu sau đã đưa vào thị trường Los Angeles hệ thống máy vi tính nhỏ, mua lại một công ty của Cananda, đồng thời tiến quân vào thị trường châu âu với một hoài bão lớn.
Không nói cũng biết, nếu lúc đó công ty không dùng kế “tích cực cố gắng, chủ động tiến thủ” mà lại dùng những cách tiêu cực cho rằng thất bại không gượng dậy được thì công ty đã không còn tồn tại từ lâu rồi.
 
Chương 57
Nghĩ đến tương lai, cố gắng tránh hậu họa


Kiến Ninh Vương Lý Đàm là con trai thứ ba của Đường Túc Tông. Tính tình của ông oai hùng, quyết đoán, có tài trí mưu lược kiệt xuất. Trong cuộc biến loạn An Sử, ông đã cùng với ông nội Đường Huyền Tông đi từ trạm dịch Mã Ngôi (Thiểm Tây, Hưng Bình Tây ngày nay) đến Bắc Triều Linh Võ (Linh Võ Ninh Hạ ngày nay), binh ít thế yếu, trên đường đi nhiều lần chạm trán quân địch, Lý Đàm luôn tự mình chọn những binh sĩ dũng mãnh, bảo vệ Đường Huyền Tông cả phía trước và sau, chiến đấu với kẻ địch. Vì thế các tướng sĩ rất kính phục ông. Đường Túc Tông lúc đó vẫn còn là thái tử từng bị dân chúng địa phương níu giữ, và cũng chính Lý Đàm đã đứng ra khuyên thái tử nên ở lại để tổ chức binh mã phản kích quân phiến loạn An Lộc Sơn, nếu không thì tất cả nhà Lý đều đã trốn cùng Đường Huyền Tông đến Tứ Xuyên và cũng đồng nghĩa với việc trao cả thiên hạ Trung Nguyên vào tay phiến quân, có muốn khôi phục lại thì cũng không thể được nữa rồi. Đường Túc Tông thấy ông nói có lý nên đồng ý ở lại, đồng thời cũng nhìn ra Lý Đàm là người có chí lớn nên đã gửi gắm mọi hy vọng khôi phục Đường thất vào ông.
Sau khi Đường Túc Tông kế vị ở Linh Võ, liền quyết định tổ chức phản kích ngay. Đường Túc Tông cũng chuẩn bị phong cho Lý Đàm làm Nguyên soái binh mã thiên hạ, thống soái quân lính các lộ tiến về chinh phạt phía đông. Lúc đó bạn cũ của Đường Túc Tông là Lý Tất vừa được triệu đến đã tỏ ra không đồng ý. Lý Tất nói với Đường Túc Tông: "Kiến Ninh Vương quả thực là một người tài, thừa sức đảm nhận chức thiên hạ binh mã nguyên soái. Nhưng Quảng Bình Vương Lý Thích là huynh trưởng của ông ta, do đó chức nguyên soái chỉ có thể do Quảng Bình Vương đảm nhiệm. Nếu không khi Kiến Ninh Vương công thành danh toại, Quảng Bình Vương há chẳng phải là Ngô Thái Bá của thời Xuân Thu sao?" (Ngô Thái Bá là con trai trưởng của Chu Thái Vương. Vì Chu Thái Vương có ý nhường ngôi cho em trai nên Ngô Thái Bá đã lặng lẽ rời khỏi quê hương đến một nơi riêng tự lập ra quốc gia của mình).
Đường Túc Tông nói: "Quảng Bình Vương là con trai trưởng nên việc kế vị ngai vàng là đương nhiên. Hà tất phải xem trọng chức binh mã nguyên soái đến vậy? Trước mắt việc phản kích phiến quân lại rất cần một viên thống soái giỏi như Kiến Ninh Vương!".
Lý Tất lại nói "Quảng Bình Vương vẫn chưa chính thức được lập làm Đông cung thái tử, bây giờ là thời buổi chiến tranh, thiên hạ gặp nhiều khó khăn, lòng dân đều hướng về binh mã nguyên soái. Nếu như Kiến Ninh Vương có công lớn đánh thắng giặc dù bệ hạ không muốn lập làm thái tử thì các tướng sĩ đã lập công cùng ông ta cũng sẽ buộc phải chọn ông ta làm thái tử. Và như vậy là chuyện cũ của thái thượng hoàng Đường Thái Tông trước đây sẽ lặp lại!". (Đường Thái Tông Lý Thế Dân trong cuộc chiến tranh sáng lập nhà Đường là người có công rất lớn, anh trai ông ta Lý Kiến Thành tuy là thái tử nhưng vẫn sợ ông ta có công lớn sẽ đoạt mất ngôi nên đã liên kết với em trai thứ ba Lý Nguyên Cát định mưu sát Lý Thế Dân. Tháng 6 năm 626 sau Công nguyên, Lý Thế Dân đã hành động trước để kiềm chế đối phương, phát động "Huyền Võ Môn sự biến", một cuộc tàn sát giữa anh em với nhau, giết chết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đoạt ngôi vị thái tử và không lâu sau lên ngôi hoàng đế).
Đường Túc Tông gật đầu: "Những lời tiên sinh nói quả đúng, trẫm đang nghĩ cách khác". Hôm sau đã có chiếu thư phong Quảng Bình Vương làm thiên hạ binh mã nguyên soái, thống soái các tướng lĩnh chuẩn bị Đông chinh.
Để tránh cuộc tàn sát giữa anh em với nhau, tránh hậu quả biến động cục diện chính trị, Đường Túc Tông đã nghe theo kế sách cua Lý Tất, bỏ qua phương án điều phối nhân sự phù hợp nhất lúc bấy giờ để chuyển sang dùng Quảng Bình Vương làm binh mã nguyên soái là một hành động rất sáng suốt. Nghĩ đến sự hoàn mỹ là điều mà mọi người đều muốn, theo đuổi thành công và lợi ích là điều mà mọi người luôn hướng tới, người ta luôn căn cứ vào hoàn cảnh đương thời để tìm ra phương án thành công hoàn hảo. Song thế sự biến đổi không ngừng, con đường dẫn đến thành công luôn gập ghềnh, phức tạp, sự “hoàn mỹ" lúc này, sự "thành công" nhất thời không thể thay thế sự "hoàn mỹ" trong tương lai, "thành công" cuối cùng. Vì thế rất nhiều người không hề biết rằng mình sẽ rơi vào vũng bùn của việc chỉ lo việc này mà để lỡ việc kia, tham bát bỏ mâm hoặc chỉ cầu lợi ích trước mắt. Do đó, khi nghĩ đến bất kỳ một phương án nào cũng đều phải ghi nhớ kế "Nghĩ đến tương lai để tránh hậu họa", vì sự thành công đại cục trong tương lai mà có thể bỏ qua cái lợi trước mắt hoặc những nhu cầu nhất thời.
Trong kinh doanh thương mại cũng rất hay cần phải nghĩ ra những phương án và kế "Nghĩ đến tương lai để tránh hậu họa" rất thích hợp.
Năm 1935, công ty Sony Nhật Bản thử nghiệm chế tạo thành công chiếc radio tinh thể đời đầu. Loại radio này thể tích tuy nhỏ nhưng nếu so sánh với chiếc radio ống dẫn chân không thô nặng cũ rất thông dụng trong xã hội thì tính năng của nó đã được nâng cao và lại rất thực dụng. Nhật Bản là một nước có ít tài nguyên, mà dung lượng thị trường cũng không lớn nên sản phẩm chỉ có xuất khẩu mới có thể làm được điều đó. Người sáng lập ra công ty, ông Shetichefu quyết định tấn công vào thị trường Mỹ trước. Thông qua công tác khuyến mãi gian nan, các đơn đặt hàng sản phẩm mới đã dần dần tăng lên.
Điều làm mọi người vô cùng ngạc nhiên và vui mừng là có một hôm bỗng xuất hiện một vị khách hàng muốn đặt một lần 10 vạn chiếc radio ống tinh thể. 10 vạn vào thời điểm lúc bấy giờ gần giống với con số thiên văn. Lợi nhuận của đơn đặt hàng 10 vạn chiếc đó có thể đủ để duy trì hoạt động sản xuất bình thường của công ty Sony trong vài năm. Tất cả cán bộ công nhân viên công ty không ai là không phấn khởi cổ vũ, hy vọng ký hợp đồng một cách nhanh chóng, có ưu đãi đối với vị khách hàng này.
Không ngờ ban lãnh đạo công ty đột nhiên tuyên bố một “đường cong" giá cả kỳ dị gần như là từ chối đơn đặt hàng lớn của khách hàng này Người nào đặt 5000 chiếc thì vẫn giữ nguyên giá cũ, người nào đặt 1 vạn chiếc thì giá thấp nhất, còn ai đặt trên 1 vạn chiếc thì giá sẽ dần dần tăng lên, nếu đặt 10 vạn chiếc thì sẽ ký hợp đồng với người nào mua được với cái giá mà sẽ bị phá sản.
Các "đường cong" giá cả kỳ lạ như vậy làm cho nhân viên công ty và cả vị khách đó không tài nào hiểu nổi. Vì theo quy luật thông thường thì đặt càng nhiều hàng thì giá càng giảm.
Nguyên nhân gì đây? Sau này Shetichefu mới nói cho các cán bộ cao cấp của công ty biết kế "nghĩ đến tương lai để tránh hậu họa" của ông: lúc bấy giờ, sản lượng hàng năm của công ty Sony còn lâu mới đạt đến con số 10 vạn chiếc đó. Nếu nhận đơn đặt hàng này thì quy mô sản xuất chắc chắn phải mở rộng gấp nhiều lần. Nhưng nếu sau khi công ty đầu tư tiền mở rộng quy mô sản xuất mà lại không có những đơn đặt hàng với số lượng lớn đến một cách bất ngờ như vậy thì kết cục chỉ có thể làm cho công ty vừa mới bắt đầu phát triển đã ngay lập tức phá sản. Đặt hàng càng nhiều thì đơn giá càng thấp, trong những trường hợp bình thường mà nói thì đó là phương án thành công hoàn hảo. Nếu theo phương án này ký hợp đồng 10 vạn chiếc thì cũng đủ để công ty Sony bước một bước tiến dài trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng nếu nhìn từ góc độ phát triển lâu dài trong tương lai của doanh nghiệp, chỉ vì đầu tư mở rộng quy mô sản xuất một cách mù quáng thì nguy cơ mất ổn định sản xuất, lúc lên lúc xuống, thậm chí là cả hậu họa phá sản cũng đã tiềm ẩn trong đó. Cái "đường cong " giá cả mà công ty đề ra chỉ là để dẫn dắt khách đặt hàng chấp nhận số lượng đặt hàng 1 vạn chiếc có lợi cho cả hai bên. Để tránh cái hậu họa sau này, cái mà trong mắt công ty cần là những khách hàng đặt khoảng 1 vạn chiếc.
 
Chương 58
Đăng môn hạm” từng bước tiếp cận


Nhà tâm lý học nổi tiếng Fuliderman đã từng tiến hành một thực nghiệm thú vị: lấy danh nghĩa của ủy ban lái xe an toàn đề nghị các bà chủ gia đình dựng một tấm biển có dòng chữ "lái xe cẩn thận" trước sân nhà mình. Tấm biển không được đẹp lắm để họ tiếp nhận rằng có một độ khó nhất định. Mục đích của cuộc thực nghiệm là để kiểm nghiệm xem dùng cách nào thì càng khiến cho họ chịu nhận lời một cách thuận lợi.
Người tiến hành thực nghiệm đã dùng hai biện pháp. Một biện pháp là trực tiếp đề nghị dựng biển, kết quả là chỉ có 7% các bà chủ gia đình tiếp nhận đề nghị. Cách thứ hai là phân ra làm hai bước, đầu tiên là yêu cầu các bà chủ ký tên lên "thư yêu cầu lập pháp để khuyến khích lái xe an toàn". Đây chỉ là một yêu cầu đơn giản, người được phỏng vấn hầu như đều đồng ý ký tên. Tiếp đó mới đưa ra đề nghị dựng biển. Vì các bà chủ đã tiếp nhận yêu cầu thứ nhất có liên quan tới nó nên kết quả là 55% bà chủ đồng ý với đề nghị của bước tiếp theo. Hiệu quả từ đầu đến cuối của hai phương thức này lại có sự khác biệt đến hơn ba lần.
Kết quả thực nghiệm cho thấy: sau khi nghĩ ra đề nghị tương đối nhỏ để đối thủ tiếp nhận thì mới đưa ra đề nghị tương đối lớn sẽ làm cho đối thủ tiếp nhận một cách dễ dàng, thuận lợi. Nhà tâm lý học gọi phương pháp tăng dần yêu cầu từ nhỏ đến lớn là thuật "Đăng môn hạm" (đến bậc cửa nhà). Cái kế "Đăng môn hạm" từng bước tiếp cận, áp sát mà chúng ta nói ở đây cũng tức là mưu kế tăng dần yêu cầu từ nhỏ đến lớn để buộc đối thủ cuối cùng phải tiếp nhận yêu cầu cao nhất. Mưu kế này không chỉ được Đường Túc Tông dùng từ lâu để chiêu mộ nhân tài mà trong kinh doanh thương mại cũng được sử dụng rộng rãi trong quá trình tiêu thụ, đàm phán...
Năm 756 sau Công nguyên, thái tử Lý Hưởng cùng với Đường Huyền Tông chạy trốn đến gần Linh Võ để tránh cuộc truy sát của An Lộc Sơn thì nhận được lời yêu cầu của Kiến Ninh Vương và dân chúng địa phương nên Lý Hưởng đã ở lại chuẩn bị tổ chức quân đội để phản kích lại An Lộc Sơn. Sau khi xưng tôn đăng cơ ở Linh Võ, Đường Túc Tông đã nghĩ đến "Người làm việc lớn phải lấy nhân làm gốc" nên rất muốn chiêu mộ một mưu lược gia có tài mưu lược để tham mưu chủ trì việc đại sự. Tự nhiên ông nghĩ đến người bạn cũ Lý Tất. Lý Tất là người sẵn mang trong mình hoài bão, có tài trị quốc an bang, nhưng lại là người không màng danh lợi, chỉ sống một cuộc sống ẩn cư điềm tĩnh, đạm bạc, muốn ông ta ra triều làm quan khó như lên trời. Trước đây vào thời kỳ thái bình, Lý Hưởng lúc đó là thái tử đã nhiều lần đưa ra lời thỉnh cầu này nhưng lần nào cũng bị Lý Tất từ chối thẳng thừng.
Bây giờ đã là giai đoạn đặc biệt, Đường Túc Tông thấy rằng không thể không có sự phò tá của Lý Tất. Vì thế đã cố gắng để thực hiện mưu kế "đăng môn hạm" dần dần tiếp cận của mình.
Đường Túc Tông sai người mời Lý Tất đến nhưng không nói là để làm quan mà chỉ là gặp mặt nói về kỷ niệm cũ. Lý Tất đương nhiên đến theo lời triệu. Sau khi gặp Lý Tất, Đường Túc Tông ngay lập tức muốn Lý Tất làm Tể tướng. Lý Tất vội vàng từ chối rằng: "Bệ hạ đã hạ mình tiếp đón thần, xem thần như bạn hữu, như vậy trên thực tế đã hiển quý hơn cả Tể tướng nhiều. Thần ở bên cạnh bệ hạ mấy ngày qua, có ý kiến gì thì đều đã nói với bệ hạ rồi, hà tất còn phải trao chức quan làm gì?". Đường Túc Tông nghe xong giả vờ như không còn cách nào nữa nhưng thực ra trong lòng lại rất vui mừng. Lý Tất đã đồng ý đề nghị xuống núi gặp mặt lại đồng ý luôn cả đề nghị tham mưu chuyện quân quốc đại sự. Từ đó về sau, Đường Túc Tông đối đãi với Lý Tất rất trọng hậu, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nằm chung giường, có việc gì đều thỉnh giáo, nghe theo mọi lời khuyên của Lý Tất. Trong thời gian đó, Lý Tất còn giúp Đường Túc Tông khởi thảo các chiếu thư để ban bố khắp nơi, thậm chí đưa ra những ý kiến độc đáo của mình về những chuyện đại sự như việc lập ai làm thiên hạ binh mã nguyên soái, giải quyết mối quan hệ giữa con trưởng, con thứ của Đường Túc Tông và Đường Túc Tông đều nhất nhất vui vẻ nghe theo.
Đương nhiên yêu cầu cuối cùng của Đường Túc Tông là hy vọng Lý Tất đường đường chính chính mặc lên người bộ quan phục danh chính ngôn thuận làm hạ thần của mình, bảo đảm là đại mưu lược gia này mãi mãi hầu hạ bên cạnh mình. Do đó ông tiếp tục "đăng môn hạm".
Không lâu sau, theo ý kiến của Lý Tất, Đường Túc Tông hạ chiếu phong con trưởng Quảng Bình Vương làm thiên hạ binh mã nguyên soái, thống soái các tướng Đông chinh An Lộc Sơn. Lý Thích vâng mệnh nhưng thỉnh cầu xin cho một mưu thần. Đường Túc Tông hiểu rõ rằng, vị đại mưu thần có liên quan đến sự hưng vong của đất nước này không thể là ai khác ngoài Lý Tất. Vì thế Đường Túc Tông đã cố ý nói với Lý Tất: "Tiên sinh mặc áo trắng phụng sự trẫm, chi tiết cao siêu, trẫm vô cùng khâm phục. Nhưng mấy hôm trước khi tiên sinh cùng trẫm đi kiểm duyệt quân đội, đã có quân sĩ thì thào với nhau rằng hoàng bào là thánh nhân, bạch y là người trên núi, sao lại đi cùng nhau? Ta muốn có tiên quyết định các mưu sách nhưng cũng không thể để cho quân sĩ nảy sinh mối hoài nghi. Hay là mời tiên sinh cố gắng tạm mặc áo tím (quan phục từ hàng ngũ phẩm trở lên là màu tím) để mọi người đỡ trách cứ?". Lý Tất cũng nghĩ rằng mình mặc thường phục đứng lẫn vào hàng quân nhân mũ mão chỉnh tề và các quan trong triều cũng khiến người khác để ý, chi bằng mặc bộ triều phục để tránh sự chú ý của mọi người nên đã đồng ý với đề nghị của Đường Túc Tông. Đường Túc Tông vội sai người ban cho bộ quan phục màu tím vàng cao cấp nhất. Lý Tất mặc xong quan phục lại đến gặp Đường Túc Tông. Không ngờ Đường Túc Tông lại tiếp tục đưa ra yêu cầu khác cao hơn, cười nói với Lý Tất: "Chả lẽ đã mặc quan phục rồi mà lại không có chức quan gì sao . ". Nói xong liền đưa cho Lý Tất một bản sắc chỉ. Lý Tất vừa xem xong thấy mình đã được phong chức "Quân quốc nguyên soái phủ hành quân trường sứ, Trên sắc chỉ có đóng dấu ấn trấn quốc, nếu muốn kháng chỉ từ chối thì hiển nhiên là đã bất chấp tình cảm rồi. Hơn nữa tự mình lại tình nguyện mặc quan phục thì còn ngại gì việc thêm một cái tên chính thức nữa?
Từ đó Lý Tất đã là quan trong triều, giúp đưa ra các kế sách dẹp loạn An - Sử. Trên chính đàn, Đường Túc Tông quả không hổ là bậc cao thủ của “đăng môn hạm". Trong lĩnh vực trả giá, mặc cả cũng có một cặp vợ chồng cao minh giống như Đường Túc Tông.
Có một cửa hàng bán lẻ đang bán các loại tổ hợp âm hưởng, một đôi bạn trẻ vì muốn đám cưới của mình được toàn vẹn nên rất thích loại tổ hợp âm hưởng giá 5300 tệ đó và sau khi nghe nhân viên bán hàng giới thiệu tỉ mỉ, họ quyết định sẽ mua nó . Nhưng họ muốn mua với giá rẻ hơn, với điều kiện ưu đãi. Mục tiêu của họ là: Thứ nhất giá bán 5300 tệ đó phải giảm xuống theo dự toán của họ là 5000 tệ, Thứ hai, các đồ điện gia dụng trong quá trình sử dụng rất dễ xảy ra sự cố, tuy thời hạn bảo hành là ba tháng nhưng việc sửa chữa không phải là điều dễ dàng gì, do đó cần phải đạt được quyền lợi là có thể đổi lại; Thứ ba là loại hàng mà cửa hàng bán lẻ đó bán là các linh kiện rời, sẽ rất mất công khi phải lắp đặt nên phải làm sao để họ phục vụ tại nhà, và cuối cùng cửa hàng đó cách nhà họ một đoạn, cô gái đã trang điểm đẹp đẽ như vậy thì sao có thể ra đường với một bộ dạng tả tơi mồ hôi đầm đìa được, thế cho nên phải làm thế nào để cửa hàng cho người đưa đến tận nhà.
Với những điều kiện vừa nhiều vừa ngặt nghèo như vậy thì người kinh doanh có thể đáp ứng không? Hãy xem hiệu quả của "đăng môn hạm".
Đôi bạn trẻ đó trước tiên đưa ra lời đề nghị nhỏ nhất, phù hợp nhất với người bán hàng với một ngữ điệu rất khách khí: “Anh bán hàng ơi, nhà chúng tôi cách đây khá xa, trước khi mua lại chưa chuẩn bị gì mà cái hộp to như thế thì chúng tôi chẳng có cách nào vác về được". Người bán hàng nghe khách nói có tình có lý lại thấy nhân viên vận chuyển cũng đang rỗi nên đồng ý ngay với yêu cầu đưa hàng đến tận nhà.
Đôi bạn lại nhăn mặt nhăn mày nói. "Loại máy này chuyển về nhà lẻ tẻ như vậy mà chúng tôi lại không biết cách lắp ráp, đến lúc đó làm không được, không có tiếng hoặc cháy một cái thì làm thế nào?". Người bán hàng biết rằng hai người khách muốn nhân viên cửa hàng lắp ráp miễn phí cho họ, nhưng nghĩ đến việc đã nhận lời để nhân viên vận chuyển đưa đến nhà thì còn ngại gì mà không để nhân viên của mình tiện thể giúp họ lắp ráp? Thế nên đương nhiên là anh ta đồng ý.
Không ngờ yêu cầu của họ vẫn chưa hết, họ nói rằng kiến thức của họ về mặt hàng này rất ít, không biết chất lượng của nó có đáng tin cậy không, Tuy thời gian bảo hành là ba tháng nhưng chẳng may vào đêm động phòng hoa chúc lại trở thành vật để trưng bày hoặc phải đưa đến cửa hàng sửa chữa thì mất đi ý nghĩa của món quà cưới này, nếu có thể hỏng lúc nào đổi lúc đó thì tốt biết mấy. Người bán hàng đã "khai ân" đặc biệt đáp ứng hai yêu cầu rồi, mà đã là "người tốt" thì tốt đến cùng, để giữ lại cái mơ ước có được một cái đám cưới trọn vẹn nên đã đồng ý ngay: trong vòng ba tháng có thể đổi lại, thời gian bảo hành kéo dài một năm.
Đôi bạn đã tiếp cận thành công một cách rất linh hoạt, bây giờ họ mới đưa ra yêu cầu cuối cùng cũng là yêu cầu cao nhất. Họ nói rằng, cửa hàng lo cái mà khách lo, nghĩ đến cái mà khách muốn, đã cho họ rất nhiều ưu đãi, quả là họ đã rất cảm động. Vì thế họ quyết định mua một chiếc và muốn bày tỏ sự cảm ơn đối với người bán hàng. Chỉ có điều cái giá 5300 tệ đã vượt quá khả năng chi trả và phạm vi dự định của họ. Nếu cửa hàng có thể cho họ thêm một ưu đãi nữa, bán với giá 5000 tệ thì họ có thể trả tiền ngay. Người bán hàng cuối cùng mới thấy rằng họ là một đôi khách thú vị có "lòng tham vô đáy" nhưng đã đáp ứng các yêu cầu vận chuyển, lắp ráp, bảo hành rồi lại thấy họ cũng thật sự có ý mua nên đi xin ý kiến của giám đốc bán hàng xem liệu có thể giảm xuống 5000 tệ không. Mấy phút sau, người bán hàng trở lại, nói một cách bí hiểm: nếu không đưa ra bất cứ yêu cầu nào nữa thì sẽ đồng ý bán với giá 5000 tệ.
Đôi bạn đó nhìn nhau cười, nhanh chóng viết hóa đơn lấy hàng. Họ đã dùng kế "đăng môn hạm" tiếp cận từng bước để mua chiếc máy như ý lại được thêm những điều kiện ưu đãi.
 
 
Chương 59
Hình nhân thay lính, lính giả hình nhân


Sau khi An Lộc Sơn công chiếm Tràng An, để chặn đường tiếp lương của nhà Đường từ khu vực Giang Chuẩn nên đã phái một đạo quân lớn thẳng tiến về phía Giáng Hoài. Quan thái thú Tiêu Quận (nay là huyện An Huy Hào) là Dương Vạn Thạch nghe tin vội đầu hàng ngay, lại còn uy hiếp buộc huyện lệnh Trương Tuần là Trường Sử đến Hà Nam đón phiến quân.
Sau khi Trương Tuần đến Chân Nguyên đã giương cờ nghĩa quyết không hàng ở miếu của Huyền Nguyên hoàng đế, tập hợp hơn một vạn nghĩa sĩ Tây hành về Ung Khâu (Kỷ huyện, tỉnh Hà Nam ngày nay). Ung Khâu lệnh Lệnh Cô Triều cũng đã đầu hàng An Lộc Sơn, lúc đó ông ta đang ra ngoài thành đón phiến quân, Trương Tuần lợi dụng sơ hở đó tiến vào chiếm cứ thành trì.
Lệnh Cô Triều sau khi được An Lộc Sơn ban thưởng trở về thấy thành trì đã bị Trương Tuần chiếm hữu, vội vàng dẫn 4 vạn phiến quân, bao vây chặt Ung Khâu, lập một tờ quân lệnh muốn giành lại Ung Khâu ở chỗ An Lộc Sơn.
Trương Tuần trí dũng hơn người, thường xuyên cô quân xuất chiến, lần lượt đánh lui được những cuộc tấn công điên cuồng của quân địch. Nhưng thành nhỏ binh ít, trang bị vừa kém vừa thiếu, sau khi đánh trả cuộc tiến công thì ngay cả một mũi tên trong thành cũng không tìm thấy. Họ phải dựa vào số người chỉ có hàng ngàn để chống cự lại hàng vạn quân địch được trang bị đầy đủ với một chỗ dựa duy nhất là một thành trì đã đổ nát. Nhưng nếu quân địch xông đến dưới chân tường thành mà ngay cả một mũi tên để bắn lại cũng không có thì việc thành vỡ người chết là điều không tránh khỏi.
Trương Tuần hiểu rằng: phải nghĩ cách để làm được mũi tên. Nhưng ở trong cái thành bị cô lập, bị quân địch vây chặt như vậy thì làm mũi tên ở đâu ra? Trong lòng Trương Tuần lo lắng hơn ai hết nhưng ông không thể hiện ra ngoài mà chỉ lo tìm diệu kế. Chẳng bao lâu ông đã tìm ra cách. Trương Tuần ra lệnh bó hơn một vạn hình nhân lớn bằng người thật, sau đó mặc quần áo màu đen cho chúng.
Mặt trời lặn, không có ánh trăng, khắp nơi một màu đen kịt. Lệnh Cô Triều thừa biết sự lợi hại của Trương Tuần nên khi đêm tối mù mịt càng lo sợ Trương Tuần cùng bộ hạ đột kích mạnh mẽ. Vì thế mà ông ta không hề lơ là cảnh giới, ngược lại thần kinh còn hết sức căng thẳng và hạ lệnh cho binh sĩ tuần tra đều phải mở to mắt, nghiêm ngặt giám sát mọi động tĩnh trong thành để tránh việc binh lính không đề phòng thì dễ dẫn đến việc Trương Tuần lợi dụng sơ hở.
Lệnh Cô Triều đã có lệnh như vậy nên binh sĩ đương nhiên không dám làm qua loa, bất kỳ là có một chút động tĩnh gì cũng không bỏ qua.
Lúc đó, một tên lính mắt tinh bỗng thấy có một số bóng đen nhảy từ trên thành xuống, rõ ràng là có người thả xuống!
Rồi lại thêm một người, lại thêm cả một nhóm!...
Lính tuần tra đồng thanh hét lên: quân Đường xuống thành xuất kích rồi!
Lệnh Cô Triều vội vàng chạy ra quan sát quả nhiên thấy trên tường thành rất đông binh sĩ mặc áo đen nhảy xuống. Ông ta không kìm được máu nóng lớn tiếng gọi. "Điều tất cả các cung thủ đến đây! Phải bắn chết tất cả lính nhà Đường trên tường thành!".
Mũi tên bay như mưa!...
Lệnh Cô Triều biết rằng, nếu để quân Đường lợi dụng đêm tối xung kích doanh trại của mình thì với những kẻ không màng đến chuyện sống chết đó khác nào một chọi trăm, chỉ trong một đêm có thể thể hủy cả vòng vây mà ông đã phải rất vất vả để dựng lên. Và biện pháp duy nhất là dùng tên để chặn chúng lại ở ngoài cự ly đánh giáp lá cà.
Lệnh Cô Triều là người có đủ thông minh, nhưng Trương Tuần còn thông minh hơn. Hoá ra "đám lính” dày đặc trèo trên tường thành không phải là người thật, chỉ có điều trong bóng đêm nhìn giống người thật chứ thực ra đều là "hình nhân".
Sau một trận cung tên bắn như mưa đó, mỗi hình nhân trở thành một "con nhím". Các thuộc hạ của Trương Tuần kéo hơn một vạn "con nhím" đó về trong tiếng hoan hô, tính sơ sơ đã lấy được từ tay giặc hàng trăm ngàn mũi tên cứng thẳng. Số mũi tên này đủ để chặn giết mấy chục lần công thành của quân địch.
Một buổi tối mấy ngày hôm sau, Lệnh Cô Triều vẫn còn đang chìm trong sự câm lặng của nỗi nhục nhã thì lính tuần tra lại thấy quân Đường đang trèo xuống trên bức tường. Lính tuần nghĩ rằng số tên đó có lẽ Trương Tuần đã dùng hết rồi nên lại diễn trò hình nhân mượn tên. Tuy trong lòng nghĩ như vậy nhưng vì vẫn phải tính tới tình hình quân đội nên vẫn lật đật chạy vào báo cáo cấp trên, cấp trên lại chuyển báo cáo đó cho Lệnh Cô Triều.
Lệnh Cô Triều lúc đó tỏ ra hết sức bình tĩnh, trong lòng dậy lên ý nghĩ khoan khoái: lần trước đã mắc lừa một trần, lần này lại diễn lại trò cũ, một mũi tên ta cũng không bắn xem Trương Tuần làm thế nào được!
Lệnh Cô Triều từ từ bước ra khỏi lều trại muốn xem đám hình nhân trên tường.
Hơn 500 hình nhân đã lần lượt trèo từ trên tường thành xuống. Bỗng có một tiếng thét làm kinh thiên động đỉa: "Bắt sống Lệnh Cô Triều!".
Hơn 500 hình nhân đó hóa ra là hơn 500 binh sĩ cảm tử mà Trương Tuần đã chọn, chỉ đợi sau khi tất cả đã chạm đất, hét lên một tiếng điên cuồng thì tất cả xông lên như mãnh hổ xuống núi, tức khắc tiến về doanh trại của Lệnh Cô Triều. Nhân lúc sơ hở, đánh úp bất ngờ nên hơn 500 cảm tử quân như thuồng luồng quẫy biển, thả sức giết quân địch trong trận hỗn chiến đó, làm cho chúng tan tác khắp nơi.
Lần này Lệnh Cô Triều thua thảm hại hơn. Người chết và bị thương vô số, phần lớn lều trại bị đốt, vòng vây bị phá vỡ.
Trương Tuần càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh. Sau đó ông cho chuyển quân đến Tùy Dương (Nam Thương Khâu Hà Nam ngày nay), cùng với quan thái thú Tùy Dương là Hứa Vận ngoan cường chống lại quân địch, giết chết 2 vạn quân địch, ra sức yểm trợ cho Tây Vận Đường đình Giang Hoài, bảo đảm sự an toàn của dân chúng Giang Hoài, đặt nền móng quan trọng cho việc tổ chức phản kích biến loạn An Lộc Sơn của nhà Đường.
Trương Tuần giữ cô thành, lấy yếu chống mạnh, trăm trận trăm thắng, vô cùng mưu trí, trong đó nổi tiếng nhất, có uy lực nhất chính là "hình nhân thay lính, lính thay hình nhân". “Hình nhân thay lính, lính thay hình nhân" là mưu kế gì?
Kế thứ bảy "Bịa đặt hoàn toàn" trong "36 kế sách" có nghĩa là dùng những tình huống giả lừa dối kẻ địch, nhưng không phải là lừa dối đến cùng, trong những thời cơ nhất định phải giấu cái thật trong cái giả một cách khéo léo, biến hư thành thực. Vừa giả vừa thật, giả giả thật thật, hư hư thực thực như vậy sẽ gây ra ảo giác cho quân địch, sau đó thực hiện tấn công nhân lúc đối phương không để ý.
“Hình nhân" là hư, là giả, "lính" là thật, là thực.
Đầu tiên Trương Tuần lấy "hình nhân" thay "lính" là hư là giả, Lệnh Cô Triều nhìn giả tưởng thật, tặng không hàng trăm ngàn mũi tên. Trương Tuần đã không bỏ lỡ thời cơ lại lấy "lính" thay "hình nhân", chuyển hư thành thực, trong giả có thật. Lần này Lệnh Cô Triều lại nhìn thật thành giả, vô cớ bỏ qua cơ hội tốt bắn tên giết cảm tứ quân nên đã bị sự tấn công mãnh liệt của quân cảm tử đối phương. Chúng ta không thể nói Lệnh Cô Triều không đủ thông minh mà chỉ có thể nói kế "bịa đặt hoàn toàn" quả là kỳ diệu, chỉ có thể nói rằng Trương Tuần dùng "hình nhân thay lính, lính thay hình nhân" đã vận dụng kế "bịa đặt hoàn toàn" một cách kỳ diệu.
“Bịa đặt hoàn toàn" là một mưu kế hiệu quả làm địch mệt mỏi, hiểu nhầm. Trương Tuần mượn kế này giữ được cô thành, đánh cho Lệnh Cô Triều cuống cuồng sợ hãi. Nếu vận dụng kế này trong kinh doanh cũng có thể làm cho các đối thủ mạnh mất phương hướng, quên đi điểm mấu chốt và bị bạn xỏ mũi dắt đi một cách mơ hồ.
Năm 1936 ở Tứ Xuyên xảy ra hạn hán, lương thực rất thiếu. Các cửa hàng đã thừa cơ tích trữ, giá lương thực ở Trùng Khánh tăng đột biến. Lúc đó giá lương thực ở Hán Khẩu vẫn bình ổn như cũ, nhưng nếu chuyển từ Hán Khẩu đến Trùng Khánh bán thì không chỉ là khó thu lời mà thậm chí có thể bị lỗ vốn. "Ông hoàng bột mì" Tiên Bá Lương chủ công ty bột mì Phúc Hưng, Trùng Khánh vì chậm một bước nên không mua được nguyên liệu với giá cũ, đứng nhìn vụ làm ăn lớn như vậy trong một năm bị mất toi thì vô cùng lo lắng. Để giải nguy cho Trùng Khánh, sau một hồi trù mưu tính kế, Tiên Bá Lương đã tự mình đem 3000 bao bột mì từ Hán Khẩu đi Trùng Khánh.
Ông hoàng bột mì sau khi đến Trùng Khánh, ngay ngày hôm sau đã đi hỏi thăm các cửa hàng lương thực lớn như thường lệ. Các cửa hàng lương thực thấy ông hoàng bột mì thì đều rất vui mừng, nhiệt tình chờ đợi. Nhưng trong phòng khách của các cửa hàng đó, mỗi khi ông hoàng bột mì cùng cửa hàng đang nói chuyện hứng thú thì luôn có một trợ lý của ông ta vội vàng chạy đến sau khi đưa một bản hợp đồng lại bí bí mật mật thầm thì vào tai ông hoàng bột mì. Ông ta cũng luôn nghiêm giọng lại nói "Ở nhà ông chủ... không cần phải bí mật như thế” . Tiếp đó nói lại cho ông chủ đó nghe những gì trợ lý báo cáo rằng: vừa nhận được tin đã ký xong thỏa thuận với cửa hàng lương thực X ở Hán Khẩu, bỉ nhân mua được ... vạn bao lương thực ở đâu, vào ngày ... đã đến được Trùng Khánh để bán. Cứ thế, Tiên Bá Lương rót vào tai từng cửa hàng một cách phớt phớt hời hợt từng câu từng chữ các bản tin hàng đầu đặc biệt của Trùng Khánh. Ông hoàng bột mì sẽ không ngừng chuyển lương thực từ Hán Khẩu đến để giúp Trùng Khánh vượt qua năm hạn hán này. Đối với các cửa hàng đó đúng là một tin sấm dậy đất bằng. Tiếp đó, Tiên Bá Lương bắt đầu bán 3000 bao bột mì mang từ Hán Khẩu đến với giá thấp. Lúc này các cửa hàng lương thực mới căng cuống, bỏ hết giấc mơ đầu cơ tích trữ, bắt đầu bắt chước nhau bán với giá hạ.
Không bao lâu, trong kho cửa hàng của công ty bột mì Phúc Hưng, Trùng Khánh đã chất đầy lương thực giá thấp, đợi khi các cửa hàng phát giác ra rằng trong tay mình không còn lương thực nữa, mà lương thực từ Hán Khẩu vẫn chưa chuyển đến Trùng Khánh mới vội vàng tự mình đến Hán Khẩu. Không ngờ rằng, giá bán của Hán Khẩu cao hơn rất nhiều so với giá ở Trùng Khánh mà mình vừa bán ra. Mà đến khi họ quay trở lại Trùng Khánh thì công ty Phúc Hưng đã bắt đầu bán lương thực với giá cao.
 
Chương 60
Chặng đường rút lui, bao vây bắt sống địch


Đường Túc Tông nóng lòng muốn lấy lại hai kinh Trường An và Lạc Dương bị An Lộc Sơn tranh chiếm mất. Vào tháng 12 âm lịch năm 756 sau Công nguyên, Đường Túc Tông hỏi ý kiến Lý Tất. "Nay quân địch đương mạnh lại chiếm cứ kinh thành, lúc nào thì ta có thể tiến đánh để giành lại?".
Lý Tất bình tĩnh đáp rằng: "Tất cả của cải, mỹ nữ An Lộc Sơn cướp được đều đã chuyển về sào huyệt Phạm Dương như vậy chí lớn hùng cứ bốn biển, mưu đồ bá chủ toàn quốc liệu có còn chăng? Tuy hiện nay chiến tướng như mây, mưu sĩ vô số nhưng những kẻ sẵn lòng chết vì chủ thì có thể đếm được trên đầu ngón tay, còn lại đều là do thời thế bắt buộc, miễn cưỡng khuất phục mà thôi. Do đó, theo tính toán của thần, chỉ cần hai năm sau sẽ chẳng còn tên đạo khấu nào".
Đường Túc Tông vui mừng hỏi "Tại sao? "
Lý Tất đáp rằng: "Các dũng tướng của An Lộc Sơn chẳng qua chỉ có Sử Tư Minh, An Thủ Trung, Điền Càn Chân, An Chí Trung, A Sử Na Thừa Khánh. Hiện nay có thể lệnh cho đại tướng Lý Quang Bật đến Thái Nguyên đánh Tỉnh Hình (Tỉnh Hình, Hà Bắc ngày nay) ở phía bắc; ở giữa cho danh tướng Quách Tử Nghi từ Phùng Dực tiến vào Hà Đông (phía tây huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây ngày nay). Như vậy Sử Tư Minh, An Chí Trung đang trấn giữ ở Phạm Dương không dám rời khỏi Phạm Dương và Thường Sơn ở phía bắc; An Thủ Trung, Điền Càn Chân không dám rời khỏi Trường An - hai cánh quân đã ngăn bốn mãnh tướng, An Lộc Sơn sẽ chẳng làm nổi gì. Quách Tứ Nghi thì không được lệnh giành lấy Hoa âm, nghe theo An quân, giữa Trường An và Lạc Dương thông suốt không có trở ngại gì. Bệ hạ thì có thể xuất đại quân đóng ở Hiệp Phong, từ đường nam quấy nhiễu Trường An. Như vậy cả ba đường nam, bắc, trung không ngừng đe dọa phiến quân, chỉ công thành mà không ngừng liên lạc với nhau, làm cho quân giặc mệt mỏi vì phải phụng mệnh bôn tẩu suốt chiến tuyến hàng vạn dặm. Đợi đến mùa xuân lại lệnh cho Kiến Ninh Vương (con trai thứ của Đường Túc Tông) làm Tiết độ sứ Phạm Dương, từ cửa ải Bắc xuất kích cùng với Lý Quang Bật đánh chiếm Phạm Dương, lật đổ sào huyệt của phiến quân. Như vậy, An Lộc Sơn đường lui cũng không có, mà ở lại cũng không yên, chỉ có thể bó tay chịu trói.
Lý Tất đánh trúng vào đặc điểm của địch và ta, tìm ra một phương án đập nát sào huyệt của địch, sau cùng bao vây tiêu diệt sạch quân địch. Đường Túc Tông nghe thấy hợp tình hợp lý lại thấy chỉ trong vòng hai năm có thể dẹp được loạn An - Sử nên rất đỗi vui mừng, chỉ tiếc rằng chưa suy nghĩ cẩn thận, tường tận về kế hoạch của Lý Tất.
Sau đó, Lý Quang Bật giết được hơn 7 vạn quân địch ở gần Thái Nguyên, bảo đảm thế tiến công có lợi cho quân Đường tiến vào Hà Bắc đánh thẳng tới Phạm Dương, Trương Tuần tử thủ ở Tùy Dương (phía nam huyện Thương Khâu, Hà Nam ngày nay), tuy vì lương thực trong thành đã cạn, viện binh chưa đến mà bị quân An đánh bại sau 10 tháng cố thủ, nhưng cũng đã tiêu diệt được hơn 12 vạn quân địch, yểm trợ cho việc tây vận đến Tô Ung, Giang Hoài của nhà Đường, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai bên. Đến tháng 2 năm 757 sau Công nguyên, lính ở Lũng Hữu, Hà Tây, An Tây, Tây Vực và lương thảo ở Giang Hoài đều đã tập hợp đầy đủ ở địa điểm dự định. Mà sĩ khí của An quân vì phải bôn tẩu mệt mỏi nên đã suy sụp, hơn nữa trong tháng giêng An Lộc Sơn lại bị chính con trai An Khánh Tự mưu sát. Thời cơ để quân Đường phản công một trận lớn đã chín muồi.
Thế là Lý Tất xin với Đường Túc Tông cứ theo kế hoạch đã nói, sai binh mã An Tây và Tây Vực bao vây Tái Bắc đánh thẳng vào sào huyệt Phạm Dương để cắt đứt đường lui của địch, mở ra tình thế đóng cửa bắt giặc, giành lấy kết quá huy hoàng. Không ngờ Đường Túc Tông thấy cơ hội chiến thắng đã nằm trong tầm tay, chỉ lo cái lợi trước mắt, quay ngược lại nói với Lý Tất "Nay đại quân đã tập hợp, lương thực đã đủ nên thừa thế đánh thẳng vào tâm gan địch, thu lấy hai kinh. Nếu dẫn quân đến Tắc Bàn ngoài ngàn dặm, đánh Phạm Dương trước có phải là hơn không"
Lý Tất nghe xong rất lo, vội vàng trình bày:
- Hiện nay đại quân ép địch thì việc giành được hai kinh Trường An, Lạc Dương là điều chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa. Song tuy hai kinh có thể giành được nhưng quân địch cũng sẽ còn nơi để mà khôi phục, chúng ta sẽ lại bị rơi vào cảnh khó khăn, quyết không phải là cách làm hay lúc này. Cái mà chúng ta dựa vào lúc này là binh mã của Tây Bắc và Chư Hồ, đặc điểm của họ là chịu được lạnh nhưng không chịu được nóng, nếu ta mượn nhuệ khí của họ, từ Phạm Dương đánh quân địch lúc chúng đang lười nhác, thế tất sẽ như chẻ tre. Mà hiện nay ở chỗ hai kinh mùa xuân sắp qua, mùa hè sắp đến, cho dù có đánh hạ được thì binh lính đều muốn trở về Tây Bắc, mà lúc đó quân địch sẽ thừa thế từ sào huyệt quay trở lại. Như vậy cuộc chinh phạt vừa mới bắt đầu đã chẳng có kết cục. Xin bệ hạ nhất thiết phải dùng lính Tây Bắc để đánh vào sào huyệt quân địch trước, sau đó tập trung giết hết quân địch để trừ cỏ tận gốc.
Lý Tất đã hết lời van nài nhưng Đường Túc Tông vẫn cố giữ sai lầm mà không chịu tỉnh ngộ: "Ta ngày đêm mong đợi giành lại được hai kinh, quyết tâm đã định, không thể đợi được đến lúc đó”.
Lý Tất biết rằng Đường Túc Tông đã kiên quyết muốn tiến công từ chính diện, bỏ qua kế cắt đường lui của địch, đóng cửa bắt giặc, đành phải lắc đầu không nói gì nữa. Sự việc quả đúng như Lý Tất dự đoán, quân Đường tuy nhanh chóng chiếm lại được hai kinh nhưng loạn An - Sử thì còn lâu mới kết thúc. Sau loạn An - Sử kéo dài 8 năm, bề ngoài đã bình định được nhưng mầm họa của loạn An - Sử thì vẫn chưa bị trừ bỏ tận gốc. Các bộ hạ của An - Sử bề ngoài tỏ vẻ đầu hàng triều đình nhưng thực tế thì vẫn sôi sục tìm cách cát cứ, cuối cùng dẫn đến việc nhà Đường bị tiêu diệt.
Khi đọc đến đoạn sử này người ta thường cảm thán mãi không thôi. Nếu như Đường Túc Tông theo kế "cắt đường rút lui, đóng cửa giết giặc" của Lý Tất để tiêu diệt triệt để phiến quân thì có lẽ đã phải viết lại cuốn sử khác về lịch sử triều Đường.
Kế thứ 22 "Đóng cửa bắt giặc" trong "36 kế” có nghĩa là đối với những kẻ địch yếu nhỏ phải bao vây lại để tiêu diệt. Bởi vì kẻ địch phân tán lẻ nhỏ tuy là thế yếu lực mỏng nhưng nếu để chúng tự do hành động, chạy trốn đi nơi xa thì lúc đó sẽ gian trá khó phòng, rất bất lợi khi phải truy đuổi. Muốn kế "bao vây bắt giặc" đạt được thành công thì điều quan trọng là phải lật đổ sào huyệt, cắt đứt đường về của chúng.
Kế "cắt đứt đường lui, bao vây bắt giặc" có thể dùng rộng rãi trong kinh doanh thương mại. Nhưng việc dùng kế này trong kinh doanh không chỉ bó hẹp để đối phó với "tiểu địch" mà sau khi dành được quyền chủ động cũng có thể dùng để đối phó với những đối thủ mạnh hừng hừng khí thế, cũng không nên chỉ lý giải rằng đợi đến sau khi đối thủ vào "trong nhà" mới "đóng cửa" mà hoàn toàn có thể chủ động tạo ra những cái túi, dụ địch vào "phòng” một cách có kế hoạch sau đó bất ngờ cắt đứt đường lui.
Ở Ý có một chợ chuyên bán các sản phẩm mới - chợ Laiven. Có một số sản phẩm mới bán rất chạy, rất nhiều khách hàng tranh nhau mua, nếu không mua được họ đề nghị chợ nhập thêm hàng. Thế nhưng câu trả lời lại là: "Rất xin lỗi, chợ này chỉ bán hàng đợt đầu, không nhập thêm hàng, thôi thì hàng bán chạy cũng đành tình nguyện vứt bỏ vậy." Có một số khách hàng không thể lý giải được câu trả lời đó lại kể lại với người khác. Có điều thú vị là từ đó về sau, những người "không lý giải được", những người "nghe kể lại" càng thường xuyên đến chợ đó và một khi thích cái gì thì mua ngay không hề do dự.
Hàng hóa "chỉ bán đợt đầu” của chợ Laiven đã là một kế “cắt đứt đường lui", bao vây bắt giặc cao minh. Vì nếu muốn mua được đồ mới mẻ, ưa thích thì phải mua ngay tại chỗ chớ không có đường lui.
Còn có chỗ dùng kế này tuyệt vời hơn. Trong một hành lang trưng bày ảnh ở Bỉ có một người ấn Độ mang theo ba bức tranh với giá 250 đô la. Các cửa hàng tranh dù nói thế nào đi nữa cũng không chịu mua với giá cao như vậy. Người Ấn Độ đó tức lên, đùng đùng chạy ra ngoài, đốt ngay một bức tranh trong số đó. Cửa hàng bán tranh tiếc mãi không thôi, vội vàng hỏi xem hai bức còn lại bán với giá bao nhiêu. Người Ấn Độ đó nói 250 đô la, không cần trả thêm dù chỉ hào. Chủ cửa hàng tranh lắc đầu muốn mặc cả tiếp. Người Ấn Độ đó lại đem đốt tiếp một bức nữa, chủ cửa hàng thấy vậy kinh ngạc thất sắc, đành phải cầu xin: "Đừng đốt nốt bức cuối cùng!". Sau đó lại hỏi xem muốn bán bao nhiêu tiền? Người đó lại nói: "250 đô la không bớt hào, hoặc là mua ngay, hoặc là đốt nốt, khỏi phải nói nhiều!" Chủ cửa hàng vội vàng cầm lấy bức tranh gọi thuộc hạ lập tức trả đủ số tiền mà người đó đưa ra.
Hoặc là mua ngay lập tức, hoặc là vĩnh viễn không bao giờ có được Người Ấn Độ đó đã dùng kế này thật gọn gàng, sạch sẽ đâu vào đấy.
 
Chương 61
Khoét thêm kẽ hở


Loạn An - Sử bước vào đầu năm thứ 5, Sử Tư Minh cướp được ngôi báu của phiến quân. Đường Túc Tông sợ rằng Quách Tử Nghi có công lớn sẽ lấn át chủ nên đã giao việc bình định phiến quân từ tay Quách Tử Nghi cho Lý Quang Bật. Năm Càn Nguyên Đường Túc Tông thứ 2 (năm 759 sau Công nguyên). Sử Tư Minh dẫn hàng 10 vạn đại quân tấn công hai kinh. Lý Quang Bật thấy địch đông mà ta thì ít, để bảo đảm sự an toàn của Tây kinh Trường An đã dứt khoát bỏ trống thành Lạc Dương, đích thân dẫn 5 vạn quân đến đóng ở Hà Dương (tây bắc huyện Mạnh, Hà Nam ngày nay), phía bắc liền với ao, đầm và rất nhiều sông, nương tựa vào Hoàng Hà, mắt vẫn dõi về Lạc Dương, khống chế phía sau An quân khiến Sử Tư Minh không dám tùy tiện Tây tiến.
Sử Tư Minh thấy không có cách nào để Tây tiến, việc phòng - thủ của Lý Quang Bật lại không có sơ hở nào có thể lợi dụng nên đành đóng quân ở Hà Thanh (tây nam huyện Mạnh, Hà Nam ngày nay) để chặn đường lương của Lý Quang Bật. Lý Quang Bật vì thế cũng đóng quân ở bến Dã Thủy (trên sông Hoàng Hà giữa hai huyện Tế Nguyện và Mạnh Luật, Hà Nam ngày nay) để tiến hành ngăn chặn.
Hai bên đứng sóng đôi với nhau một ngày, đến chiều tối Lý Quang Bật về Lạc Dương, để lại ngàn quân và lệnh cho tướng Ung Hi Hạo ở lại giữ. Lúc sắp đi Lý Quang Bật còn nhắc nhở: “Tướng giặc là Cao Đình Huy và Lý Nhật Việt đều trí dũng hơn người. Khi chúng đến các người nhớ không được xuất chiến. Nếu chúng đầu hàng thì các người phải về cùng một đường với chúng". Nói xong thì đi ngay. Các tướng lĩnh chẳng hiểu ra sao cứ cười thầm.
Hôm sau mới sáng sớm quả đã có tướng giặc dẫn 500 kỵ binh đến Dã Thủy. Ung Hy Hạo thấy thế giặc hung dữ biết không thể liều mình bèn nói với quân sĩ "Viên tướng đó nếu không phải là Cao Đình Huy thì là Lý Nhật Việt, chúng ta nên nghe theo lời khuyên của Nguyên soái, không cần xuất chiến, chỉ cần ngồi đợi xem chúng hành động thế nào". Thế là cho lính đứng nghỉ, ngậm cười quan sát.
Viên tướng đó đến dưới hàng rào phòng ngự, nhìn thấy quân của Lý Quang Bật khoan khoái như vậy thì không khỏi kinh ngạc, bèn hỏi tướng giữ thành "Lý Quang Bật có ở đây không?"
Ung Hy Hạo đáp: "Tối qua đã về Lạc Dương rồi".
Viên tướng đó lại hỏi: "Ở lại trấn giữ có bao nhiêu người ngựa?"
Ung Hy Hạo đáp "Ngàn người".
Viên tướng hỏi: "Ai là tướng?"
Ung Hy Hạo đáp "Chính là Ung Hy Hạo ta".
Ung Hy Hạo là người vai dưới lại vô danh nên đương nhiên viên tướng đó chưa từng nghe qua tên. Ung Hy Hạo thấy viên tướng đó trầm ngâm, do dự không cười, tả hữu lưỡng lự nên chợt nghĩ đến lời Lý Quang Bật, đoán ra rằng viên tướng đó đúng là đến để đầu hàng, vì thế vội hỏi:
- Tướng họ Lý hay họ Cao?
- Họ Lý.
- Chắc là tướng quân Lý Nhật Việt phải không?
- Sao ngươi biết?
- Nguyên soái Lý Quang Bật đã sớm bảo rằng tướng quân vốn có lòng trung với nhà Đường, có điều nhất thời bị Sử Tư Minh ép buộc mà đành phải theo quân phiến loạn, nay lệnh cho tôi phải đợi ở đây để đón tướng quân trở về với nhà Đường.
Lý Nhật Việt chần chừ một lúc rồi nói với tả hữu: "Hôm nay không bắt được Lý Quang Bật mà chỉ có Ung Hy Hạo, quay về không biết báo cáo thế nào chi bằng quy hàng triều Đường vậy!". Mọi người đều không đáp lời. Lý Nhật Việt bèn bảo đầu hàng.
Ung Hy Hạo vội mở cửa rào, dẫn Lý Nhật Việt đi gặp Lý Quang Bật. Lý Quang Bật rất vui tiếp đón Lý Nhật Việt rất hậu lại coi như mãnh tướng tâm phúc. Lý Nhật Việt cũng rất cảm kích, xin được viết thư chiêu hàng Cao Đình Huy. Không ngờ Lý Quang Bật lại nói: "Không cần không cần, ông ta sẽ tự đến đầu hàng, sẽ gặp ông ở đây". Các tướng lĩnh nghe vậy càng cảm thấy lạ, ngay cả Lý Nhật Việt cũng cảm thấy mơ hồ không biết "ông ta bán thuốc gì trong hồ lô". Nào ngờ mấy hôm sau quả nhiên Cao Đình Huy dẫn theo bộ hạ đến đầu hàng. Thế là Lý Quang Bật gửi tấu lên triều đình xin phong chức quan cho Lý, Cao. Sử Tư Minh mất đi hai viên hổ tướng, Lý Quang Bật lại chuyển thủ thành công.
Các thuộc hạ vì thấy Lý Quang Bật dễ dàng hàng phục được hai tướng thì nghi ngờ ba người họ đã hẹn trước nên đi hỏi Lý Quang Bật rốt cục là chuyện gì.
Lý Quang Bật nói: "Tôi vốn không quen biết gì hai tướng và họ cũng vậy thì lấy đâu ra mật ước? Chẳng qua là vì "kẽ hở" dễ dẫn dắt mà suy đoán được tình lý thôi. Sử Tư Minh thường nói với bộ hạ rằng Lý Quang Bật chỉ giỏi giữ thành chứ không biết dã chiến. Nay ta lại ra khỏi thành đóng quân ở bến Dã Thủy nên đương nhiên ông ta coi đó là cơ hội tốt trời ban cho, chắc chắn sẽ phái mãnh tướng đến tấn công. Sử Tư Minh có một cái tật rất lớn là đối xử với thuộc hạ rất tàn bạo, không bao giờ tha thứ cho các bại tướng. Nếu viên tướng nào bỏ qua cơ hội tốt để ta sống sót thì đời nào ông ta lại không ăn tươi nuốt sống viên tướng đó? Lý Nhật Việt vâng lệnh đến đây lại không có cơ hội quyết chiến với ta nên khó mà quay về gặp Sử Tư Minh được, xin hàng quân Đường không phải là hợp lẽ sao? Tài dũng của Cao Đình Huy còn hơn hẳn Lý Nhật Việt, ông ta thấy Sử Tư Minh tàn bạo như vậy mà Lý Nhật Việt lại được tin dùng trong quân Đường nên đương nhiên cũng muốn đến chỗ ta chiếm lấy một chỗ."
“Con người luôn đi về phía cao, nước thì luôn chảy chỗ trũng". Lý Quang Bật suy tình đoán lý, nhắm đúng "khe hở" là sự tàn bạo trong đối xử với cấp dưới của Sử Tư Minh, cố ý tạo ra tình thế Lý Nhật Việt sợ phải quay về gặp Sử Tư Minh, lại sắp đặt sự đãi ngộ hậu hĩnh, từ đó làm cho Lý Nhật Việt, Cao Đình Huy tự nhiên mà đầu hàng nhà Đường. Chúng ta gọi kế sách căn cứ vào vết nứt, kẽ hở hoặc các loại lực ly tâm giữa đối thủ với nhau rồi lại làm cho nó to ra, nhân tiện làm đối thủ bỏ thái độ đối địch đi gọi là "Nhân khích lợi đạo". Thuyền đi ngược dòng chỉ có lùi chứ không tiến nên phải luôn ra sức chèo chống mới làm cho thuyền tiến về phía trước được. "Nhân khích lợi đạo" lại giống như thuyền đi xuôi dòng, rất nhẹ nhàng thoải mái. Nếu Lý Quang Bật liều mình với Lý Nhật Việt, Cao Đình Huy thì không những hao binh tổn tướng, trả giá rất đắt mà thực tế lúc bấy giờ ở vào địa thế bất lợi như vậy, Lý Quang Bật cũng cầm chắc phần thua. Lý Quang Bật đã dùng kế này rất kỳ diệu, không tốn một hòn đạn mũi tên mà vẫn toàn thắng. Trong kinh doanh cũng thường tồn tại những trường hợp như vậy và kế "nhân khích lợi đạo" cũng thu được kết quả kỳ diệu như vậy.
Ông vua bất động sản thế giới Joseph được chính phủ ủy quyền đến New Jersey để phát mại.
Những căn nhà ở vùng này vào thời chiến tranh là xây cho công nhân nhà máy đóng tàu ở. Nhưng đến khi phát mại chỉ có ba nhà là thật sự chuyển đến ở từ thời chiến, còn lại thì không phải. Tuy vậy, những "chủ nhà đó" vẫn mượn lý do “trước đây chính phủ bắt chúng tôi phải dọn đến ở thì nay sao lại đuổi chúng tôi đi" để lớn tiếng kêu gào, kịch liệt phản đối. Họ cứ dựa vào việc mọi người đều đồng tâm quyết định không sợ đổ máu, kiên trì không chịu chuyển đi.
Đứng trước tình thế đó, ông vua bất động sản cảm thấy rất khó xử. Nếu khi bắt tay vào phát mại mà ông giải quyết không thỏa đáng thì chắc chắn sẽ gặp phải sự phản ứng đồng loạt của họ, thậm chí ngay cả tính mạng cũng có thể bị nguy hiểm.
Làm thế nào để đối phó với những chủ hộ bất cứ lúc nào cũng có thể phát khùng này? Tuy ông có thừa lý do để chứng minh họ không phải là chính chủ từ thời chiến, làm cho đám người cố tình gây rối này không còn gì để nói, nhưng Joseph hiểu rằng nếu trách mắng những lỗi lầm của người khác thì chỉ làm cho đối phương đã tức lại càng tức hơn mà chẳng đạt được kết quả gì. Đương nhiên là ông cũng có thể đến thêm một lần nữa để diễn giảng, dùng những từ ngữ ôn hòa nhất để làm họ nguôi giận. Nhưng sau khi đã điều tra nghiên cứu, suy tình đoán lý, ông dùng một biện pháp cao minh hơn.
Tuy ông đã tuyên bố từ lâu về thời gian phát mại nhưng khi tiến hành ông vẫn cố tình làm trước một tiếng. Điều này cũng giống như Lý Quang Bật lặng lẽ rời khỏi bến Dã Thủy từ tối hôm trước đã làm cho Lý Nhật Việt ngạc nhiên, không biết làm thế nào. Vốn là những chủ hộ đó định nhằm đúng thời gian phát mại dự định trước nên đã chuẩn bị những biện pháp, công cụ để phát tiết, nhưng điều nằm ngoài dự liệu của họ là việc này được tiến hành sớm hơn nên những mũi nhọn tức giận bỗng nhiên không có tác dụng gì, mọi người đều lúng túng, toàn bộ tinh lực đều tập trung vào tiến trình.
Trong lúc điều tra, Joseph đã hiểu được rằng những chủ hộ đó cũng không phải là sắt đá. Trong đó có một hộ gia đình vốn không có chủ trương tranh cãi vô lý, họ biết rằng chính phủ chỉ muốn thu tiền chứ không muốn thu lại nhà, cũng không có ý đuổi những người đó ra khỏi nhà mình nên chỉ hi vọng mình có thể bỏ một khoản tiền ra mua lại căn nhà đang ở.
Joseph đã ghi lại từ trước vào số tay của mình số tiền mua nhà mà hộ gia đình đó dự toán trước. Đến khi phát mại ông cố tình để vụ giao dịch với gia đình này lên đầu nên đã làm xong thủ tục mua bán rất nhanh. Vị chủ hộ đó vì đạt được mong muốn của mình nên vui mừng tới mức vỗ tay khen ngợi. Các hộ khác thấy chủ hộ đó đã mua bán xong mà lại vui mừng như vậy nên vội vàng trù tính xem mình phải bỏ bao nhiêu tiền để mua lại căn nhà của mình.
Khi mà xong đợt giao dịch đầu tiên, vào lúc mà các chủ hộ đang hoan hô thì ông cũng giơ cả hai tay hô hào vạn tuế. Những người vốn định tới để gây rối đó cũng hùa theo đó hô hào. Những cơn giận tiềm ẩn ngay tức khắc nhận được sự phát tiết không có tính phá hoại, trong đại sảnh đã trở lại bầu không khí phát mại thông thường rất sôi nổi và hòa hợp. Gần 2000 căn hộ đã nhanh chóng và thuận lợi được phát mại thành công.
Joseph đã ngắm trúng vào một điểm là có người tự nguyện bỏ tiền ra mua nhà để cố gắng khai thác, dẫn dắt, từ đó làm cho cơn tức giận được trút bỏ một cách thuận thế, có hiệu quả biến cuộc phát mại nguy hiểm thành một cuộc phát mại hòa hợp, thành công. ông vua bất động sản Joseph quả không hổ là bậc cao thủ trong việc sử dụng tài tình kế "nhân khích lợi đạo”.
 
Chương 62
Lấy nhu thắng cương


Khi phải đối phó với kẻ địch đương nhiên chúng ta hy vọng có thể giết sạch ngay lập tức. Nhưng nếu kẻ địch rất mạnh thì sao? Lấy cứng để đối cứng thì khác gì lấy trứng chọi đá. Nếu người mà chúng ta phải đối phó không phải là kẻ địch mà lại là bạn bè, quân đội bạn hoặc khách hàng mà chúng ta phải duy trì quan hệ hữu hảo lâu dài thì sao? Thế thì càng không thể dùng những biện pháp cứng rắn. Vậy thì làm thế nào? Tục ngữ có câu: Nước chảy đá mòn, trúc mềm có thể địch được cường phong, trong những trường hợp không thể dùng những thủ pháp cứng rắn thì đã có kế "Dĩ nhu khắc cương” .
Năm 764 sau Công nguyên, nhà Đường vừa dẹp yên dược loạn An - Sử thì Phó Cố Hoài ân lại tập hợp quần chúng ở phía bắc làm phản, nhiều lần công thành đoạt dã. Đường Đại Tông đành phải lệnh cho Quách Tử Nghi - một người tiếng tăm lừng lẫy làm phó nguyên soái dẫn quân đi dẹp loạn. Quách Tử Nghi lại lệnh cho con trai là Quách Hi với tư cách là Thượng thư Kiểm Hiệu kiêm Hành Doanh Tiết độ sứ đóng quân ở Mân Châu (huyện Bân, Thiểm Tây ngày nay).
Một số thanh niên phạm pháp ở vùng Mân Châu đã mượn danh Quách Hi, sau đó lấy danh nghĩa quân nhân để hành động ngang ngược, phạm pháp ở những nơi đông người ngay vào ban ngày, nếu có người nào không đáp ứng yêu cầu của chúng là lập tức bị đánh đập dã man, thậm chí còn ra tay giết cả người già, trẻ em, phụ nữ đang mang thai. Tiết độ sứ Mân Châu là Bạch Hiếu Đức vì sợ uy danh của Quách Tử Nghi nên không dám động chạm gì đến những việc đó. Thuộc hạ của Bạch Hiếu Đức là thứ sử Kinh Châu Đoàn Tú Thực thấy rằng việc này có liên quan đến sự an nguy của nhà Đường và danh tiết Quách Tử Nghi nên đã mạnh dạn yêu cầu xử lý việc này. Bạch Hiếu Đức lập tức hạ lệnh cho Đoàn Tú Thực thay mặt quan chấp pháp trong quân đội lo liệu toàn bộ.
Không lâu sau khi Đoàn Tú Thực nhận lệnh, 7 tên lính trong quân đội của Quách Hi đến chợ cướp rượu, giết chết những công nhân nấu rượu, phá hỏng các đồ đựng để nấu rượu. Đoàn Tú Thực đã bố trí quân lính bắt tất cả bọn chúng lại, chặt đầu bêu trên ngọn giáo, dựng ở chợ để mọi người xem.
Bọn binh lính trong doanh trại Quách Hi đều rất hỗn loạn về chuyện này, tất cả đều khoác lên người giáp trụ. Đoàn Tú Thực thì lại vứt bỏ cây đao đeo bên mình, cho một ông lão chậm chạp dắt ngựa, đi thẳng đến cửa doanh trại của Quách Hi. Tất cả những binh lính đội mũ và mặc áo giáp sắt đều ra ngoài. Đoàn Tú Thực vừa đi vừa cười nói rằng: "Giết một tên lính già thì cần gì phải vũ trang cẩn thận như đón một đại quân của địch vậy? Ta mang một cái đầu lâu tới để đích thân Quách thượng thư ra lấy!". Binh sĩ mặc giáp nhìn thấy một ông già, một tướng với một con ngựa gầy thì rất đỗi ngạc nhiên. Bởi vì chúng vốn nghĩ rằng sắp xảy ra một cuộc quyết chiến vậy mà chỉ nhìn thấy một đối thủ nho nhã yếu ớt như vậy nên vội vàng nhường đường.
Đoàn Tú Thực gặp được Quách Hi liền nói: "Công lao của phó nguyên soái Quách Tử Nghi trải đầy trong thiên hạ, người làm con trai của ông ấy mà để cho quân lính tùy tiện hoành hành ngang ngược. Nếu làm cho biên giới của nhà Đường rối loạn thì tội này thuộc về ai đây? Tội gây rối chắc chắn sẽ làm liên lụy đến Quách phó nguyên soái. Mà nay những thanh niên phạm pháp đó lại mượn danh trong quân đội của người làm những chuyện bất hợp pháp, giết hại người vô tội. Người ta nói rằng, Quách thượng thư dựa vào thế lực của phó nguyên soái không quản thúc binh sĩ của mình, nếu cứ kéo dài như vậy thì công danh của Quách gia còn tồn tại được bao lâu?".
Quách Hi vốn không hài lòng với việc Đoàn Tú Thực bắt giết binh sĩ của mình nên cũng cảm thấy phẫn nộ như binh sĩ, cũng muốn xem xem Đoàn Tú Thực tài cán lớn đến cỡ nào. Nay lại thấy Đoàn Tú Thực xông thẳng vào doanh trại mà hoàn toàn chẳng có chút phòng bị gì, lại nghe Đoàn Tú Thực nói và thấy ông ta làm như vậy hoàn toàn là vì muốn thúc đẩy công danh của Quách gia. Vì vậy đã thay đổi thái độ cứng rắn lúc đầu lại còn cảm thấy phải bảo vệ một Đoàn Tú Thực nhỏ yếu để tránh việc thuộc hạ của mình vì tức giận mà ra tay giết nên vội vàng bái Đoàn Tú Thực "May mà có sự chỉ giáo của người". Thế là vội vàng hạ lệnh cho thủ hạ cởi bỏ vũ trang, không cho phép làm tổn thương đến Đoàn Tú Thực.
Đoàn Tú Thực vì muốn Quách Hi quyết tâm quản thúc quân đội nên dứt khoát "mềm" đến cùng nói "Tôi vẫn chưa ăn tối, bụng đói rồi. Xin hãy chuẩn bị cơm cho tôi". Sau khi ăn xong lại nói: "Bệnh cũ của tôi lại tái phát cần phải nghỉ ở chỗ ngài một đêm". Cứ thế, chỉ với một ông già canh giữ, Đoàn Tú Thực đã ngủ trong một doanh trại đầy lòng thù địch.
Quách Hi bề ngoài thì đáp ứng các yêu cầu của Đoàn Tú Thực nhưng vẫn sợ binh sĩ vì phẫn nộ mà giết mất một mệnh quan triều đình chẳng có chút đề phòng gì mà lại là người mình phải chịu ơn nên trong lòng rất lo lắng. Thế là một mặt nói rõ kỷ luật quân đội nghiêm khắc, một mặt bảo lính tuần tra phải cảnh giới phòng bị nghiêm ngặt suốt đêm để đảm bảo cho Đoàn Tú Thực.
Hôm sau, Quách Hi còn cùng với Đoàn Tú Thực đến chỗ Bạch Hiếu Đức để tạ tội, đại quân Mân Châu vì thế mà được chỉnh đốn lại.
“Thiên hạ chi chí nhu, trì sánh thiên hạ chí cương (Cái mềm nhất của thiên hạ có thể buộc được thứ cứng nhất trên đời). Đoàn Tú Thực sau khi giết 7 binh sĩ phạm pháp đã dùng những lời nói và việc làm ôn hòa, đúng mức, điều khiển được Quách Hi và thuộc hạ đang rất phẫn nộ, ông đã thành công trong việc "Dĩ nhu khắc cương".
Trong ngoại giao quân sự, khi sử dụng kế "Dĩ nhu khắc cương” luôn đòi hỏi phải có lòng can đảm và trí hiểu biết hơn người, phải có khí phách, không sợ hiểm nguy. Trong kinh doanh thương mại vốn là dĩ hòa vi quý, khi dùng kế "Dĩ nhu khắc cương" càng đòi hỏi phải nắm được chuẩn xác tâm lý, nguyện vọng của đối thủ cứng rắn đó, phải đứng từ góc độ đáp ứng tâm lý nguyện vọng của đối thủ để kích thích cái nhu của họ.
Tổng giám đốc công ty vận tải Bauren, ông Falkland khi còn trẻ vì đã xử lý được một thương vụ của công ty mà được lên thẳng mây xanh. Lúc đó ông là nhân viên bình thường của một xưởng sản xuất đầu máy. Nhờ kiến nghị của ông, công ty đã mua mảnh đất chuẩn bị xây một tòa nhà làm việc lớn. Hơn 100 hộ dân cư ở trên mảnh đất đó vì thế phải chuyển đi nơi khác.
Nhưng trong số các cư dân có một bà lão Ailen nhảy ra đối đầu với xưởng sản xuất đầu máy. Dưới sự cầm đầu của bà ta, nhiều người đã từ chối dọn đi và còn tụ tập lại thành một đám đông quyết đấu đến cùng.
Falkland đã nói với lãnh đạo xưởng: "Nếu chúng ta giải quyết vụ việc này thông qua con đường pháp luật thì vừa tốn tiền lại mất thời gian. Chúng ta lại càng không thể sử dụng những biện pháp cứng rắn khác để xua đuổi họ. Như thế thì chúng ta càng có thêm nhiều kẻ thù, tuy là có thể xây được nhà nhưng chúng ta cũng không đảm bảo được an ninh. Vậy hãy giao cho tôi xử lý!".
Đứng trước tình thế đó thì tốt nhất là dùng kế sách "Dĩ nhu khắc cương". Cái cách mà một người thông minh như Falkland đã chọn.
Hôm đó, ông đến trước cửa nhà bà lão người Ailen, nhìn thấy bà đang ngồi trên bậc đá. Ông cố tình đi đi lại lại trước mặt bà, ra vẻ như trong lòng đang tính toán một việc gì đó. Ông đã tự nhiên gây sự chú ý của bà lão. Một lúc sau, bà lão mở miệng hỏi: "Này chàng thanh niên, có điều gì phiền não thế? Hãy nói ra, ta nhất định sẽ có cách giúp anh".
Falklank nhân cơ hội đó tiến lên phía trước nhưng không trực tiếp trả lời câu hỏi của bà mà nói "Bà chẳng có việc gì làm ở đây, thật là lãng phí quá! Tôi biết bà rất có năng lực lãnh đạo, quả thực bà nên tranh thủ thời gian để làm một người có sự nghiệp lớn. Nghe nói ở đây sắp xây một tòa nhà lớn, có phải bà định phát huy tài năng chỉ huy hơn người của mình làm một việc mà ngay cả quan tòa, tổng thống cũng khó làm được là khuyên hàng xóm của bà để họ tìm được một nơi yên vui có thể ở lâu dài. Như vậy thì nhất định là mọi người sẽ nhớ đến lòng tốt của bà".
Bắt đầu từ hôm sau, bà lão người Ailen cứng rắn, ngoan cố đó đã trở thành một phụ nữ bận rộn nhất thành phố. Bà đi khắp nơi để tìm nhà, chỉ huy hàng xóm của mình chuyển đi, đồng thời còn làm rất cẩn thận, đáng tin cậy.
Tòa nhà làm việc đó đã nhanh chóng bắt đầu khởi công. Trong quá trình các hộ chuyển đi không chỉ tốc độ nhanh hơn rất nhiều mà số tiền phải trả lại chỉ bằng một nửa so với dự định của xưởng.
Có thể thấy việc Falkland quyết đoán trong việc chọn dùng kế "Dĩ nhu khắc cương", đã chứng tỏ ông là người có trí lực phi phàm. Ông lại có thể tóm được cái lời "nhu” đột phá của bà lão dẫn đầu những người hàng xóm chống lại việc chuyển nhà đang ngồi trên bậc thềm đó thì càng chứng tỏ kỹ nghệ thành thạo trong việc dùng kế này của ông.
 
Chương 63
Dùng khổ nhục kế để tạo lòng tin


Nhân bất tự hại, thụ hại tất chân" cũng có nghĩa là người ta thường không bao giờ tự hại chính mình, chẳng may bị hại thì cũng không phải do tự nguyện mà là do sức mạnh bên ngoài áp đặt. Trong "36 kế sách" có kế "Khổ nhục kế” là thông qua việc tự mình hại mình, tự mình trải qua những lúc hiểm nguy để lấy được lòng tin của địch. Vì tự mình hại mình rất dễ lấy được lòng tin của đối phương, nó mang một tác dụng mê hoặc, lừa dối rất lớn nên đó là một kế hay tuyệt diệu có thể che giấu được mưu đồ của mình, làm cho đối phương có những ý nghĩ và hành vi sai lầm. Khổ nhục kế của Chu Du đánh Hoàng Cái thời Tam quốc có thể lừa được một người đa nghi như Tào Tháo, trong nháy mắt làm tan vỡ đại quân mấy chục vạn người của Tào Tháo. Hàng trăm năm sau, danh tướng đời Đường Quách Tử Nghi lại dùng kế này dễ dàng biến hàng chục vạn quân địch thành quân đội bạn, xóa bỏ một tai họa ngập đầu của triều Đường.
Trong quá trình nhà Đường tập trung lực lượng dọn loạn An - Sử, vì phải điều động một lượng lớn binh sĩ từ phía tây bắc sang phía đông nên quân Thổ Phồn đã thừa cơ từng bước xâm nhập chiếm lĩnh Hà Tây và Lũng Hữu. Năm Quảng Đức nguyên niên đời Đường Đại Tông (năm 763 sau Công nguyên), sau khi trải qua mấy năm chiến loạn, vương triều Đường sức cùng lực kiệt tiếp nhận sự đầu hàng của quân An - Sử cũng đã sức cùng lực kiệt. Lúc đó nhà Đường cho rằng đã thắng lợi nên chỉ lo các tướng soái có công lớn trong việc dẹp loạn sẽ lấn át chủ. Đường Đại Tông có lần tự mình nói với con gái, cũng là con dâu của Quách Tử Nghi - Thăng Bình công chúa rằng: “Quách Tử Nghi không chịu làm thiên tử thì mới chưa làm hoàng đế, nếu ông ta mà muốn đoạt lấy thiên hạ thì chắc chắn thiên hạ sẽ không còn là của nhà ta nữa". Để phòng ngừa việc hoàng quyền rơi vào tay kẻ khác, Đường Đại Tông (bao gồm cả các đời vua nhà Đường sau này) càng ngày càng tăng mối hiềm nghi đối với các tướng soái chính. Chiến tranh dẹp loạn vừa kết thúc thì Quách Tử Nghi cũng bị tước bỏ mất quân quyền; Lý Quang Bật không dám vào triều, lo buồn mà chết, vị phó nguyên soái cuối cùng Phó Cố Hoài ân cũng suốt ngày lo buồn, đành phải lo bảo tồn dư bộ.
Đúng vào lúc nhà Đường cho rằng thiên hạ thái bình thì Thổ Phồn đã dẫn theo hơn 20 vạn quân rầm rộ Đông tiến vào tháng 7 cùng năm mà quân An - Sử đầu hàng, chỉ trong 3 tháng đã đánh đuổi được Đường Đại Tông, chiếm cứ Trường An, ngang ngược cướp sạch. Một người thẳng thắn vô tư, trung tâm ái quốc như Quách Tử Nghi thấy thế vội vàng dũng cảm đứng ra dùng uy thế quân đội và sự mưu trí của mình để lấy ít thắng nhiều, đánh lui được quân Thổ Phồn. Đường Đại Tông trở về Trường An, tuy biết rằng Quách Tử Nghi lại có công nhưng mối hiềm nghi với các tướng soái chỉ tăng lên chứ không giảm đi. Quách Tử Nghi lại bị bỏ không, không dùng đến. Phó Cố Hoài ân vì sợ mà làm phản, nhà Đường lại phải đối diện với nguy cơ lớn hơn.
Bắt đầu từ năm 764 sau Công nguyên, Phó Cố Hoài ân công khai phản lại nhà Đường, nhiều lần tấn công quan quân, làm nhà Đường ăn không ngon ngủ không yên. Năm 765 sau Công nguyên, Phó Cố Hoài ân lại tập hợp quân Thổ Phồn, Hồi Ca được hơn 60 vạn binh mã tiến hành Nam Hạ. Đường Đại Tông vô cùng kinh sợ, lại đành phải dùng Quách Tử Nghi, lệnh cho ông dẫn đầu vạn binh mã tiến về Kinh Dương (phía Tây bắc Kinh Dương - Thiểm Tây ngày nay) để ngăn chặn.
Trong thời gian hai quân đánh nhau, Phó Cố Hoài ân bất ngờ bệnh nặng chết, Thổ Phồn và Hồi Ca vẫn tiếp tục uy hiếp Kinh Dương.
Quách Tử Nghi lệnh cho tướng Lý Quang Toán đến doanh trại của Hồi Ca. Quân Hồi Ca đã từng nhận lời mời của Phó Cố Hoài ân giúp đỡ quân Đường đứng đầu là Quách Tử Nghi thu lại được hai kinh nên rất tôn sùng Quách Tử Nghi, đồng thời cũng đã có hiệp ước đồng minh với nhà Đường. Lý Quang Toán trách Hồi Ca đã bội ước, thất tín. Sau đó nói, giờ đây Phó Cố Hoài ân đã bị trời tru, Quách lệnh công Quách Tử Nghi đóng quân ở đây, nếu tự nguyện nối lại tình hữu nghị lúc trước thì xin hãy cùng tấn công Thổ Phồn, còn nếu đã quyết bội ước thì xin hãy định ngày quyết chiến.
Đô đốc Hồi Ca là Dược Cát La nghe xong kinh sợ hỏi rằng: “Quách lệnh công đến đây rồi? Có thể gặp một lần được không! E rằng ngươi đến để lừa ta!".
Lý Quang Toán đáp: "Chính Quách lệnh công đã phái tôi đến đây thì sao lại nói là Quách Tử Nghi không ở đây?".
Dược Cát La nói. "Lệnh công quả là ở đây thì xin mời đến gặp mặt".
Lý Quang Toán quay về báo với Quách Tử Nghi. Quách Tử Nghi nghĩ địch thì đông mà ta thì ít, khó mà thắng được. Nếu nhà Đường làm cho Hồi Ca tin rằng sẽ vẫn tín nhiệm họ như trước thì có khả năng khiến cho họ chọn biện pháp ký hòa ước để giải quyết quan hệ giữa Đường - Hồi. Mà hiện nay tương quan lực lượng giữa hai bên nghiêng về phía Hồi Ca, nếu để xảy ra binh đao thì chỉ cần không cẩn thận một chút thôi cũng có thể khiến cho mình và Đại Đường gặp phải một tai họa lớn. Làm thế nào mới có thể khiến Hồi Ca tin vào sự tín nhiệm nhà Đường và quân Đường đối với họ đây? Quách Tử Nghi suy nghĩ lại, quyết định dùng kế "Khổ nhục thị tín".
Quách Tử Nghi quyết định tự mình đến doanh trại Hồi Ca.
Đây quả là một việc mạo hiểm nên các tướng đều khuyên không nên đi. Nhưng Quách Tử Nghi nói với họ rằng: "Nếu ta không đi thì ngang với việc Lý Quang Toán đã lừa Hồi Ca. Quân Hồi Ca tức giận tấn công thì quân ta thế cô lực yếu tất sẽ không có đường sống. Nay ta đứng ra đối mặt với sự lợi hại thì mới có khả năng không đánh mà thắng".
Các tướng chẳng còn cách nào khác nhưng nhất trí yêu cầu chọn 500 kỵ binh tinh nhuệ đi theo để đề phòng chuyện bất trắc. Quách Tử Nghi kiên quyết không đồng ý: "Ta một mình một ngựa ung dung đi đến thì quân Hồi Ca mới tin vào thành ý của ta. Nếu mang theo kỵ binh tinh nhuệ thì quân Hồi Ca làm sao dám ký hồi ước. Thêm nữa, 500 kỵ binh đứng trước 10 vạn mãnh hổ thì làm được việc gì đây?". Nói xong chỉ đem theo một số kỵ binh lên ngựa đi thẳng.
Con trai thứ ba của Quách Tử Nghi là Quách Hi vội vàng chạy lên phía trước giữ ngựa lại khuyên rằng. "Phụ thân là bậc đại nguyên soái của đất nước, sao lại coi nhẹ việc vào hang hùm, ngộ nhỡ có việc gì xảy ra thì hối hận cũng không kịp nữa rồi!". Quách Tử Nghi nói "Với tình thế hiện nay thì dù cho ta có tử chiến với họ cũng chỉ có thể làm cho cha con ta đều chết, Đại Đường khó mà bảo toàn. Còn nếu khuyên được họ thì thực là cái may mắn của đất nước, vì hạnh phúc của muôn dân thì tiếc chi sự an nguy của một mình lão già này? Thắng lợi lần này chỉ có thể hy vọng vào kế sách biết là nguy hiểm mà cố ý làm cho không nguy hiểm". Nói xong vung roi rút tay Quách Hi ra, hét lên: "Đi!", thúc ngựa phi nước đại thẳng tiến về phía doanh trại Hồi Ca.
Người Hồi Ca thấy Quách Tử Nghi đơn thương độc mã đến, nhao nhao xuống ngựa bái kiến. Quách Tử Nghi vào doanh trại của địch mà thần thái tự nhiên như đi gặp một người bạn cũ có chút lỗi lầm, nắm chặt tay thủ lĩnh Hồi Ca là Dược Cát La, khẩn thiết nói cho ông ta hiểu về tình về lý. Đồng thời nói thêm rằng quân Thổ Phồn đã thừa lúc loạn lạc vào thành cướp bóc vô số của cải của nhà Đường. Chỉ cần Hồi Ca đồng ý thì nhà Đường sẽ để cho Hồi Ca tùy ý lấy lại và sẽ thuộc về họ.
Dược Cát La thấy Tử Nghi một mình một ngựa đến, lại trước sau như một coi mình là người bạn trung thực nên mới nói ra nguyên nhân và nội dung ông ta bị Phó Cố Hoài ân lừa dối: Hoài ân nói rằng thiên tử nhà Đường chết rồi, Quách lệnh công cũng đã hy sinh thân mình. Nay để báo đáp lòng tin của lệnh công, nguyện cùng Quách Tử Nghi thề chết lập minh, kết tình hữu hảo, cùng nhau tấn công Thổ Phồn.
Thủ lĩnh Thổ Phồn sau khi biết được tin báo đó, vội vàng dẫn quân bỏ chạy. Hồi Ca và quân Đường cùng nhau truy kích, Thổ Phồn chạy tan tác. Nhà Đường đã chuyển nguy thành an. “Khổ nhục kế" vốn là một kế lừa dối tuyệt mật, Quách Tử Nghi một mình một ngựa bày tỏ lòng tin, không sợ hiểm nguy nên đường đường chính chính được coi là kế "quang minh". Quách Tử Nghi quả không hổ là một danh tướng quang minh lỗi lạc và tài ba trong việc dùng diệu kế. Trong kinh doanh thương mại việc vận dụng kế "khổ nhục thị tín" cũng rất đa dạng. Dưới đây là một ví dụ đáng để làm tấm gương.
Ở miền Tây Philadenphia của Mỹ có hai cửa hàng đối địch với nhau, một cái là cửa hàng thương mại New York, một cái là cửa hàng thương mại châu Mỹ. Hai cửa hàng ở sát cạnh nhau, hai ông chủ cửa hàng là những kẻ thù không đội trời chung trong cuộc cạnh tranh giá cả kịch liệt.
Trên cửa sổ của cửa hàng New York có dòng chữ: "Bán chăn bằng sợi đay, chất lượng tốt, hoàn mỹ, giá cả phải chăng mỗi chiếc 6,50 đô la". Ngay sau đó trên cửa sổ của cửa hàng châu Mỹ xuất hiện dòng chữ: "Mọi người hãy xem kỹ, chăn của cửa hàng chất lượng hàng đầu thế giới, giá 5,95 đô la".
Không chỉ cạnh tranh thông qua việc quảng cáo mà họ còn thường xuyên phá đám, chửi bới, thậm chí còn đánh nhau. Sau cùng, một người trong số họ sẽ rút lui khỏi cuộc cạnh tranh, rêu rao rằng ông chủ cửa hàng kia là người điên, một kẻ điên sẵn sàng phá sản để đánh đổ "tôi", ai mua hàng ở đó cũng là kẻ điên. Thế là mọi người chen chúc nhau đi sang cửa hàng đã giành được phần thắng, đi thẳng đến để mua hết loại có "giá phá sản". Mọi người ở vùng này đều thấy vì hai người đó không ngừng cạnh tranh mà họ mua được hàng hóa đẹp giá lại rẻ.
Song có một hôm, một trong hai ông chủ của hai cửa hàng đó mất. Sau vài hôm, ông chủ còn lại đóng cửa hàng, chuyển nhà đi nơi khác. Mọi người không thấy hai ông đâu nữa. Khi người chủ mới của căn nhà đến thanh lý mới phát hiện ra giữa hai căn nhà đó có một đường ngầm thông nhau, cửa hàng của họ ở phía dưới căn buồng đó. Sau khi điều tra thì hóa ra hai ông chủ đó lại là anh em với nhau.
Chửi mắng, dọa nạt và những sự công kích khác là cái gì?
Thực ra tất cả chỉ là biểu diễn "lò xo" mà thôi. Tất cả những việc làm tổn hại đến nhân cách đều là lừa dối, ai giành được “thắng lợi" thì người đó cũng là người làm cho hàng hóa của cả hai cửa hàng bán chạy.
Trong kinh doanh của hai anh em họ có xen "khổ nhục kế” và đã lừa được mọi người hơn 30 năm. Hàng mà họ bán ra có thể chỉ là hàng loại hai, giá thì cao nhưng thủ đoạn dùng mưu kế của họ thì lại hơn cả loại "hàng đầu” .

 
Chương 64
Phân hóa để làm tan rả, phá từng thứ một


Sau khi trải qua 8 năm loạn An - Sử, vương triều Đường đã sức cùng lực kiệt nên đành phải chấp nhận sự đầu hàng của phiến quân, cho phép chúng làm Tiết độ sứ ở đó, cát cứ một phương. Vào thời Đường Huyền Tông ở biên giới đã có 10 Tiết độ sứ. Trong quá trình dẹp loạn, để tiện cho việc đánh trận, trù lương lại có thêm hàng loạt các vị Tiết độ sứ ở Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Tây, Hà Nam, Sơn Đông; để chống lại nguy cơ lợi dụng sơ hở để xâm nhập của Thổ Phồn, lại có thêm rất nhiều Tiết độ sứ ở Hà Tây, Lũng Hữu, Tứ Xuyên và thêm cả An sứ dư bộ, cả nước đã có tới 40 Tiết độ sứ. Đường Đại Tông luôn luôn nghi kỵ công thần, lại sợ các tướng soái có quyền hành lớn sẽ bắt chước An Lộc Sơn phản chủ, không những không áp dụng những biện pháp mạnh để hạn chế tập quyền mà ngược lại còn nhân nhượng vô nguyên tắc đối với các Tiết độ sứ có binh lực mạnh. Một số người có thế lực còn công khai yêu cầu quyền kế thừa Tiết độ sứ phải là cha truyền con nối hoặc do các tướng sĩ lập nên. Sau đó dứt khoát không chịu nghe theo sự bổ nhiệm của triều đình. Bọn họ tập trung đại quyền: quân đội, chính trị, của cải vào mình, trở thành nước trong nước. "Từ quốc môn" (chỉ kinh thành) trước đây đều đã phân chia thành phương trấn rồi. Điều đó có nghĩa là cục diện "Phiên trấn cát cứ”, kéo dài từ loạn An - Sử cho đến khi nhà Đường bị diệt vong. Từ đó trở đi, cuộc đấu tranh giữa các thế lực cát cứ địa phương với chính quyền trung ương nhà Đường chưa bao giờ ngừng lại dù chỉ một khắc và đã trở thành một trong những nội dung chủ yếu của lịch sử nhà Đường.
Năm 773 sau Công nguyên, Tiết độ sứ Ngụy Bác vì để dụ dỗ các tướng lĩnh thân cận của An - Sử đến đầu hàng mình nên không thèm để ý đến ý kiến của triều đình, đã công nhiên lập "Tứ thánh từ" cho cha con An - Sử để tưởng nhớ đến bạn cũ, lại còn yêu cầu Đường Đại Tông phong cho mình chức Tể tướng. Đường Đại Tông tuy trong lòng rất tức giận bất bình nhưng chẳng còn cách nào nên vẫn phải phong cho ông ta làm Tể tướng, gả con gái mình là Vĩnh Lạc công chúa cho con trai ông ta.
Đầu năm 775 sau Công nguyên, Điền Thừa Tự công thành đoạt dã, ngạo mạn vô lễ chọc giận rất nhiều Tiết độ sứ. Thành Đức Tiết độ sứ Lý Bảo Thần, Tri Thanh Tiết độ sứ Lý Chính Kỷ chủ động cầu xin nhà Đường đồng ý đánh dẹp Điền Thừa Tự. Đường Đại Tông cũng muốn nhân cơ hội này trừ bỏ Điền Thừa Tự, vì thế đã hạ lệnh cho Tiết độ sứ Ngụy Bác từ bốn phía bao vây để tiêu diệt Điền Thừa Tự.
Điền Thừa Tự tuy dũng mãnh hơn người nhưng không thể lấy ít địch nhiều. Sau vài lần giao chiến, cháu của ông ta là Điền Duyệt bị đại bại, kiêu tướng Lô Tử Kỳ bị bắt làm tù binh, các phó tướng Hoạch Vinh Quốc, Bùi Chí Thanh lần lượt phản bội, quân Đường từ bốn mặt hợp vây. Lý Bảo Thần và Lý Chính Kỷ đã hợp binh ở một nơi, chuẩn bị cắt ngang Ngụy Bác. Điền Thừa Tự thấy vậy vô cùng hốt hoảng, nhưng trong lúc khẩn cấp bỗng nghĩ ra kế "Phân hóa để làm tan rã, từng bước đột phá" để hóa giải thế bao vây chặt và chặn ngang lưng.
Tháng 9, Điền Thừa Tự lệnh cho một số binh lính lần lượt ngụy trang thành binh sĩ của Lý Bảo Thần và Lý Chính Kỷ, sau đó truyền bá cho nhau về chuyện thưởng phạt, lương hưởng bên này nhiều bên kia ít để gây mâu thuẫn, thực hiện kế ly gián. Quân lính của Lý Chính Kỷ nghe nói quân Thành Đức được đãi ngộ hậu hĩnh thì bắt đầu có lời oán thán. Lý Chính Kỷ sợ binh lính bất ngờ làm phản vội vàng lui binh. Lý Bảo Thần thấy thế cũng rút lui theo. Thế là Điền Thừa Tự đã trừ bỏ được mối nguy hiểm "bị chém ngang lưng" đồng thời kéo rộng lỗ hổng của vòng vây ở hai phía tây bắc và tây nam, chiến cục bất ngờ dịu đi.
Tháng 10, Điền Thừa Tự lại sai người đem những con số về quân số, số áo giáp và binh khí, quân lương đi du thuyết Lý Chính Kỷ: "Thừa Tự tuổi đã quá 80, sắp đến lúc chết rồi. Các con chẳng ra gì mà cháu là Điền Duyệt thì càng bất tài. Những gì hôm nay ông ấy làm chẳng qua cũng chỉ là cơ sở để sau này người xây dựng sự nghiệp lớn. Người cần gì phải hao binh tổn tướng để tự hủy hoại cơ nghiệp của mình?". Lý Chính Kỷ nghĩ lại thấy Điền Thừa Tự cũng đã 70-80 tuổi, con của ông ta thì chẳng phải đối thủ của mình, gia nghiệp Điền Thừa Tự sớm muộn gì chẳng về tay mình, thế là vô cùng vui sướng, án binh bất động. Các đạo quân Hà Nam ở gần Lý Chính Kỷ cũng vì thế mà không dám tiến lên.
Chiến tranh phía nam tạm dừng, Điền Thừa Tự cũng trừ được mối lo ở phía nam, thoát khỏi tình thế bất lợi bị bao vây tấn công, tập trung được lực lượng để lo phòng ngự phía bắc.
Mối đe dọa ở phía bắc chủ yếu là từ Thành Đức quân Lý Bảo Thần và Phạm Dương quân Chu Thao. Điền Thừa Tự thừa hiểu rằng Lý Bảo Thần muốn có được địa bàn của Chu Thao - cố hương Phạm Dương. Vì thế ông ta bí mật sai người chôn một hòn đá trong thành Phạm Dương, trên đó có khắc hai câu: “Nhị đế đồng công thế vạn toàn, tướng Điền vi lữ nhân uyến". Sau đó lại sai thuật sĩ đi nói với Lý Bảo Thần rằng Phạm Dương có thiên tử khí, nên cố gắng giành lấy, đồng thời đem theo hòn đá chôn trước đó vừa đào được cho Bảo Thần xem. Lý Bảo Thần xem bài văn trên đá, nhất thời không hiểu nghĩa. Vừa lúc đó Điền Thừa Tự gửi tới một bức thư, hẹn cùng với Lý Bảo Thần cùng nhau liên kết tấn công Phạm Dương, sau khi giành được Phạm Dương sẽ thuộc về Bảo Thần, Điền Thừa Tự thì chỉ là "lân bang". Lý Bảo Thần thấy lời của thuật sĩ, bài văn trên đá và thư của Điền Thừa Tự hoàn toàn giống nhau, chắc chắn là ý trời đã định, liền phái đội quân tinh nhuệ đánh Phạm Dương. Một mặt đốc thúc Điền Thừa Tự nhanh chóng dẫn binh đến vây đánh. Điền Thừa Tự lại gửi thư tới nói rằng: “Trong thành đang có loạn lạc, không có cách nào dẫn quân tới được. Chữ viết trên tảng đá chỉ là nghi ngờ thôi chứ không phải là sự thực." Lý Bảo Thần thấy vậy vô cùng tức giận, Chu Thao đã quay trở về thành Phạm Dương trấn thủ nên Lý Bảo Thần đành phải rút quân về, không những không đánh được Điền Thừa Tự mà còn phải đề phòng Điền Thừa Tự đến tiến công mình.
Lúc ấy, Điền Thừa Tự giải quyết được nguy cơ ở phía Bắc, thế trận bao vây của nhà Đường đã bị thất bại. Điền Thừa Tự lại dâng biểu tạ tội, Đường Đại Tông một lần nữa không có cách nào khác đành miễn tội cho Điền Thừa Tự và khôi phục lại quan tước cho ông ta. “Nhân hóa tan rã, trúc nhất đột phá" là kế tốt để bảo toàn lực lượng, hóa giải trùng vây không tốn giọt máu nào, chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong cạnh tranh kinh tế, tình huống đối mặt với nhiều đối thủ là rất nhiều, do vậy dựa vào kế này để giải thoát khó khăn biến yếu thành mạnh là vô cùng cần thiết.
Ở Tây âu có 3 công ty A, B, C cùng kinh doanh một mặt hàng như nhau. Trong đó công ty A lớn nhất, thực lực hùng hậu nhất. Còn hai công ty nhỏ B, C trước thế lực đàn áp của công ty A dần dần nảy ra ý phản kháng. Tuy thực lực lực của công ty A hùng hậu nhưng nếu liên hợp với B và C thì rất khó, đừng nói gì sát nhập 2 công ty mà ngay cả duy trì thị trường trước mắt e rằng chẳng được. Do vậy, công ty A đã áp dụng sách lược "phân hóa để làm tan rã, đánh đổ từng thứ".
Một hôm, đại diện đàm phán của công ty A chủ động tới gặp công ty B tiến hành đàm phán. Đại diện của công ty A tiết lộ ý của công ty C, nói là công ty C đã đề xuất yêu cầu tiến hành hợp tác với công ty A, hy vọng vấn đề này sẽ giải quyết sớm, đồng thời cho rằng toàn bộ thị trường sẽ do hai công ty tự do phát triển. Sau đó công ty A đề xuất với công ty B: công ty A tuy ngầm liên hợp với công ty C đối kháng công ty B, nhưng suy nghĩ kỹ vẫn muốn hợp tác với công ty B vì quí công ty có tương lai hơn. Đợi sau khi giành được thị trường của công ty C, chúng ta sẽ chia đôi, không biết ý kiến của quí công ty thế nào.
Sau khi thảo luận nghiêm túc, công ty B thấy bản thân không thể đối kháng được công ty A, huống hồ cả công ty A và C hợp lại, cho nên đồng ý liên minh với công ty A.
Ngày hôm sau, cuộc đàm phán diễn ra, người phụ trách công ty B ngồi vào đàm phán và nói "Vô cùng cảm ơn thành ý hợp tác của lãnh đạo công ty nhưng ý kiến chia 50/50 mà công ty đưa ra chúng tôi không dám nhận, cứ dựa vào thực lực thì chúng tôi chỉ lấy 40 thôi". Cuộc đàm phán đã đạt được thành công tốt đẹp.
Không lâu sau thị trường của công ty C nhanh chóng rơi vào tay của 2 công ty A, B. Nhưng cũng cách đó chẳng lâu, công ty B hoàn toàn tuyên bố phá sản. Thị trường Tây âu bị công ty A thống lĩnh.
 
Chương 65
Linh hoạt cơ động, dùng vật này vào việc khác


Thầy giáo hỏi: “cốc trà dùng để làm gì?".
Học sinh đáp: "Uống nước".
Thầy giáo cầm cốc trà lên, nhấp một hớp rồi nói: "Đúng mà cũng không đúng".
Học sinh không hiểu gì cả.
Thầy giáo tiếp tục giải thích: "Trong những trường hợp thông thường, cốc trà dùng để uống trà, vì thế ta mới nói “Đúng". Một trận gió nổi lên, cuốn bay tập giáo án trên bàn, thầy giáo liền cầm cốc trà chặn lên tờ giấy đang bay đó. Sau đó nói: "Trong những tình huống đặc biệt, các trò xem cốc trà còn có thể làm hòn chặn giấy. Cốc trà còn có thể làm đồ thủ công mỹ nghệ để thưởng thức, thậm chí còn có thể làm vũ khí để giết đối thủ..."
Học sinh đã hiểu được mưu kế mà thầy giáo muốn nói: “Linh hoạt cơ động, vật này dùng vào việc khác".
Năm Đại Lịch thứ 14 (năm 779 sau Công nguyên) Đường Đại Tông chết, Đường Đức Tông Lý Thích lên ngôi. Lúc đó trong triều đình đang lo thù trong giặc ngoài, cục thế hỗn loạn. Đường Đức Tông muốn cải cách, xóa bỏ các tệ nạn chính trị, vì thế đã chỉnh đốn bộ máy quan lại, bỏ chức hoạn quan, thu xếp tài chính, cải cách thuế quan, tiến hành hai luật thuế, làm cho ngân khố nhà Đường tăng lên đáng kể. Ông cũng cải thiện lại mối quan hệ với Thổ Phồn, Hồi Ca, dự định nhân cơ hội đó xóa bỏ tình trạng cát cứ, cha truyền con nối để tăng cường chế độ tập quyền trung ương, phục hưng Đường thất. Nhưng Đường Đức Tông lại là người bướng bỉnh, hành động thiếu suy nghĩ, sự nghi kỵ với các công thần tướng soái thậm chí còn hơn cả Túc Tông, Đại Tông. Vì thế tuy là có ý định tốt nhưng kết quả là càng làm cho tình trạng cát cứ càng ngày càng nghiêm trọng, không ít phiên trấn đã liên kết với nhau chống lại nhà Đường, tự xưng đế vương.
Năm Kiến Trung Đường Đức Tông thứ 4 (năm 783 sau Công nguyên), Hoài Tây Tiết độ sứ Lý Hi Liệt cùng với một loạt các Tiết độ sứ khác liên kết với nhau cắt đứt đường lương thực của nhà Đường từ Đông Nam, dẫn phiến quân tấn công Tương Thành (Tương Thành, Hà Nam), uy hiếp Lạc Dương. Đến tháng 10, tình hình Tương Thành rất nguy ngập, Đức Tông đành phải lệnh cho các đạo quân ở Kinh (phía bắc Kinh Châu, Cam Túc ngày nay) và Nguyên (Cổ Nguyên, Cam Túc ngày nay) cứu viện cho Tương Thành. Kinh Nguyên Tiết độ sứ Đào Lệnh Ngôn dẫn hơn 5000 quân đi qua kinh thành, trời mưa rét mà không được khao thưởng nên lòng quân tức giận, thế là quân sĩ bất ngờ làm phản, tấn công kinh thành, xông vào hoàng cung. Đường Đức Tông dẫn theo hậu phi và hoạn quan vội vàng bỏ chạy về phía Thiên (huyện Càn, Thiểm Tây ngày nay).
Lúc đó Chu Tỉ là một người có tiếng tăm, từng làm Kinh Nguyên Tiết độ sứ vì vào triều dâng tấu mà bị Đường Đức Tông giam giữ ở Trường An. Phiến quân Kinh Nguyên lập tức tôn Chu Tỉ làm chủ. Các đạo quân cứu viện Tương Thành vẫn chưa ra hết khỏi Đồng Quan nghe tin Trường An có binh biến cũng đều quay lại Trường An, đầu hàng chịu theo Chu Tỉ. Chu Tỉ vì thế tự xưng là "Đại Tấn hoàng đế" cải nguyên “Ứng Thiên".
Để thu phục lòng người, Chu Tỉ hi vọng tìm thấy mấy vị đại thần của nhà Đường mời đến làm thuộc hạ của ông ta. Ông ta sai người mời Đoàn Tú Thực. Đoàn Tú Thực lúc đó chỉ mới giữ chức đứng đầu tư nông, Chu Tỉ cho rằng Tú Thực là người tài mà không được trọng dụng thì nhất định sẽ theo ông ta. Vậy mà lúc Đoàn Tú Thực gặp mặt lại khuyên Chu nên làm một trung thần, đón hoàng đế về. Khi thấy Chu Tỉ đã quyết làm hoàng đế thì bề ngoài chịu ở bên cạnh nhưng vẫn ngầm để ý đến chiều hướng phát triển, sợ Chu Tỉ thừa thế truy kích Đường Đức Tông.
Quả đúng như dự liệu, việc đầu tiên sau khi Chu Tỉ nhận dược sự giúp đỡ của phiến quân là lệnh binh mã sứ Hàn Mân dẫn hơn 3000 kỵ binh tinh nhuệ, tấn công Ưng Thiên để đặt Đường Đức Tông vào đường chết. Đoàn Tú Thực biết sự tình cấp bách nên lệnh cho Linh Nhạc nghĩ cách lấy trộm binh phù của Đào Lệnh Ngôn để lừa Hàn Mân đang truy kích hoàng đế quay về, để Ứng Thiên có đủ thời gian chuẩn bị phòng ngự. Trong lúc cấp thiết như thế thì sao có thể trôi chảy được. Linh Nhạc đi mất nửa ngày mà vẫn về tay không và báo rằng việc phòng bị rất nghiêm ngặt nên không có cách nào ra tay.
Đoàn Tú Thực trong lúc khẩn cấp bỗng nghĩ được kế hay, lấy giấy bút ra viết ký hiệu lên, sau đó khắc dấu của mình, giao cho thuộc hạ cấp tốc đuổi theo Hàn Mân.
Hàn Mân đã đến Lạc Cổ Dịch (Tây Nam Chu Trí, Thiểm tây ngày nay) thì thuộc hạ của Đoàn Tú Thực đuổi kịp. Hàn Mân nhìn thấy binh phù được đóng dấu của bộ nông khanh, chẳng hiểu ra sao vội vàng trở về Trường An. Thế là Đường Đức Tông tránh được một tai họa bị tấn công sát hại lớn.
Con dấu của bộ nông khanh vốn là để chỉ đạo việc nông nghiệp, Đoàn Tú Thực đã linh hoạt cơ động, trong tình thế khẩn cấp lại dùng để chỉ huy quân sự. Chính vì kế vật này dùng vào việc khác Đoàn Tú Thực nghĩ ra lúc cấp bách mà Đường Đức Tông đã bảo toàn được tính mạng.
Có thể nói rằng trên đời này bất cứ vật gì cũng đều có nhiều công năng. Nhưng khi tác dụng thông dụng của một vật nào đó đã ăn sâu vào trong nhận thức mọi người thì những tác dụng khác bị gạt bỏ ra ngoài. Nếu "linh hoạt cơ động, dùng vật này vào việc kia" thì có thể định ra biện pháp thích hợp cho từng nơi, sử dụng được hết các công năng của vật. Trong những trường hợp khẩn cấp nó là diệu kế có thể chuyển nguy thành an, hóa dữ thành lành. Trong kinh doanh thương mại, việc vận dụng kế này còn có thể đem lại những cục diện thần kỳ không ngờ tới.
Hamuwei là chủ một cửa hàng nhỏ chuyên buôn bán các loại bánh ngọt ở Ai Cập. Năm 1904, ở bang Louisiana (Mỹ) tổ chức một triển lãm quốc tế. Trong thời gian diễn ra triển lãm, ông bị sắp xếp bán bánh quế ở phía ngoài. Bên cạnh gian hàng bánh quế của ông là một tiểu thương bán kem. Triển lãm diễn ra đúng vào dịp hè, tiết trời oi bức nên kem bán rất chạy. Vì có quá nhiều người chen nhau mua kem nên đĩa đựng kem không đủ, có những khách hàng phải đợi người khác ăn xong trả lại đĩa thì mới tới lượt mình mua.
Ngược lại, bánh quế của Hamuwei thì lại phải chịu sự lạnh nhạt của mọi người. Ông nhìn thấy cảnh kem bán chạy như vậy thì đã nhạy cảm nghĩ ngay đến việc cuộn cái bánh quế lại thành hình nón, lật ngược "nón" lại thì chẳng phải có thể đựng kem sao?
Khách hàng thấy ăn kem đựng trong những cái bánh quế cuộn lại có vẻ ngon hơn là chỉ ăn không lại đỡ phải đợi, phải trả lại đĩa. Bánh quế đựng kem nhận được sự hưởng ứng ngoài sức tưởng tượng, lập tức trở nên thịnh hành ngay và còn được nói đùa là "minh tinh thật sự" của lần triển lãm này.
Kem ốc quế mà mọi người thích ăn đã ra đời như vậy. Bản quyền phát minh ra nó thuộc về Hamuwei, một người "linh hoạt cơ động dùng vật này vào việc khác".
 
 
Chương 66
Chìa này mở khóa kia


Năm 805 sau Công nguyên, Đường Hiến Tông Lý Thuần lên ngôi, vì ông dùng những quyết sách đúng đắn của những người như Lý Giáng, thêm vào đó "hai luật thuế" của nhà Đường cũng làm tăng thêm nguồn thu cho ngân khố, cấm quân trung ương từng bước mạnh dần lên, do đó trong cuộc đấu tranh bình định phiên trấn cát cứ cũng giành được không ít thắng lợi, xoay chuyển được cục diện vốn rất bị động trước đây.
Thời kỳ đầu mới lên ngôi, có rất nhiều phiên trấn kháng mệnh. Tây Xuyên Tiết độ sứ Vi Cao bị bệnh chết, Lưu Tịch tự lập mình làm người thay thế, đuổi Tiết độ sứ mới mà nhà Đường bổ nhiệm, cuối cùng cũng buộc được Đường Hiến Tông phải công nhận ông ta là Tiết độ sứ Tây Xuyên. Năm 806 sau Công nguyên, Lưu Tịch được đằng chân lân đằng đầu không để ý đến ý kiến của nhà Đường, phát binh tấn công chiếm địa bàn Đông Xuyên. Các công khanh cho rằng cách làm trước đây vào thời Đường Đức Tông là phái Trung sứ đi tìm hiểu tình hình, nếu thấy ông ta thực sự có tài năng, có thể trọng dụng được (các Trung sứ thường nhận hối lộ, nói toàn điều hay) thì dùng. Nếu không làm theo lệ cũ đó mà phái quân đi trấn áp Tây Xuyên, giữa đường phải đi qua Thục đạo rất nguy hiểm, gian nan thì khó mà giành được thắng lợi.
Tể tướng Đỗ Hoàng Thường vẫn kiên quyết chủ trương dùng binh cho rằng: "Nếu bệ hạ muốn chấn chỉnh kỷ cương, thiết lập quyền uy thì phải dùng pháp luật để xử lý Lưu Tịch, Lưu Tịch cũng chỉ là một kẻ thư sinh ngu dại, trừ hắn dễ như nhổ cỏ vậy”.
Vốn là Đường Hiến Tông cũng không thể nhịn được Lưu Tịch nữa nên đồng ý ngay với cách nghĩ của Đỗ Hoàng Thường, lệnh cho Cao Sủng Văn dẫn quân đi diệt Lưu Tịch. Sự việc quả nhiên rất thuận lợi Lưu Tịch bị giải ngay đến kinh đô để chịu phạt, từ đó Tây Xuyên yên ổn.
Sau khi Đường Hiến Tông bình định được Tây Xuyên, ngay lập tức dùng vũ lực nhanh chóng tấn công tiêu diệt trấn Hạ Tuy (thuộc huyện Tịnh Biên, Thiểm Tây ngày nay), bắt được Trấn Hải (Trấn Giang ngày nay) Tiết độ sứ Lý Kỳ vốn không nghe lệnh triều đình. Vì thế mà uy tín của nhà Đường ngày càng được tăng lên. Thế nhưng việc đó tuy làm tăng thêm lòng tin vào việc Đường Hiến Tông dẹp yên được phiên trấn nhưng lại làm ông phát sinh tư tưởng khinh địch.
Tháng 3 năm 809 sau Công nguyên, Thành Đức Tiết độ sứ Vương Sĩ Chân chết, con trai ông ta là phó đại sứ Vương Thừa Tông tự cho mình là người thế chức. Đường Hiến Tông đã thừa thế tiêu diệt được 3 trấn muốn có thêm những thành tích mới, trừ bỏ tập quán cha truyền con nối hàng chục năm của các cường trấn ở Hà Bắc, dẹp yên Thành Đức nhưng Lý Giáng kiên quyết không đồng ý.
Lý Giáng phân tích với Đường Hiến Tông rằng, phương châm dùng vũ lực nhanh chóng bình định Tây Xuyên, Trấn Hải và Hạ Tuy của bệ hạ là đúng đắn. Vì Lưu Tịch là một thư sinh ngu dại, binh lực của Hạ Tuy yếu, lòng dân không theo Lý Kỳ. Hơn nữa xung quanh 3 trấn đó đều là những tiết trấn và châu quận chịu sự khống chế của triều đình, tình thế cô lập nên dùng vũ lực để giải quyết thì ngay lập tức có thể làm tan rã. Nhưng tình hình ở Hà Bắc thì lại không như vậy. Nội bộ quân Thành Đức rất đoàn kết và đã thành truyền thống, phía ngoài thì có quan hệ mật thiết với các trấn ở xung quanh. Để con cháu họ có thể thế chức Tiết độ sứ của ông cha thì họ đương nhiên sẽ đồng tâm hiệp lực với nhau để chống lại triều đình. Nếu cũng dùng vũ lực đối với Thành Đức như 3 trấn kia thì vừa tổn binh hao của lại khiến cho các nước lân cận thừa cơ tấn công, vậy là nền thái bình vừa mới khởi sắc đã tan biến trong một sớm một chiều.
Đường Hiến Tông cảm thấy những điều Lý Giáng phân tích cũng có lý nhưng lại nghĩ đến việc cha truyền con nối ở Thành Đức không thể giải quyết nhanh chóng như 3 trấn trước thì vẫn cảm thấy không thoải mái. Mà chính sách thay đổi nhiều, trước thì cứng rắn sau lại mềm yếu thì có vẻ mất phong thái của một hoàng đế.
Lúc đó Hoài Tây Tiết độ sứ Ngô Thiếu Thành cũng mắc bệnh nặng nhưng chưa chết. Lý Giáng lại phản đối thái độ với Thành Đức một lần nữa, ông nói với Đường Hiến Tông: Ngô Thiếu Thành một khi đã bệnh thì không thể dậy được. Mà xung quanh trấn Hoài Tây đều là châu huyện của nước ta, các trấn gần đó chẳng có trấn nào có thể trợ giúp được, triều đình nên nhanh chóng chỉnh đốn quân đội xuất kích, không thể bỏ lỡ cơ hội. Nhưng cần phải chú ý một điều là không bao giờ được dùng binh đối với Thành Đức lúc này, vì nếu không thì không thể công hạ được Thành Đức mà còn ảnh hưởng đến việc giành thắng lợi ở Hoài Tây, hai phía đều xảy ra chiến trận tất sẽ gặp khó khăn.
Không ngờ Đường Hiến Tông lại cho rằng đã đánh được Hoài Tây, có thể giành được thắng lợi ở 3 trấn như Tây Xuyên... thì sao lại không đánh Thành Đức! Vì thế đã nghe theo sự xúi giục của hoạn quan mà không nghe lời khuyên của Lý Giáng, Bạch Cư Dị,... hạ lệnh dùng binh với Thành Đức năm 809. Kết quả là sau mười tháng, huy động gần 20 vạn binh, tiêu tốn hơn 700 vạn xâu tiền, hao binh tổn tướng, dân chúng cũng bị liên luỵ chẳng đạt được cái gì mà còn lỡ mất cơ hội kịp thời dùng binh đối với Hoài Tây.
Lúc đó, Ngụy Bác Tiết độ sứ Điền Quý An chết, phu nhân của ông ta Nguyên Thị đã lập con trai là Điền Hoài Gián làm phó Tiết độ sứ, Nha Nội binh mã sứ Điền Hoằng Chính làm Đô Tri binh mã sứ. Đường Hiến Tông và một số công khanh cho rằng Điền Thị không công nhận triều đình, tự tiện phong cho con cháu của mình nên cần phải trấn áp. Lý Giáng vội đưa ra sách lược của mình đối với Điền Hoài Gián: "Ngụy Bác cũng là một trấn mạnh của Hà Bắc, lực lượng của nó vẫn mạnh như ở Thành Đức. Nhưng ta hoàn toàn có thể trừ bỏ được Điền Hoài Gián. Có điều đối với việc trừ bỏ Điền Hoài Gián không bao giờ được dùng binh. Điền Hoài Gián chỉ là một thằng nhãi vắt mũi chưa sạch, chuyện chính trị, quân sự cũng chưa thể tự mình giải quyết nên rất dễ bị người khác cướp mất. Các tướng không phục thì tất sẽ sinh ra oán hận, phu nhân của Điền Quý An nếu không bị giết thì cũng bị bắt giam. Thế nên người lãnh đạo mới không phải là họ hàng Điền gia thì chỉ có thể tìm một chỗ dựa vững chắc. Mà chỗ dựa vững chắc lớn nhất, cứng rắn nhất chỉ có thể là triều đình. Do đó, đối với Ngụy Bác, phải bình định nhưng không cần và cũng không thể dùng binh mà bọn họ cũng sẽ tự động quy phục triều đình.
Đường Hiến Tông tuy không hoàn toàn nghe theo nhưng cũng "tạm thời chờ đợi”. Sự việc quả đúng như Lý Giáng dự liệu, những người nhà Điền Thì cướp đoạt quyền hành chính trị, quân đội, tự tiện nắm quyền sinh sát nên đã làm cho các tướng sĩ nổi giận. Mọi người lại ủng hộ cho Điền Hưng (tức Điền Hoằng Chính). Điền Hưng liền yêu cầu phải tuân theo pháp lệnh của triều đình trình báo mọi chuyện, giết chết bọn Tướng Sĩ Tắc, giải Điền Hoài Gián đến trước phủ, thỉnh cầu triều đình bổ nhiệm quan sứ Ngụy Bác.
Đường Hiến Tông thấy việc quả không nằm ngoài dự đoán của Lý Giáng, không dùng binh mà vẫn dẹp yên được. Một mặt trọng thưởng cho Lý Giáng, mặt khác sai trung sứ đến Ngụy Bác an ủi, quan sát động tĩnh. Lý Giáng lại vội khuyên Hiến Tông. "Bọn Điền Hưng có sẵn đất đai, quân lính lại ngồi đợi chiếu mệnh, hà tất không nên đợi trung sứ đem theo tướng sĩ biểu dương trở về rồi mới trao chức quan cho họ? Kế này cho đến nay không nên dùng như cũ nữa mà chủ động trao chức quan, nhanh chóng bổ nhiệm Điền Hưng làm Ngụy Bác Tiết độ sứ như vậy thì Ngụy Bác đã hoàn toàn trở thành một trấn mạnh lại biết nghe theo triều đình". Đường Hiến Tông cuối cùng cũng nghe theo kế của Lý Giáng khiến Điền Hưng rất cảm kích, các tướng sĩ cũng ủng hộ nhiệt liệt. Không lâu sau, Điền Hưng chủ động xin đánh, tấn công trấn Hoài Tây đã dám chống lại triều đình, góp sức vào việc bình định Hoài Tây cho nhà Đường.
Nhà lý luận chiến lược nổi tiếng của Mỹ, ông Anderli đã từng nói: "Chiến lược không phải là một nguyên tắc đơn nhất, bất biến. Chiến lược là một phương pháp tư duy,... mỗi một tình huống đều thích ứng với một chiến lược đặc thù của nó". Trong cuốn Tôn Tử binh pháp hư thực cũng nói: "Phu binh giống như nước... Nước vì có đất mới chảy, lính vì có địch mới giành thắng lợi. Quân địch không như thế thường, nước không chảy như cũ, người có thể dành thắng lợi ngay cả khi địch biến hóa thì có thể gọi là thần". Cũng có nghĩa là phương án chế định phải tùy cơ ứng biến, căn cứ vào đặc điểm hoàn cảnh, tình hình của địch để linh hoạt ứng phó, không được cứng nhắc mà phải định ra biện pháp thích hợp cho từng nơi, không hạn chế trong một kiểu. Đây cũng chính là cái kế thần “chìa này mở khoá khác" mà chúng ta đã nói. Đường Hiến Tông không phân tích cụ thể tình hình của quân Thành Đức, làm theo cách dùng vũ lực như khi bình định ba trấn kia nên đã mất công không mà lại còn làm ảnh hưởng đến chiến dịch Hoài Tây. Lý Giáng biết căn cứ vào tình hình cụ thể từng trấn, đưa ra những biện pháp ứng phó có tính chính xác, tuy đi ngược với thông lệ, quy tắc nhưng lại như dự đoán làm chơi ăn thật.
Trong kinh doanh cũng nên "chìa này mở khóa khác" căn cứ vào tình huống khác nhau về hoàn cảnh, đối tượng mà dùng những cách tuyên truyền khác nhau, hoặc nghĩ ra cách đóng gói, chất lượng sản phẩm, giá cả khác nhau... để luôn giữ được vị trí nổi bật trong hoàn cảnh không ngừng biến đổi và những đối tượng, đối thủ khác nhau.
Nhà nghiên cứu về màu sắc của Mỹ Louis Ahn, có một lần được mời đến để thiết kế hai loại bao bì cho một công ty bánh kẹo. Một loại kẹo chuẩn bị bán cho tầng lớp bình dân, giá là 1,95 đô la; loại kia là bán cho tầng lớp trên với giá 3,5 đô la.
Tuy ông ta rất nổi tiếng nhưng mọi người đều cho rằng cách thiết kế của ông ta rất "hoang đường, ly kỳ". Vì ông định thêm một chút màu đỏ tươi vào chiếc hộp kim loại, phía ngoài buộc một sợi dây màu xanh da trời, giá thành bao bì lên đến 50 xu (cho loại kẹo giá rẻ), trong khi đó thì với loại kẹo giá những 3,5 đô la thì lại chỉ có một hộp giấy màu phấn hồng phía ngoài buộc một sợi dây màu hồng giá chỉ có 9 xu.
Có điều lạ là loại kẹo giá rẻ bán rất chạy trong tầng lớp bình dân và loại giá cao cũng rất được ưa chuộng trong giới thượng lưu. Và giới thượng lưu chẳng chú ý gì đến loại kẹo rẻ tiền, còn tầng lớp bình dân cũng chỉ thích loại kẹo có hộp kim loại.
Mọi người hỏi ông nguyên do thiết kế như vậy và hiệu quả tốt đẹp của nó. Ông nói. "Những người ăn kẹo loại đắt tiền không chú trọng bao bì vì sớm muộn gì họ cũng vứt vỏ hộp đó vào thùng rác; còn những người mua kẹo rẻ tiền thì lại rất coi trọng bao bì và thường mua làm quà tặng, họ hy vọng những cô gái đã nhận quà sẽ trân trọng món quà hơn, nếu hộp đẹp chắc còn có thể giữ lại làm hộp đựng đồ trang sức. Ngoài ra, giới thượng lưu thích biểu lộ cảm tình luôn thích những màu sắc dịu dàng, nhẹ nhàng còn những người nghèo ít có sự giáo dục thì lại rất thích những màu sắc sặc sỡ. Bao bì của hai loại kẹo đó không căn cứ vào giá cả cao thấp để thiết kế mà hoàn toàn dựa vào hai phong cách, nhu cầu, thị hiếu khác nhau để thiết kế.
 
Chương 67
Ưu đãi tù binh, mượn địch đánh địch


Thành trì bị công phá dễ nhất là từ trong nội bộ". Đúng vậy, thành trì chủ yếu dùng để phòng ngự sự tấn công bên ngoài, vì thế mà sự tấn công mãnh liệt của bên ngoài cũng không làm tổn thất một chút nào đến thành trì, còn phía trong thành trì vì không hề có bất cứ sự phòng ngừa nào, tất cả những phần hiểm yếu đều bộc lộ ra hết nên chỉ cần một quả lựu đạn là có thể đủ làm tan biến cả một thành trì vững chắc. Mưu kế dựa vào nguyên lý đó để nghĩ ra là kế "mượn địch đánh địch", tức là mượn người trong nội bộ của địch, thông thuộc tình hình, các nhược điểm và các bộ phận trọng yếu của chính địch để đánh địch, nhờ đó mà tiết kiệm được thời gian, sức lực, đã đánh là địch chỉ còn đường chết.
Vậy thì làm thế nào để có thể "mượn" được người trong nội bộ vững mạnh của địch? Trong đấu tranh quân sự luôn phải dựa vào "tù binh". Thông qua việc đối đãi tử tế với tù binh để cảm hóa họ, làm cho họ tình nguyện vì quân ta mà ra khỏi “thành trì" cũ, đồng thời ném lựu đạn lại chính "thành trì" đó. Danh tướng nhà Đường, Lý Tố là một người rất giỏi "ưu đãi tù binh, mượn địch để đánh địch".
Tháng giêng năm 817 sau Công nguyên, Lý Tố đến tiền tuyến Hoài Tây thay thế vị tướng tiền nhiệm bại trận làm Đường Đặng Tiết đột sứ. Đối địch với ông là con trai của Hoài Tây Tiết độ sứ Ngô Thiếu Dương, Ngô Nguyên Tế. Ngô Nguyên Tế có một "thành trì" rất vững chắc. Cha con Ngô Thị đã từng đóng quân ở 3 châu Thái, Thân, Quang hơn 30 năm đặc biệt là đại bản doanh Thái Châu của Ngô Nguyên Tế, trong hơn 30 năm chưa có một tên lính của triều đình nào đến được chân thành Thái Châu. Lần này Ngô Nguyên Tế vì muốn tiếp tục giữ chức Tiết độ sứ của cha nhưng lại gặp phải sự phủ quyết của nhà Đường nên đã công khai chống lại quan quân, đồng thời đánh cho tướng quân nhà Đường không tiến được bước nào. Đối mặt với quân địch hung hãn và mạnh như vậy thì phải làm thế nào? Lý Tố đã chọn cách "ưu đãi tù binh, mượn địch đánh địch".
Thủ chiến Mã An Sơn vừa lúc đi được nữa đường thì gặp tướng địch đi trinh thám phía trước là Mã Sĩ Lương tự mình dẫn xác đến. Lý Tố bày ra kế phục binh, Mã Sĩ Lương lập tức bị áp giải về doanh trại.
Trong các trận chiến trước đây các tướng đã nếm phải không ít nỗi khổ vì Mã Sĩ Lương nên đều muốn phanh thây mổ bụng ông ta để trút giận, yêu cầu Lý Tố cũng thuận theo ý họ. Đương nhiên là Lý Tố đồng ý ngay. Nhưng sau khi thấy thái độ không hề tỏ ra sợ sệt của Mã Sĩ Lương trước lưỡi dao nên không kìm được câu khen "Quả là một bậc đại trượng phu, chỉ tiếc là ngươi không biết thuận nghịch nên chết mà vẫn mang tiếng xấu. Nếu ngươi chịu thành tâm quy hàng, lập công cho đất nước thì Lý Tố ta sẽ không tính đến tội trước đây của ngươi, mà ngươi lại còn được lưu danh sử sách". Mã Sĩ Lương lập tức quỳ xuống xin hàng, nói rằng mình vốn là tướng nhà Đường, chỉ vì sau khi bị Ngô Nguyên Tế bắt lại được trọng dụng nên mới chịu đem sức lực phục vụ cha con họ Nguyên. Nay nhận được sự hậu đãi như một tướng quân nên Mã Sĩ Lương tình nguyện lập công chuộc tội với nhà Đường. Lý Tố tự tay cởi trói cho Mã Sĩ Lương, phát cho quần áo vũ khí không hề cảnh giác gì lại còn hạ lệnh phong làm thân tướng dưới trướng của mình.
Mã Sĩ Lương cảm động rơi nước mắt, biết rằng Lý Tố muốn chiếm được Văn Thành Sách nên vội vàng hiến kế: "Văn Thành Sách như cánh tay trái của Ngô Nguyên Tế nên việc phòng ngự rất nghiêm ngặt, không thể tấn công mạnh được. Thủ tướng Ngô Tú Lâm tài năng chỉ bình thường trong khi chỉ cần một kế của quân sư Trần Quang Hiệp có thể thắng được cả vạn quân. Nhưng ông ta lại có một nhược điểm chết người đó là tùy tiện hiếu chiến. Sĩ Lương tôi nguyện đi bắt Trần Quang Hiệp trước". Lý Tố lập tức cấp cho Mã Sĩ Lương 1.000 kỵ binh. Quả nhiên chưa đầy một ngày Mã Sĩ Lương đã dẫn được Trần Quang Hiệp về.
Lý Tố biết Trần Quang Hiệp là người đa mưu, không muốn giết nên cũng hậu đãi như đối với Mã Sĩ Lương. Trần Quang Hiệp lập tức viết thư khuyên Ngô Tú Lâm đầu hàng. Thế là Lý Tố chẳng mất một quân lính nào mà vẫn dành được Văn Thành Sách, quy hàng được Ngô Tú Lâm cùng toàn bộ quân sĩ. Lý Tố vẫn ưu đãi với tù binh như cũ nên vẫn để cho Ngô Tú Lâm dẫn theo thuộc hạ cố thủ ở chỗ cũ và để vợ con các tướng sĩ ở phía sau để đảm bảo an toàn cho họ.
Quân Đường từ chỗ nhiều lần thất bại thảm hại đã khôi phục lại được sĩ khí, họ đều không còn sợ Ngô Nguyên Tế nữa. Vì vậy, Lý Tố chuẩn bị tiến hành tấn công trực diện với Ngô Nguyên Tế. Ngô Tú Lâm lại hiến kế: "Nếu muốn đánh bại Ngô Nguyên Tế thì không thể không trừ bỏ Lý Hựu” .
Lý Hựu vốn là người dũng mãnh phi phàm, là tướng giỏi đắc lực nhất của Ngô Nguyên Tế. Các vị Đường Trịnh Tiết độ sứ trước đây bị bại trận là vì sự dũng mãnh vô địch của Lý Hựu. Lý Tố liền nói với Ngô Tú Lâm: "Lý Hựu là người giữ Hưng Kiều Sách, thần cũng biết ông ta là người dũng mãnh, đến lúc đó tôi nhất định sẽ bắt được ông ta về".
Bỗng có thám binh vào báo. "Quân giặc Hưng Kiều Sách đã đến thôn Trương Sài gặt lúa mì. Lý Tố vội hỏi ai là thủ lĩnh. Thám binh báo đó là Lý Hựu. Lý Tố lập tức lệnh cho Sử Dụng Thành dẫn 300 tráng sĩ mai phục trong những lùm cây ở cạnh thôn, đồng thời phái một số binh sĩ gầy yếu đi đốt lúa mì. Lý Hựu cắt xong lúa mì, đang định bó lại để mang về thì bỗng nhìn thấy quan quân đến, Lý Hựu lập tức nhảy lên lưng ngựa đuổi theo. Sử Dụng Thành chỉ giao chiến một cách qua loa, sau đó giả vờ như không đánh lại được để dẫn quân bỏ chạy. Lý Hựu bèn thúc ngựa đuổi theo, đến giữa thôn sợ có quân mai phục, Lý Hựu bèn dừng ngựa lại. Sử Dụng Thành tỏ ra lo lắng cố ý hét lên "Quân xảo trá Lý Hựu kia, ta có hàng chục triệu tinh binh đang mai phục ở đây, kẻ nhát gan như ngươi còn dám đuổi theo ta không?". Lý Hựu vốn rất coi thường quan quân, ông ta biết rằng toàn bộ binh mã của Lý Tố chẳng đáng bao nhiêu thì lấy đâu ra cả chục triệu phục binh vì thế không chịu được sự khích tướng của Sử Dụng Thành, dứt khoát thúc ngựa đuổi tiếp. Nào ngờ từ trong các lùm cây binh mã túa ra và chỉ trong nháy mắt Lý Hựu đã bị trói chặt.
Lý Tố thấy Lý Hựu bí trói được dẫn vào trong trại thì cố tình quở mắng Sử Dụng Thành: "Ta sai ngươi đi mời Lý tướng quân sao ngươi lại trói tướng quân. Mau cởi trói đi!", đồng thời mới Lý Hựu ngồi lên ghế trên, tiếp đón trọng thị, săn sóc chu đáo. Việc Lý Tố "mượn" Lý Hựu để đánh Ngô Nguyên Tế có thể nói đã rất vất vả nhưng những chuyện khó khăn, phiền phức hơn vẫn còn ở phía sau.
Lý Hựu cảm kích vì tình cảm sâu nặng của Lý Tố nên cũng cố gắng hết sức để đền đáp, hai người mới gặp nhau nhưng rất tâm đầu ý hợp, thường xuyên bàn chuyện quân cơ, có lúc đến tận nửa đêm trời sáng mới chia tay. Nhưng các tướng sĩ đã từng bị Lý Hựu đánh và truy đuổi đến tận đường cùng vốn rất thù ông ta, nay lại thấy Lý Hựu tham dự chuyện quân cơ, nắm rõ tình hình của quan quân thì đều lo lắng một khi Lý Hựu làm phản sẽ dẫn đến họa lớn. Vì thế kiên quyết đòi Lý Tố phải giết ông ta. Lý Tố không đồng ý thế là bắt đầu nổi lên làn sóng phản đối, oán trách. Lúc đó, Lý Tố đã chuẩn bị đội cảm tử quân gồm 3000 người để tấn công Ngô Nguyên Tế thì gặp phải tiết trời mưa kéo dài hai tháng liền. Quân lính liền nói đó là sự trừng phạt của ông trời vì đã không giết Lý Hựu.
Nếu vẫn không giết thì quan quân chắc chắn sẽ liên tiếp bại trận. Lý Tố hiểu rằng chỉ dựa vào lực lượng của mình thì cũng không thể "mượn" Lý Hựu được nữa rồi. Nên khóc nói với Lý Hựu:"Lẽ nào ông trời không muốn ta bình định được Chuẩn Tây sao? Tại sao người không ủng hộ chúng ta . ". Thế là đành phải đeo gông cho Lý Hựu giải về kinh thành. Đồng thời dâng thư nói: "Nếu giết Lý Hựu thì thần không thể tìm ra người có kế đánh được Ngô Nguyên Tế . May là Đường Hiến Tông cũng biết nỗi khổ của Lý Tố nên lập tức hạ chiếu phóng thích Lý Hựu đồng thời giao ông ta cho Lý Tố dùng, phong làm Lục Viện binh mã sứ.
Lý Hựu phụng chiếu thư xong khóc thề rằng sẽ giúp Lý Tố và triều đình giành được Thái Châu. Chẳng bao lâu Lý Hựu đã tìm được cách, đồng thời tự mình dẫn theo binh sĩ cùng với Lý Tố bắt sống Ngô Nguyên Tế, chiếm lĩnh được thành Thái Châu.
 
Chương 68 ( Kết )
Bắt hổ phải chờ lúc hổ ngủ say


Năm Đường Hiến Tông Nguyên Hòa thứ 10 (tức năm 815), Hoài Tây Tiết độ sứ là Ngô Thiếu Dương bị bệnh chết, con trai thứ là Ngô Nguyên Tế do triều đình không đồng ý anh ta tiếp tục nối chức vụ của cha nên đã cậy có nền tảng mấy chục năm của cha, lấy ba châu Thái, Thân, Quang phản lại triều đình. Năm 816, Đường Hiến Tông hạ chiếu đánh dẹp, Đường Đặng Tiết độ sứ Cao Hà Ngụ không địch nổi Ngô Nguyên Tế, Đường Hiến Tông lại lệnh cho Viên Tư Thủ Đại Cao Hà Ngụ dẫn quân đi dẹp loạn nhưng kết quả vẫn bị thảm bại.
Con trai của danh tướng Lý Thành là Lý Tố vào nhận chức trong cung thái tử, biết được tình hình diễn ra như vậy liền chủ động xin ra chiến đấu. Đường Hiến Tông lập tức phong cho Lý Tố làm Đường Đặng Tiết độ sứ, thay Viên Tư gánh vác trọng trách dẹp quân phản loạn.
Lý Tố vâng lệnh, trước hết anh ta đến tiền tuyến Đường Châu (nay là huyện Tất Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Thấy quân lính uể oải, mất dần nhuệ khí vì thua trận liên tiếp, anh ta liền hạ lệnh cho các tướng sĩ:
- Thiên tử biết quân ta yếu đuối nên sai ta đến đây với các ngươi. Nếu dùng vũ lực để dành phần thắng thì đó không phải là sở trường của ta. Các ngươi chi cần bình tĩnh trấn giữ biên cương ta sẽ cố gắng hồi phục lại quân mệnh.
Rất nhiều tướng lĩnh nghe những câu lệnh này thẳng hiểu gì cả. Sự thất bại của tiền nhiệm Viên Tư phần lớn do trị quân không nghiêm. Bởi vậy, họ nhao nhao khuyên Lý Tố rút kinh nghiệm lần trước mà phải nghiêm khắc rèn luyện binh sĩ.
Lý Tố mỉm cười nói:
- Ý chí của quân sĩ uể oải như vậy thì trước hết phải ổn định lòng người. Điều quan trọng hơn là Thượng thư Viên Tư tiền nhiệm trị quân không chặt nên kẻ địch không cảnh giác. Giờ lại thấy ta đến nhận chức ắt sẽ tăng cường phòng bị. Ta muốn tung tin ta lại dẫm vào vết xe đổ của Viên công, mục đích là để cho chúng mê muội, lơ là đề phòng, như vậy bọn ta có thể nhân lúc Ngô Nguyên Tế "ngủ 8ay” mà bắt sống con mãnh hổ này.
Ngô Nguyên Tế coi thường Lý Tố, lại nghe nói quân Đường vẫn lỏng lẻo nên càng không đề phòng. Binh sĩ của Lý Tố thấy không cần phải lao vào nguy hiểm nữa thì cũng yên tâm, răm rắp nghe theo hiệu lệnh. Lý Tố nhân đó mà ngày đêm tập luyện và ngầm thám thính địa thế của Hoài Tây nắm bắt rõ ràng binh lực của Ngô Nguyên Tế. Nửa năm sau, tinh thần đã hồi phục, Lý Tố dâng sớ xin tiếp viện thêm quân để đánh Ngô, Lý Tố áp dụng kế sách "mượn địch để đánh địch", liên tiếp chiến thắng mà không cần dùng nhiều sức, thuận lợi đánh thông đến con đường bao quanh đại bản doanh Thái Châu. Thế là chí khí quân sĩ cao ngút trời.
Lúc này, quân bộ của nhà Đường ở phía bắc do Lý Quang Nhan dẫn các quân Hà Dương, Tuyên Vũ, Ngụy Phó tấn công vào Hoài Tây, đánh bại 3 vạn quân Hoài Tây, uy hiếp Bắc Tuyến xông thẳng đến Hồi Khúc. Ngô Nguyên Tế không phòng ngừa Lý Tố, thấy Bắc Tuyến cấp báo xin cứu viện liền vội vàng điều quân về Hồi Khúc để đối phó với Lý Quang Nhan.
Lý Thạch vốn là tướng dưới quyền Ngô Nguyên Tế, nhưng đã đầu hàng nhà Đường, ông ta nói với Lý Tố:
- Tất cả tinh lực của Thái Châu đã chuyển về Bắc Tuyến. Bây giờ ta có thể thừa thắng xông lên, bắt sống Ngô Nguyên Tế.
Lý Tố nghe theo lệnh, cho Lý Thạch ngày mồng 10 tháng 10 dẫn 3.000 đi tiên phong, đích thân Lý Tố dẫn 3000 quân đi giữa, còn Lý Tiến Thành cùng 3000 quân đi sau chặn hậu, tiến thần tốc về phía đông.
Hành quân đến thôn Trương Sài, vì trời rét căm căm nên binh lính trấn giữ Hoài Tây đều chui vào trong lều, không phòng bị chút nào, quân tiên phong tới nơi giết hết không chừa một tên, nhanh gọn như bổ dưa thái rau vậy.
Lý Tố lệnh cho tướng sĩ vào trong thôn nghỉ ngơi, ăn uống, chuẩn bị yên ngựa cung tên để tiếp tục hành quân gấp. Đêm hôm đó, trời mưa tuyết lạnh kinh người, gió bấc thổi ào ào xé rách hết cờ, bọn ngựa lạnh quá co rúm, túm tụm lại với nhau, có 21 -22 người chết vì lạnh. Hơn nữa thôn Trương Sài ở phía đông đều là đầm lầy, đường sá đi rất khó khăn. Có một viên quan sử hỏi phải đến nơi nào. Lý Tố đáp:
-Tiến thẳng đến Thái Châu bắt sống Ngô Nguyên Tế.
Bọn quân sĩ nghe thấy thế đều khóc vang lên đòi quay về. Lý Tố nói. "Đây mới chính là lúc Ngô Nguyên Tế "ngủ say" dễ chết nhất, mọi người nhất định phải dốc toàn lực đi đến Thái Châu, như vậy mới có thể tấn công địch dễ dàng được, sau này quân sĩ đỡ khổ". Quân lệnh như sơn, tất cả đành phải cắn răng tiến lên.
Hành quân thần tốc như vậy nên nửa đêm đã đến được thành Thái Châu. Vừa lúc đó có người báo cáo: "Cạnh thành có ao nuôi ngỗng". Lý Tố vui mừng, lệnh cho quân dùng đá ném bọn ngỗng làm cho chúng kinh hoảng kêu lên ầm ĩ, át cả tiếng hành quân. Bọn quân lính trong thành sợ lạnh, ngủ say như chết, mấy thằng lính canh thấy ngỗng kêu ầm ĩ cũng chẳng đoái hoài tới, ai mà ngờ được có 9000 quân mã đang bao vây chặt thành Thái Châu, và chẳng ai nghĩ ra trong thời tiết khắc nghiệt thế này vẫn có người đưa quân đến đánh.
Canh tư, chính là lúc mọi người ngủ say nhất. Quân của Lý Tố tập trung đầy đủ dưới thành, cho mấy tên lính tinh nhuệ trèo lên thành giết chết mấy thằng lính canh. Sau đó, mở cổng thành cho binh mã vào.
Trời tờ mờ sáng, tuyết ngừng rơi. Đại quân của Lý Tố đã đứng ngoài cửa nhà của Ngô Nguyên Tế. Ngô Nguyên Tế vẫn còn đang say giấc mộng, bỗng có người lay dậy "Quan quân tiến vào thành rồi!". Hắn vẫn chưa tin, nói:
- Có phải anh em ở Hồi Khúc đến lấy quần áo rét không?
Đến khi nghe hiệu lệnh của Lý Tố, hắn mới bật dậy, dẫn người lên thành để đợi quân tiếp viện ở Hồi Khúc đến ứng cứu.
Nào ngờ Lý Tố đã mời gia đình tướng Đổng Trọng Chất (tướng giữ thành Hồi Khúc) đến, đồng thời bảo một người trong số họ đưa thư chiêu hàng cho Đổng Trọng Chất. Biết tin người nhà bị giữ, lại đơn thân độc mã nên Đổng Trọng Chất mặc áo trắng đến đầu hàng. Ngô Nguyên Tế thấy tình hình như vậy đành phải giơ tay chịu trói.
Thế là Lý Tố bình ổn đường Hoài Tây.
Sức người không thể đấu trực tiếp với mãnh hổ được. Nhưng hổ có mạnh đến thế nào chăng nữa cũng có lúc bị đánh bại. Lý Tố rất thông minh, anh ta đã dùng kế "muốn bắt hổ phái đợi hổ ngủ say", do vậy mới lấy lại được Hoài Tây mà không cần phải đánh. Điều quan trọng hơn nữa là Lý Tố biết cách khiến cho Ngô Nguyên Tế "ngủ say" mà liệu lúc hắn đã "ngủ say" để tiến đánh, không quản mưa gió tuyết lạnh căm căm, dám đương đầu với thời tiết khắc nghiệt, quyết không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng.
Trong cạnh tranh thương trường cũng thường gặp cục diện lấy yếu thắng mạnh. Nếu cứ đối đầu trực tiếp với nhau thì khác nào trứng chọi đá, nếu mặc kệ thì mất đi một cơ hội phát triển. Do vậy, cần phải làm cách nào đó khiến đối thủ "ngủ say" lơ là cảnh giác, sau đó mới bất ngờ khống chế, đó mới là kế tuyệt diệu nhất. Dĩ nhiên nếu đối thủ không mạnh như “mãnh hổ", cũng có thể nhân lúc chúng không đề phòng mà nhanh chóng tấn công. Vậy thì kết quả đạt được khiến mọi người rất kinh ngạc.
Lý Gia Thành là nhà kinh doanh bất động sản giàu có của Hồng Kông vào những năm 70, không những ông ta là cao thủ về tình báo thương nghiệp mà còn là một tay thiện nghệ trong việc ru ngủ "mãnh hổ" sau đó bắt sống. Cuối những năm 70, ông ta còn ru ngủ cùng một lúc hai mãnh hổ, tự mình hưởng thụ một con còn tặng con kia cho Bao Ngọc Cương.
Hồi ấy, Lý Gia Thành nắm được một tin tình báo rất quan trọng: Ngân hàng Denver của Anh đặt tại Hông Kông tuy là cổ đông lớn của công ty cổ phần hữu hạn Cửu Long Thương, nhưng trên thực tế cổ phần chỉ chiếm chưa đầy 20%, quá ít để trở thành tỉ trọng điều này chứng tỏ Denver kém thế trong nền tảng của Cửu Long Thương. Do nhanh tay nhanh mắt đã trở thành khu thương nghiệp sầm uất, buôn bán kiếm lời được rất nhiều nhưng giá cổ phiếu lại không biến động trong nhiều năm liền, nếu nhân lúc ngân hàng Denver vẫn chưa tỉnh ngộ, giá đang thấp thì mua vào cổ phiếu, mua đủ 50% sẽ thay thế được Denver và trở thành đại cổ đông, có quyền vận dụng các mảnh đất có tiếng ở Cửu Long để phát triển đất phát triển bất động sản, giống như buôn bán một vốn vạn lời.
Tuy nhiên, chỉ cần có người mua vào số lượng lớn, giá cổ phiếu này nhất định sẽ tăng mà một khi nó tăng thì Denver đang trong cơn "mê ngủ” tất nhiên là tỉnh dậy, hăng lên đánh nhau ngay. Lúc ấy thực lực của Lý Gia Thành kém xa Denver.
Dĩ nhiên, Lý Gia Thành biết tính nguy hiểm của con mãnh hổ khi tấn công là thế nào, nhưng ông ta đang nắm trong tay chiến thuật "ru ngủ” , vẫn tiến hành mua cổ phiếu vào như cũ. Đến mùa thu 1978, ông ta đã mua được 18% số cổ phiếu của Cửu Long với giá thấp nhất. Lúc đó, giá cổ phiếu cũng từ 10 đồng tăng lên hơn 30 đồng.
Ngân hàng Denver rất kinh ngạc, vội vàng mua vào với số lượng lớn, đồng thời chuẩn bị tập trung tiền vốn từ Mỹ, quyết một phen sống mái với Lý Gia Thành.
Ngân hàng Denver không ngờ Lý Gia Thành lại là một tay “nhát gan": Chiến thư của ngân hàng vừa đưa ra chưa kịp triển khai cụ thể, Lý Gia Thành đã vội giơ cờ hàng, tuyên bố không dám đối đầu với Denver, sẽ rút khỏi cuộc cạnh tranh Cửu Long và chuẩn bị bán ra những cổ phiếu đã có.
Thấy thế người của Denver rất đắc thắng, tự kiêu. Sau một hồi "vươn vai" lại bắt đầu rúc vào "ngủ” , chỉ đợi giá cổ phiếu từ trên trời rơi xuống đất. Không ngờ đã trúng kế "ru hổ ngủ” của Lý Gia Thành.
Một ngày tháng 9 năm 1978, Lý Gia Thành cùng với ông vua tàu thuyền Bao Ngọc Cương tiến hành cuộc giao dịch ngắn gọn, bí mật có giá trị đạt tới 2 tỉ đô la Mỹ bàn về tách rời Cửu Long ra khỏi ngân hàng Anh Denver.
Đây đúng là cuộc giao dịch kỳ diệu! ông Lý sẽ bán hết 200.000 cổ phiếu Cửu Long cho Bao Ngọc Cương, đổi lại Bao Ngọc Cương phải giúp Lý Gia Thành mua 900.000 cổ phiếu của ngân hàng Peace đó cũng là một con mãnh hổ say ngủ!
Ngân hàng Denver vừa biết Lý Gia Thành đã giơ cờ hàng, cũng nghe giá cổ phiếu Cửu Long lúc lên cao lúc xuống thấp. Bao Ngọc Cương tiếp tục mua mạnh cổ phiếu Cửu Long, Denver trong cơn mê ngủ cứ đợi Lý Gia Thành bán ra cổ phiếu nhưng đợi mãi đến khi phát hiện ra chúng không quay trở lại thì cho là Lý Gia Thành đùa giỡn với mình nên lại lập kế hoạch tấn công. Nhưng Bao Ngọc Cương lúc này bắt đầu bước đột kích cuối cùng, chỉ trong một quý mua đủ 100.000 cổ phiếu cần thiết, chiếm 30% toàn bộ số cổ phiếu, treo giá cổ phiếu lên cao hơn 50 đô la Hồng Kông.
Denver hốt hoảng, lòng nóng như lửa đốt, vội vàng tìm đối sách, bỏ tiền ra thu hồi lại cổ phiếu Cửu Long nhưng đã muộn, tình thế thay đổi, phải ngoan ngoãn chui vào thòng lọng của Bao Ngọc Cương.
Cũng trong lúc đó, một con mãnh hổ đang say ngủ khác - ngân hàng Peace - mở mắt ra mới phát hiện mình rơi vào thòng lọng của Lý Gia Thành, không kịp đối phó đã phải cúi đầu nghe theo rồi.
Hết