20/6/12

Chiếc Lexus và cây Ô liu - PHẦN III: CHỐNG ĐỐI TOÀN CẦU HÓA

Thomas Friedman


Chương 15
Chống đối


Ray Boyd: "Sao thế mẹ?"
Dorothy Boyd: "Mẹ bực cái loại vé hạng nhất quá. Trước đây chỉ là bữa ăn ngon hơn. Bây giờ nó là cả một lối sống."
- Trích từ phim Jerry Maguire
Diễn đàn kinh tế Thế giới tại Davos hàng năm là một phong vũ biểu các vấn đề toàn cầu khá tốt. Tháng Hai mọi năm, những nhà toàn cầu hóa của thế giới họp mặt ở khu nghỉ dưỡng vùng núi của Thụy Sĩ để ăn mừng
và bàn về toàn cầu hóa. Tham gia diễn đàn là các nhà công nghiệp hàng đầu, lãnh đạo chính trị, kinh tế, công nghệ, khoa học gia và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đến từ khắp nơi trên thế giới. Mỗi năm có một hay hai nhân vận đứng ra chủ trì. Có năm đó là vị sa hoàng về kinh tế của người Trung Hoa, ông Chu Dung Cơ; có năm là các ông Yasser Arafat, Yitzhak Rabin và Simon Peres; một năm khác là những nhà cải tổ người Nga; có năm là những lãnh đạo kinh tế Á châu bị thất bại tả tơi. Năm 1995, ngôi sao ở diễn đàn là nhà tài phiệt tỉ phú George Soros. Tôi biết điều đó khi được mời dự một cuộc họp báo, trong đó phóng viên các hãng truyền thông lớn trên khắp thế giới vây quanh bàn và phỏng vấn ông Soros, cứ như ông ta là tổng thống của một siêu cường vậy. Và dường như ông ta cũng nghĩ mình là như vậy. Phóng viên của Reuters, Bloomberg, AP-Dow Jones, The New York Times, The Washington Post, The Times của London và The Financial Times,... mọi người thi nhau chất vấn Soros xem ông đánh giá ra sao tình hình Mexico, Nga, Nhật Bản và những khuynh hướng kinh tế toàn cầu . Sau đó họ chạy ra khỏi phòng và dùng điện thoại gửi bài về toàn báo hay trụ sở của họ. Những đánh giá của Soros được đăng trên trang nhất của tờ International Herald Tribune và nhiều báo khác ngay ngày hôm sau.
Nhìn cảnh đó tôi cảm thấy mình đang chứng kiến một chuyển biến quan trọng. George Soros đại diện cho Bầy Thú Điện Tử. Ông ta là một con bò mộng đi đầu trong bầy thú. Có thể là con bò mộng duy nhất được đi đầu. Và đó cũng là lúc dân chúng nhận thấy rằng bầy thú đang thay thế cho Liên Xô, trở thành một siêu cường trong cái thế giới hai cực bây giờ. Chỉ vài năm trước đó, George Soros đã dạy một bài học kinh tế cho vị Thủ tướng Anh lúc đó là ông John Major. Major lúc đó cho rằng đồng bảng Anh đã được định giá một cách đúng đắn. Soros không nghĩ như vậy, và vào tháng 9/1992 Soros đã chỉ đạo bầy thú gây sức ép khiến cho giá trị của bảng Anh hạ xuống mức mà ông ta cho là "thích hợp." Major đã chế giễu, dè bỉu rồi phản đối Soros, rồi đã phải giương cờ trắng đầu hàng và hạ giá trị của bảng Anh khoảng 12 phần trăm. Soros kiếm được một tỷ đô-la lợi nhuận sau hai tháng kiếm chác ở Anh. Vĩnh biệt Liên Xô. Xin chào Bầy Thú Điện Tử.
Điều thú vị là một năm sau khi nhìn ông Soros trong cuộc họp báo đó, tôi đã quay lại Davos để xem ai sẽ là ngôi sao trong năm sau tại diễn đàn, năm 1996. Hôm đó tôi đang đứng trước một máy tính để đọc email thì thấy Soros đi qua. Điều ngạc nhiên là trong năm đó, không thấy ai quan tâm đến ông ta. Ông ta hoàn toàn cô đơn. Điều gì đã xảy ra sau một năm. Vì sao? Ai là ngôi sao ở Davos 1996? Không ai khác mà chính là Gennadi A.Zyuganov, người đứng đầu Đảng Cộng Sản Nga!
Diễn đàn Davos là một diễn đàn mang tính chất tư bản. Vì sao một con khủng long thời kỳ Chiến tranh Lạnh - Gennnadi A. Zyuganov - lại đến và là nhân vật quan trọng nhất trong năm đó? Vì giới thượng lưu chính trị và kinh tế ở Davos năm đó hiểu rằng cái hiện tượng gây chấn động gọi là toàn cầu hóa nay đã sản sinh ra một sự phản ứng mạnh mẽ không kém từ một vài nơi. Và lúc dường như Yyuganov có thể đánh bại Boris Yeltsin để giành chức Tổng thống Nga, và những lực lượng chống đối đang chuẩn bị tiếm quyền trong một quốc gia rộng lớn. Vậy là các vị quản trị lớn đã đến Davos và muốn gặp Zyuganov - "con thú chống đối" - để xem ông ta có dự định gì đối với vấn đề tài sản tư nhân, ngân sách Nga và hối đoái giữa đồng rúp và đô-la. Dạo đó, tôi phỏng vấn Zyuganov và thấy là vào lúc đó ông ta quả thực không biết phải làm những gì về những vấn đề như thế. Dường như ông ta suốt ngày chỉ cố lảng tránh các lãnh đạo phương Tây. Cũng giống như những tầng lớp duy ý chí chống đối toàn cầu hóa, Zyuganov chỉ biết cách tỏ thái độ chứ không đưa ra được chương trình làm ăn đúng đắn; ông ta nói nhiều về vấn đề phân chia thu nhập, hơn là cung cách tăng cường thu nhập.
Tuy nhiên từ ngày đó sự phản ứng chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đã trở nên rõ ràng và tràn lan hơn. Rõ ràng là toàn cầu hóa đã cho phép nảy nở những sáng tạo về tài sản và công nghệ chưa từng có. Nhưng những sáng tạo đó, như đã phân tích trong những chương sách trước, đã thay đổi cung cách làm ăn truyền thống, các cơ cấu xã hội, văn hóa và môi trường - và đã khiến sinh ra một sự phản ứng dữ dội - một hiện thân rõ ràng và lớn tiếng của nó xuất hiện tại cuộc hợp thượng đỉnh của Tổ chức Thương mại Thế giới tại Seattle vào cuối 1999. Điều này không lấy gì làm lạ. Thị trường thường mang lại cả vốn liếng lẫn sự hỗn loạn; thị trường càng trở nên mạnh hơn trong toàn cầu hóa, thì chúng càng có cơ gặp phải những rối loạn đa dạng và tràn lan hơn.
Ngoài những lo sợ chung đối với sự hỗn loạn đó, những người chống đối toàn cầu hóa cho rằng một khi đất nước của họ kết nối với hệ thống toàn cầu hóa, thì chính họ sẽ bị buộc phải mặc chiếc áo nịt nạm vàng dù cho chiếc áo đó chỉ có một cỡ. Có những người không thích chiếc áo là bởi vì họ cảm thấy bị bó buộc về kinh tế. Có người khác lo ngại rằng họ không đủ tri thức, kỹ năng hay tài lực để mặc hoặc rút những sợi chỉ vàng từ chiếc áo. Có người không thích nó vì họ không muốn có những hố ngăn cách về thu nhập, hay họ lo ngại khả năng cơ hội việc làm sẽ bị cắt bớt ở các quốc gia có mức lương cao, chuyển sang những nơi có nhân công rẻ mạt. Có người không thích toàn cầu hóa vì nó khiến đất nước của họ bị những văn hóa và ảnh hưởng mới lũng đoạn, khiến cho con cháu họ không còn biết đến những bản sắc truyền thống của cha ông chúng để lại. Có người không thích toàn cầu hóa vì họ lo sợ rằng luật lệ giờ đây chỉ chú trọng vào vấn đề tự do thương mại hơn là vấn đề bảo tồn các loại rùa và cá heo hiếm, bảo tồn nguồn nước và cây cối. Có người không thích chiếc áo nịt vì họ không được tham gia vào khâu thiết kế kiểu cách của chiếc áo. Và có người không thích chiếc áo đơn thuần là do họ cảm thấy khó mà nâng cấp được hệ điều hành của đất nước họ lên tới mức DOScapital 6.0
Nói cách khác, phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa là một hiện tượng lớn, là tập hợp của những lo âu và tâm lý khác nhau. Phản ứng đó mang nhiều hình thái, thông qua nhiều nhân vật và xảy ra ở nhiều đất nước khác nhau. Chương này sẽ nói về những trạng thái tâm lý, hình thái và điển hình của sự chống đối và cung cách chúng đang kết hợp lại thành một cơn gió mạnh cản trở toàn cầu hóa. Cơn gió này có thể trở thành bão, nếu chúng ta không để tâm hiểu nó một cách nghiêm túc.
Như tôi đã kể trước đây, vào mùa Hè năm 1998 tôi sang du lịch Brazil cùng tổ chức Bảo Tồn Thế giới, tổ chức đã giúp thành lập một công viên sinh thái ở vùng rừng duyên hải Đại Tây Dương của nước này. Họ đã giúp dân chúng ở thị trấn Una xây dựng một ngành du lịch địa phương, để có thể tạo công ăn việc làm và đẩy lui được nạn đốn gỗ để sinh nhai. Bảo Tồn Thế giới đã đề nghị Dejar Birschner, 48 tuổi, Thị trưởng Una cùng đi thăm và giải thích cho tôi những thay đổi mà dự án môi sinh mang lại cho thị trấn của ông. Thị trưởng này xuất thân từ lớp thợ đốn gỗ, thuộc loại Paul Bunyan, có cha và ông cũng là thợ đốn gỗ. Nhưng giờ đây các nhà môi trường đã khiến họ thất nghiệp. Khi đi trong rừng, Thị trưởng Birschner chạm tay lên các loại cây cối. Ông ta biết tên bằng tiếng Brazil của tất cả các loại thực vật trong rừng. Tôi cảm thấy quý mến ông ngay từ phút đầu - vì có một điều gì đó rất vững chãi trong bản thân ông ta. Sau khi đi dạo trong rừng, chúng tôi ra ngồi trên ghế trong một khu cắm trại ở bìa rừng, và bàn về những thách thức mà vị thị trưởng đang phải đương đầu. Ông ta nói về mặt tri thức thì ông đã hiểu rằng đốn gỗ không còn là nghề hữu ích. Nhưng đồng thời ông cũng nhận ra rằng dân chúng trong thị trấn chưa thực sự sẵn sàng sống cuộc sống không có nghề đốn gỗ. Chúng tôi nói chuyện trong khoảng 30 phút, sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn, tôi cảm ơn và đóng máy tính IBM thinkpad lại, ông ta quay sang nói với tôi, "Bây giờ tôi muốn hỏi anh chuyện này."
"Xin mời ông", tôi đáp, "ông hỏi chuyện gì cũng được."
Vị thị trưởng nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, "Liệu chúng tôi sẽ có tương lai hay không?"
Câu hỏi của ông như giáng cho tôi một đòn nặng. Nó khiến tôi suýt chảy nước mắt, khi nhìn sang bên kia bàn: đối diện tôi một con người đầy tự trọng, vững chãi, một vị thị trưởng, người đang hỏi tôi xem liệu bản thân ông và dân chúng của ông có được tiền đồ gì không trong lương lai. Tôi hiểu chính xác điều ông muốn nói: "Dân làng tôi không thể sinh nhai bằng cách đốn gỗ trong rừng và chúng tôi không được trang bị để sống với máy vi tính. Cha và ông tôi dựng cơ nghiệp bằng cách chặt gỗ trong rừng và con cái chúng tôi có thể kiếm sống bằng Internet. Nhưng còn thế hệ chính chúng tôi, thế hệ kẹt ở giữa thì làm gì bây giờ?"
Tôi ấp úng tìm một câu trả lời, giải thích một cách đơn giản rằng bản thân và dân làng của ông chắc chắn sẽ có tương lai nhưng họ phải bắt đầu một thời kỳ quá độ từ nền kinh tế nông nghiệp đi lên một nền kinh tế tri thức, bắt đầu bằng việc đào tạo con cháu.Vị thị trưởng lắng nghe, gật gù, lịch sự cám ơn và bước đến xe hơi của ông. Khi ông ta đi rồi, tôi kéo người phiên dịch sang một bên và nhờ anh ta hỏi hộ khi gặp lại ông thị trưởng, xem ông ta nghĩ gì về câu trả lời của tôi.
Vài phút sau anh này quay lại. Anh ta nói rằng ông thị trưởng muốn nói với tôi một điều mà ông ta đã không nhắc tới trong cuộc phỏng vấn: Mỗi sáng, khi đến sở làm việc ông thường thấy có 200 dân làng đang tụ tập chờ đợi ông, họ nhờ ông tìm việc, xin ông giúp nơi ở và thức ăn - đó là chưa nói đến chuyện những người thợ rừng nay thất nghiệp đến để dọa giết ông ta. Nếu ông ta không giúp tìm việc, nơi ở và thực phẩm cho họ thì họ sẽ phá trụi các cánh rừng - dẫu đó là phát triển bền vững hay không bền vững.
"Ông ta muốn anh hiểu cho điều đó," người phiên dịch nói.
Thị trưởng Birschner đại diện cho một thế hệ trên thế giới này cảm thấy bị toàn cầu hóa đe dọa vì họ sợ rằng họ không có những kỹ năng hay sức lực để gia nhập vào cái "Thế giới đi nhanh". Tôi xin gọi họ là "những con rùa." Vì sao? Vì các thương gia kỹ thuật cao trong Thung lũng Silicon thường bao giờ cũng so sánh thứ nghề siêu kỹ thuật của họ với câu chuyện về con sư tử và loài linh dương nhỏ trong rừng rậm. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, con sư tử đều lo nghĩ là sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để đuổi cho kịp những con linh dương nhỏ yếu, nếy không thì sẽ phải chịu đói. Và mỗi đêm khi đi ngủ, con linh dương đều lo nghĩ xem sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để chạy nhanh, thoát cho được những hàm sư tử, nếu không sẽ mất mạng. Nhưng có điểm tương đồng mà hai bên đều cùng lo nghĩ, đó là vào sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, cả hai bên đều phải ra sức mà chạy cho nhanh.
Và đó cũng là câu chuyện của toàn cầu hóa.
Điều không may là không ai cũng được trang bị để chạy nhanh. Ngoài đời có không biết bao nhiêu con rùa, tuyệt vọng; chúng không muốn bị giết bỏ trên đường đi. Những con rùa đó cũng là những dân chúng, khi tường rào trên thế giới sụp đổ, đã bị cuốn hút vào "Thế giới đi nhanh", và do nhiều lý do, họ cảm thấy bị đe dọa hay hắt hủi về kinh tế. Cũng không phải vì họ không có công ăn việc làm. Nhưng vì việc làm của họ đang bị toàn cầu hóa thay đổi, giảm quy mô, rút gọn hay bị khiến trở thành lỗi thời. Mặt khác sự cạnh tranh toàn cầu đang buộc chính phủ của họ phải tự thân cải cách và rút gọn, và những con rùa đó không thấy những mạng lưới bảo hiểm để cứu vớt chúng.
Trong vở kịch Ragtime diễn trên phố Broadway có một cảnh Henry Ford giải thích sự ưu việt của dây chuyền lắp ráp xe hơi của ông ta. Lúc nào tôi cũng nhớ những vần thờ, vì chúng phản ánh rất hay về một thế giới - một thời là thiên đường của loài rùa - nhưng nay đã thay đổi. Sau đây là lời thơ trong vở ca kịch Henry Ford:
Dân chúng, hãy nghe luận thuyết của tôi
Về nơi đất nước này đang đến:
Mỗi công nhân là một bánh răng cưa đang chuyển động.
Và khái niệm đó là của Henry.
Một người siết ốc và người khác vận hành
Và người khác vươn tay lắp bánh răng cưa
Và xe hơi sẽ di chuyển theo một hướng.
Một sáng tạo của Henry Ford
(Vòng quay của động cơ - hãy khiến chúng quay nhanh, Sam)
Sản xuất hàng loạt sẽ tràn lan trên đất nước,
Một ý tưởng mà thế giới chào đón.
Ngay cả những kẻ không lấy gì làm thông thái
Cũng có thể học cách siết ốc mãi mãi,
Và lắp tay quay hay kéo cần gạt...
Lạy thánh, ngày nay, nếu không thông minh thì không ai có thể học để cách sản xuất chip vi tính suốt đời. Những nghề tốt đẹp nhất đòi hỏi rất nhiều kỹ năng. Mỗi lần tôi viết một câu chuyện về cơ quan viện trợ Mỹ, USAID, thường có nhiệm vụ đào tạo dạy nghề và viện trợ kinh tế cho các nước đang phát triển ở châu Phi, cố gắng dùng kỹ thuật của họ để khôi phục những khu dân cư nghèo đói vùng Baltimore. Hay như hàng tít trên tờ Baltimore Sun hô hoán: "Baltimore sẽ thử áp dụng đơn thuốc của Thế giới thứ ba." Một lý do Baltimore kêu gọi sự trợ giúp của USAID là vì những con rùa của thành phố này đơn giản đã không theo kịp bước tiến của "Thế giới Đi nhanh". Một viên chức của thành phố đã giải thích một cách rành mạch: Trong những năm 60, bà này nói, nhà tuyển dụng việc làm lớn nhất trong thành thố là Tập đoàn thep Bethlehem. Bạn có thể kiếm một việc làm trong nhà máy luyện thép chỉ với tấm bằng phổ thông hoặc thấp hơn, để kiếm sống, mua một căn nhà, nuôi con và gửi chúng vào đại học. Có nghĩa là giấc mơ của Mỹ dành cho cả những con rùa và những khu dân cư nhiều khó khăn. Ngày nay, nhà tuyển dụng lớn nhất ở Baltimore là Trung tâm Y tế John Hopkins. Nếu không muốn trở thành một lao công, thì bạn phải có bằng đại học mới mong được mời phỏng vấn xin việc ở trung tâm này. Những con rùa thì không có cách gì vào được. Và bạn sẽ không có cách gì xin vào đó được nếu bạn thuộc vào số 150.000 người thất học (trong tổng số dân 730.000 ở Baltimore). (Các viên chức Baltimore thắc mắc vì sao những người nghèo thành thị không tận dụng những chương trình xã hội dồi dào vốn có sẵn trong thành phố đó, đến khi họ nhận ra rằng những người dân đó thậm chí không biết đọc những bảng hiệu. Đó là một lý do khiến họ phải mời USAID: cơ quan này đã cho ra đời một loạt các tranh vẽ các nhân vật biếm họa và những thiết bị nghe nhìn vốn dùng để giải quyết nạn mù chữ ở châu Phi. "Anh có biết được điều trớ trêu?" Bác sĩ PeterBeilenson, Chủ nhiệm Ủy ban Y tế của Baltimore nói trong cuộc phỏng vấn của tôi. "Công ty đã tạo ra những chương trình xóa nạn mù chữ cho USDID, lại chính là của Baltimore. Văn phòng của nó chỉ cách đây vài dãy phố.)
Khi toàn cầu hóa lây lan, thay thế những công việc lặp đi lặp lại, bằng máy móc, và đòi hỏi những kỹ năng mới trong công việc khác, nó đã khiến cho những con rùa mất dần cơ hội việc làm. Một bài trên tờ Washington Post vào tháng sáu năm 1998 về cuộc đình công ở hãng General Motors vùng Flint, Michigan, đã tả cho độc giả cảnh khốn củng của loài rùa ngày nay: "Sau 20 năm, GM đã giảm biên chế công nhân của họ ở Flint xuống còn 35.000, từ mức 76.000, và hãng này cho biết trong vài năm nữa, họ sẽ cắt tiếp 11.000 việc làm... Trong tổng số công nhân từ Mỹ, GM đã giảm 297.000 công việc theo giờ trong vòng 20 năm, giảm tổng việc làm còn 223.000... Một số cơ hội việc làm đã được chuyển sang Canada và Mexico, nơi có những nhà máy hiệu quả cao và chi phí thấp hơn, và một số lượng lớn công nhân của họ đã bị máy móc thay thế [đoạn viết nghiêng là của tác giả]."
Cũng trong bài báo, George Peterson, Chủ tịch hãng AutoPacific Inc., một công ty nghiên cứu và tư vấn ngành xe hơi có trụ sở ở California, được trích dẫn đã nói rằng tại những nhà máy không có nghiệp đoàn đóng ở Hoa Kỳ - như chi nhánh của Honda Motor ở Marysville, Ohio - công nhân đa kỹ năng và có thể thực hiện những nhiệm vụ đa dạng. Tính đa dạng hóa đó, theo ông ta, đã giúp cho Honda cắt giảm chi phí sản xuất. "Hoàn toàn có thể giữ được một công việc toàn thời gian trong ngành này, nếu bạn sẵn sàng làm nhiều loại công việc [tác giả viết]," Peterson nói, khi bàn về những lo lắng của giới nghiệp đoàn về mức ổn định trong công ăn việc làm.
Vậy nếu muốn làm việc trong khu vực sản xuất, không những bạn cần thêm các kỹ năng hơn trước, mà còn phải có kỹ năng đa dạng để tránh được khả năng công việc của bạn bị người máy thay thế. Đó là những khó khăn lớn đối với những con rùa ngày nay.
***
Các nhà phân tích có thời gian đã cố tìm hiểu xem những con rùa bị toàn cầu hóa hành hạ, xúc phạm hay bỏ rơi, có thể tìm được ra giải pháp hay ý thức hệ gì thay cho khái niệm tư bản thị trường tự do. Như nói trước đây, trong thời toàn cầu hóa đợt một khi đương đầu với sự tiến hóa tư bản theo lối phá cũ xây mới, những lực lượng phản ứng đã cho ra đời một loạt các ý thức hệ - cộng sản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, phát xít chủ nghĩa - những quan điểm hứa hẹn sẽ bẻ được nọc độc của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong vấn đề cứu giúp người lao động. Giờ đây, khi những ý thức hệ đó không còn được tín nhiệm, tôi không nghĩ rằng sẽ có một hệ ý thức mới nhất quán để chống lại toàn cầu hóa - vì tôi không tin rằng sẽ có một chương trình hay tư tưởng mới nào vừa có thể xoá bỏ được sự tàn nhẫn và sức công phá tư bản, vừa có thể cho phép nâng cao mức sống của nhân loại.
Một lý do khác, khiến sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa khó có thể hình thành một hệ tư tưởng thay thế, đó là bản thân sự phản ứng đó chỉ quy tụ được các nhóm rời rạc - bằng chứng cho thấy sự liên minh giữa các nghiệp đoàn bảo hộ công nhân, các nhà môi trường, các người chống đối loại nhà xưởng bóc lột công nhân, các nhà bảo tồn rùa, bảo tồn cá heo, chống cải biến gen và cả một nhóm mang tên "Tín hiệu từ hành tinh khác," tất cả đã tụ tập hồi tháng 12 năm 1999 để chống toàn cầu hóa tại cuộc họp thượng đỉnh của WTO tại Seattle. Những nhóm người rời rạc đó gắn bó với nhau bằng một sự hiểu biết rằng thế giới đang bị các tập đoàn công ty thống trị, họ lo lắng cho một thế giới bất công - bất bình đẳng, gây hại cho lợi ích nhân loại, đặc biệt là lợi ích của các con rùa. Nhưng khi bị chất vấn là làm thế nào để định nghĩa lợi ích của loài người và làm thế nào để bảo vệ được lợi ích đó, thì những nhóm người chống đối không đưa ra được câu trả lời nhất quán. mỗi nhóm một vẻ quan điểm, đa dạng như những trang phục của chính họ vậy. những công nhân ngành xe hơi, luyện thép và những ngư dân đang đòi cho sự bảo hộ mâu dịch ở Seattle, thực ra không đoái hoài gì đến việc Hoa Kỳ có cho phép nhập loại cá ngừ đánh bắt bằng lưới lẫn với rùa biển hay không. Tôi thực không muốn mình trở thành thân phận con rùa bị mắc trong lưới đánh cá ngừ được kéo về cảng Seattle. Những lẫn lộn trong cái liên minh đó khiến cho việc lượng đoán sức mạnh của sự phản ứng đối với toàn cầu hóa trở nên khó khăn hơn, vì trong khi cùng nhất trí là toàn cầu hóa gây đau thương cho họ, thì cho đến nay, những người chống đối không có chung bất cứ cương lĩnh, hệ tư tưởng hay chiến lược nào để cùng hoạt động.
Chính vì thế tôi ngờ rằng những con rùa trong nhân loại và những người chỉ đơn thuần căm ghét những thay đổi mà toàn cầu hóa gây ra cho văn hóa, môi trường hay cộng đồng của họ, sẽ không để tâm đến việc tìm ra một tư tưởng mới. Sự chống đối sẽ chỉ có hình thức bộc phát khác nhau. Những người thợ luyện thép sẽ vận động Washington dựng lên những bức tường chống lại thép nhập khẩu. Những người khác, các nhà môi trường chẳng hạn, những người muốn cứu những cánh rừng nhiệt đới, đơn thuần sẽ lên án toàn cầu hóa mà không đưa ra được các giải pháp kinh tế bền vững. Khẩu hiệu duy nhất của họ là: STOP
Đối với những con rùa đói nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, những kẻ thực sự bị toàn cầu hóa bỏ rơi, họ sẽ chống toàn cầu hóa bằng cách tiếp tục đốt phá thiên nhiên mà không giải thích, thanh minh hay đưa ra một tư tưởng nào về việc đó. Tại Indonesia, họ sẽ tấn công các tiệm hàng của thương nhân người Hoa, chiếm dụng tài sản. Tại Nga, họ sẽ bán vũ khí cho Iran hoặc gia nhập giới tội phạm. Tại Brazil, họ sẽ đốn cho hết những mảng rừng tự nhiên hoặc gia nhập phong trào nông dân mang tên "Sem Teto" (không nhà), trộm cắp để kiếm sống. Có khoảng 3,5 triệu những người như thế sống ở Brazil - những nông dân thiếu đất đai, sống trong khoảng 250 khu trại trên khắp đất nước. Có lúc họ sống bên vệ đường, chờ đến khi người khác trả tiền thì họ mới dọn đi, có lúc họ vào cướp bóc các siêu thị, cướp nhà băng, hay ăn cắp xe tải. Họ không có cờ hiệu, không có cương lĩnh. Họ chỉ có nhu cầu và hoài bão của riêng họ. Chính vì thế điều chúng ta đã và đang chứng kiến ở nhiều nước, là, thay vì một đám đông đoàn kết chống toàn cầu hóa, ta chỉ thấy dập dìu những làn sóng tội phạm - những người chống đối chỉ vơ vét những gì bản thân họ cần, dệt cho được những mạng lưới an sinh xã hội mà không cần nghĩ đến chuyện xây dựng học thuyết hay ý thức hệ.
Mặc dù sự phản ứng này không vững chắc về luận thuyết và không được phối hợp chặt chẽ, nó đã và đang thực sự hiện hữu. Nó đến từ sâu thẳm tâm hồn của con người, vì vậy quy tụ được đông đảo dân chúng và gây ảnh hưởng đối với nền chính trị ở bất cứ nước nào. Nếu làm ngơ nó thì các xã hội liệu mà ráng chịu.
Trong hầu như bất cứ đất nước nào đã mang lên chiếc áo nịt nạm vàng, bao giờ cũng có một chính đảng hay một cá nhân nổi tiếng đứng tuyên truyền chống toàn cầu hóa. Những đảng phái hay cá nhân đó sẽ đưa ra những giải pháp theo lối bảo hộ và thu phục lòng người - những giải pháp theo họ, sẽ dẫn đến cải thiện đời sống cho dân chúng mà không phải tiến bước quá nhanh hay mở cửa biên giới quá rộng. Họ nói là cứ chịu khó dựng hàng rào cản ở chỗ này chỗ kia thì mọi sự rồi sẽ tốt đẹp. Họ gây được sự chú ý của những người chỉ muốn sống trong quá khứ, thay vì tương lai. Chẳng hạn tại Nga, những Dân biểu cộng sản trong Viện Duma tiếp tục đi đầu trong những phản ứng chống toàn cầu hóa bằng cách tuyên truyền với dân lao động và những người hưu trí rằng trong thời Liên Xô, mặc dù họ chỉ có được những công việc không hứng thú và phải xếp hàng để được phân phối bánh mì, nhưng bao giờ cũng có công ăn việc làm và bao giờ cũng được phân phối bánh mì khi đến lượt. Sức mạnh của những đảng phái hay cá nhân trong công cuộc chống toàn cầu hóa đó tùy thuộc vào mức độ yếu kém của nền kinh tế ở nước đó. Thông thường thì kinh tế càng trì trệ thì những luận điểm giản đơn kể trên càng có sức lôi cuốn.
Những người chống đối toàn cầu hóa không chỉ thành công trong thời gian đất nước hay nền kinh tế của họ gặp khó khăn. Năm 1998, đa số trong Quốc hội Mỹ đã chặn, không cho phép Tổng thống Mỹ mở rộng khu vực mậu dịch tự do NAFTA sang Chi Lê - một đất nước nhỏ bé - lý do là làm như vậy người dân Mỹ sẽ mất thêm cơ hội việc làm. Lý luận sai lầm đó đã thắng thế vào lúc trị giá các chứng khoán của Hoa Kỳ lên cao kỷ lục, thấy nghiệp ở mức thấp nhất và tất cả những nghiên cứu đều cho thấy NAFTA mang lại những giải pháp nhiều bên cùng có lợi khi áp dụng ở Hoa Kỳ, Mexico và Canada. Hãy nghe điều ngu xuẩn sau đây: Quốc hội Mỹ duyệt chi 18 tỷ đô-la cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tổ chức này cứu giúp các nước đang vật lộn với toàn cầu hóa, nhưng Quốc hội không chấp nhận mở rộng NAFTA sang Chi Lê. Logic nằm ở đâu? Phải chăng nó nằm ở chỗ: "Chúng ta ủng hộ viện trợ, không ủng hộ thương mại?"
Điều đó thực vô lý, nhưng có một lý do để những lập luận kiểu đó thắng thế trong cả thời kỳ thịnh vượng lẫn lúc khó khăn - đó là tâm lý bất an trong dân chúng mỗi khi có những thay đổi nhanh quá. Tâm lý này xuất hiện cùng lúc với sự thịnh vượng. Tâm lý này khiến cho người ta hoang mang, cho rằng cuộc sống của họ giờ đây đang bị những thế lực khác biệt kiểm soát, những thế lực mà người ta không thể nhìn ngăm hay sờ mó. Hệ thống toàn cầu hóa vẫn còn quá mới mẻ đối với quá nhiều người và khiến xảy ra quá nhiều thay đổi trong cuộc sống của quá nhiều người. Vậy là người ta hoang mang, người ta lo sợ không còn giữ được công ăn việc làm đúng ý. Trong hoàn cảnh đó những người chống đối toàn cầu hóa được dịp đưa ra những luận thuyết sơ sài và đơn giản hóa. Nó tạo những cảm giác mạnh mẽ trong dân chúng, cho rằng chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng lên một vài bức tường hay ném chút ít cát vào bánh răng đang chuyển động - để cho chúng ta có thể ngôì vững trên cỗ xe, chứ không phải để chúng ta bỏ xe bước xuống đường.
Bạn cũng đừng tự huyễn hoặc cho rằng sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa chỉ là những cơn giận dữ của những người bị chịu nhhiều thiệt thòi. Cũng giống như các cuộc cách mạng, toàn cầu hóa liên quan tới việc chuyển giao quyền lực từ một nhóm người này sang một nhóm khác. Trong nhiều nước nó là sự chuyển giao quyền lực từ nhà nước và bộ máy quan liêu vào tay khu vực tư nhân và giới kinh doanh. Khi điều đó xảy ra, tất cả những người vốn có vị trí trong bộ máy quan liêu, hay hưởng lợi từ đó, hay những người có vị trí cao trong bộ máy kinh tế vốn bao cấp, tất cả trở thành những kẻ thua thiệt - nếu họ không hòa nhập vào bước quá độ lên "Thế giới Đi nhanh". Những kẻ thua thiệt cũng bao gồm những nhà công nghiệp và giới liên quan hưởng lợi từ những hoạt động kinh tế độc quyền nhờ sự hỗ trợ của chính phủ, những chủ doanh nghiệp được lợi từ các chính sách chống hàng nhập cảng, những thủ lĩnh công đoàn - những người quen với việc mỗi năm đi tranh đấu để giảm giờ làm và tăng lương trong một số ngành nghề được bảo hộ, công nhân thuộc các nhà máy quốc doanh xưa nay vẫn được trả lương dẫu cho nhà máy làm ăn lãi hay lỗ, những người thất nghiệp xưa nay vốn vẫn nhận được những khoản trợ cấp xã hội và y tế đều đặn và những người khác vốn lệ thuộc vào những ưu đãi của nhà nước bảo vệ trước sự xâm lấn của các thị trường toàn cầu.
Điều đó giải thích vì sao trong một số nước, sự chống đối toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất không đến từ nhóm dân chúng nghèo đói, mà từ những kẻ "vốn xưa nay..." trong giới trung lưu và trung lưu lớp dưới, những người được hưởng sự ổn định trong những hệ thống cộng sản, xã hội chủ nghĩa hay nhà nước phúc lợi khác. Khi họ thấy những bức tường phòng hộ sụp đổ, khi những cuộc chơi thiếu thành thực mà trước kia họ tham gia kiếm lợi, những lưới bảo hiểm xã hội, bị thu nhỏ - họ trở nên rất rầu lòng. Khác với những con rùa, những nhóm người kể trên vẫn còn ảnh hưởng để họ quy tụ người khác tổ chức chống đối toàn cầu hóa. Liên đoàn AFLCIO có lẽ đã trở thành một lực lượng chính trị hùng mạnh nhất, chống đối toàn cầu hóa tại Hoa Kỳ. Các nghiệp đoàn lao động đã bí mật tài trợ cho rất nhiều hoạt động quảng cáo, đại diện cho các cuộc biểu tình tuần hành ở Seattle, khuyến khích sự chống đối từ các tầng lớp dưới nhằm vào thương mại tự do.
Hiểu biết của tôi về sự chống đối toàn cầu hóa từ giao cấp trung lưu đã tình cờ xuất hiện khi tôi ở Bắc Kinh, trò chuyện với Wang Jisi, phụ trách ban nghiên cứu Bắc Mỹ, Viện Khoa học Xã hội của Trung Quốc. Chúng tôi nói chuyện lan man từ chủ đề Hoa Kỳ sang chuyện cuộc sống của anh ta ở Trung Quốc, rồi thị trường tự do, những điều khiến cho trong dân chúng Trung Quốc có người thích thú có người lo âu. "Guồng máy thị trường đang di chuyển vào Trung Quốc, nhưng câu hỏi hiện nay là làm thế nào để vận hành nó," Wang nói. "Nhờ cơ quan của tôi thì tôi mới có nhà ở. Nếu giờ đây nhà cửa được đưa đấu giá trên thị trường tự do thì có khi tôi không mua nổi nhà. Tôi không phải là người bảo thủ, nhưng khi những vấn đề thực tế như vậy được đặt ra thì dân chúng hoàn toàn có thể trở nên bảo thủ. Nếu mọi người bị ném ra thị trường sau thời gian được bao cấp chu đáo, họ sẽ phản ứng. Người lái xe của tôi hôm trước đã phàn nàn rằng thời trẻ, ông ta đã cống hiến tất cả cho chủ nghĩa Mao và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng giờ đây ông ta 45 hay 50 tuổi, thì đột nhiên người ta bắt ông phải ra thị trường. "Như thế có công bằng không?" ông ta chất vấn chính phủ, "khi tôi đã hết lòng vì bất cứ điều gì các vị đòi hỏi ở tôi hàng chục năm nay và giờ đây các vị quên tôi luôn, đẩy tôi ra thị trường khi tôi già? Không công bằng chút nào. Tôi chưa làm điều gì sai trái. Bao giờ tôi cũng tuân theo chỉ dẫn của các vị, chính phủ thân mến, vậy mà giờ đây chính phủ lại nói tôi quên chính phủ đi." [người lái xe này] rất thích làm việc ở cơ quan chúng tôi. Ông ta không muốn trở thành một lái xe taxi để rồi mất hết phúc lợi xã hội. Ông ta không muốn nhập vào thị trường."
Bạn không cần phải trở thành một người công nhân cộng sản mới hiểu được điều đó. Peter Schwartz, Chủ tịch hãng Global Business Network, một hãng tư vấn, có lần kể cho tôi về một cuộc đối thoại trước buổi phỏng vấn với chương trình kinh tế của đài BBC ở London: "Khi đưa tôi tới chỗ phỏng vấn, phóng viên người Anh đó hỏi tôi một số điểm cốt lõi trong quan điểm của tôi. Tôi nói bóng gió tới chuyện nước Anh là một điển hình của một nền kinh tế có sức đột phá - đặc biệt khi so với toàn châu Âu - con số thấy nghiệp là minh chứng cho điều đó. Phóng viên này nói với tôi: "Thế không phải là chuyện tồi tệ sao? Trợ cấp thất nghiệp ở Anh thấp đến nỗi người ta không còn muốn ngồi nhà để hưởng nữa, họ xoay ra kiếm việc đi làm."
Schawartz nói tiếp: "Có những người coi sự quá độ tới toàn cầu hóa là một tổn thất lớn lao, chứ không phải là một thành tựu. Họ mất đi không chỉ những phúc lợi, mà còn mất đi điều họ coi là quyền lợi: rằng các xã hội công nghiệp hiện đại giàu có đến nỗi dân chúng có quyền được hưởng những trợ cấp thất nghiệp hào phóng."
Nếu muốn quan sát điển hình của cuộc chiến giữa những người toàn cầu hóa và những giới ham được bảo hộ thì mời bạn sang thế giới Ả rập. Năm 1996, đến lượt Ai Cập đăng cai hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế Trung Đông, hội tụ các lãnh đạo kinh doanh của phương Tây, Á châu, Ả rập và Israel. Những nhà quan liêu ở Ai Cập đã quyết liệt chống lại kế hoạch đăng cai hội nghị này. Một phần là lý do chính trị - có những người cảm thấy Israel chưa thực hiện đầy đủ những cam kết đối với người Palestine, nên họ chưa thể bình thường hóa với Israel. Nhưng một phần là do chính những viên chức quan liêu Ai Cập, những người đang cai quản kinh tế nước này từ ngày Nasser quốc hữu hóa các định chế kinh tế trong nước trong những năm 60. Họ tự hiểu rằng cuộc họp thượng đỉnh có thể là bước đầu tiên mở ra khả năng họ mất dần quyền lực vào tay khu vực tư nhân, một khu vực đã bắt đầu có cơ hội mua lại các xí nghiệp quốc doanh cũ và có thể tiến hành chiếm giữ dần hệ thống truyền thông của đất nước. Tờ báo Hồi giáo al-Shaab đã chỉ trích hội nghị thượng đỉnh là "hội nghị của sự hổ thẹn."
Tôi nhiên lần đầu tiên khu vực tư nhân của Ai Cập đã đoàn kết thành các lực lượng vận động hành lang mạnh - Phòng Thương mại Ai Cập - Hoa Kỳ, Hội đồng các lãnh đạo Doanh nghiệp Ai Cập trực thuộc Tổng thống và Hiệp hội Doanh nghiệp Ai Cập - đã chung sức thuyết phục Tổng thống Mubarak nghe theo họ. Họ giải thích nếu tổ chức họp thượng đỉnh với hàng trăm các nhà đầu tư trên thế giới sẽ là cơ hội để tạo việc làm cho lực lượng lao động của Ai Cập, mỗi năm tăng 400.000. Tổng thống Mubarak đi lui đi tới, và sau cùng đã về phe với khu vực tư nhân, chấp thuận tổ chức hội nghị. Ông thẳng thắn tuyên bố trong diễn văn khai mạc hội nghị: "Năm nay, Ai Cập gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Ai Cập sẽ tuân thủ những luật lệ của nền kinh tế đó." Nhưng bộ máy quan liêu ở Ai Cập, không muốn nhường bất cứ quyền lực gì cho khu vực tư nhân, vẫn tiếp tục tranh đấu, và mỗi lần có biến cố trong kinh tế thế giới chẳng hạn như khủng hoảng ở Á châu năm 1998, họ là đến nói với Tổng thống Mubarak, "Thấy chưa, chúng tôi đã nói rồi. Chúng ta cần phải đi chậm lại, dựng thêm rào cản, nếu không thì những gì xảy ra ở Braxil rồi sẽ xảy ra với chúng ta."
Trong một thời gian dài tôi nghĩ rằng sự miễn cưỡng của Ai Cập trong việc kết nối với toàn cầu hóa bắt nguồn từ tính thiển cận của giới công quyền và sự thiếu tầm nhìn trong hàng ngũ lãnh đạo đất nước. Nhưng sau đó có một kỷ niệm đã khiến tôi hiểu rõ thêm. Trong tư cách một tác giả, tôi đi thăm Ai C6ạp vào đầu năm 2000, gặp gỡ các sinh viên ở Đại học Cairo, gặp phóng viên các báo của Ai Cập và những thương gia hàng đầu ở Cairo và Alexandria. Tôi trao đổi với họ về bản thảo tiếng Ả rập cho cuốn sách này.
Hai hình ảnh nổi bật từ chuyến đi này. Đầu tiên là hình ảnh chuyến tàu từ Cairo đến Alexandria, đi trong toa tàu là hành khách thuộc giới thượng lưu và trung lưu người Ai Cập. Nhiều người trong số họ có điện thoại di động, kêu chuông liên tục trong suốt hai giờ tàu chạy, giai điệu chuông khác nhau, liên miên đến mức có lúc tôi muốn đứng dậy dùng ba toong làm nhạc trưởng cho dàn nhạc chuông điện thoại. Tôi chán nghe nhạc điện thoại di động đến mức nóng lòng muốn được xuống tàu. Trong khi những điện thoại đó thi nhau reo chuông trong toa tàu, thì bên ngoài là cảnh sông Nile, dọc bờ sông là những dân làng người Ai Cập đang cày ruộng, dùng cày và trâu kéo giớng như những gì tổ tiên của họ làm ăn từ cái ngày xây dựng kim tự tháp Pharaoh. Tôi không thể tưởng tượng được một hố ngăn cách rộng lớn hơn thế về công nghệ trong một đất nước - trong toa tàu là Ai Cập năm 2000 sau Công nguyên, ngoài toa tàu là Ai Cập năm 2000 trước Công nguyên.
Hình ảnh thứ hai là lần đến thăm Yousef BoutrousGhali, Bộ trưởng Kinh tê của Ai Cập, người từng học ở MIT. Khi tôi đến tòa nhà của ông ta thì một người trông thang máy, một nông dân Ai Cập, chờ tôi ở thang máy, anh có chìa khóa để vận hành thang máy. Trước khi đút chìa khóa vào mở cho thang máy hoạt động, anh ta đã khấn theo kinh Koran: "Nhân danh Chúa, đấng từ bi và tinh thần." Là một người nước ngoài, bạn có thể rất hoảng khi thấy người trông thang máy khấn khứa trước khi đóng cửa thang máy để lên lầu, nhưng đối với anh ta, đó chỉ là một thói quen văn hóa, cắm rễ sâu trong truyền thống của anh. Một lần nữa ta thấy sự tương phản: ông Boutros Ghalis, đầu tàu kỹ thuật cao dẫn dắt toàn cầu hóa, một bên là người trông thang máy, cứ mỗi lần cho thang chạy là lại khấn vái.
Những cảnh đó phản ánh cho tôi thấy sự căng thẳng thực sự trong lòng Ai Cập: Trong khi giới thượng lưu nhỏ bé, được trang bị điện thoại di động đang cố sức để được nối mạng, nhập vào con tàu kinh tế toàn cầu, thì phần đông những người khác bị bỏ rơi hoặc để mất đi bản sắc của họ khi cố sức chạy theo con tàu đó. Sau một tuần trò chuyện về phí tổn và lợi ích của toàn cầu hóa, tôi ngạc nhiên thấy phần đông người Ai Cập, gồm rất nhiều những trí thức, chỉ thấy ra được tổn phó. Càng giải thích về toàn cầu hóa, càng làm cho họ khó chịu. Sau cùng, một ý nghĩ đến với tôi rằng tôi đang đối diện với điều mà các nhà nhân chủng học gọi là "sự hiểu lầm có hệ thống." Sự hiểu lầm đó sinh ra khi cái khuôn mẫu của bạn khác hẳn với khuôn mẫu của người khác, mà không thể dùng thông tin bổ sung để làm cho chúng khớp với nhau.
Sự khó chịu của dân Ai Cập đối với toàn cầu hóa bắt rễ từ nỗi sợ hãi hợp lý rằng họ không có đủ công nghệ để cạnh tranh. Nhưng nó cũng bắt rễ từ một điều mang tính văn hóa - và không chỉ là điều mà một giáo sư đại học Cairo nói với tôi: "Toàn cầu hóa có nghĩa là chúng tôi phải hết thảy trở thành người Mỹ?" Sự khó chịu ăn sâu hơn nữa, và bạn phải hiểu được nó nếu muốn biết thêm về những chống đối nhằm vào toàn cầu hóa từ những xã hội truyền thống. Nhiều người Mỹ dễ dàng tiếp thụ hiện đại hóa, kỹ thuật và Internet vì họ biết chúng là những công cụ cho họ thực hiện lựa chọn. Lợi ích của những công cụ đó là trang bị và tăng cường lợi thế cho các cá nhân. Nhưng trong các xã hội truyền thống như Ai Cập chẳng hạn thì các tập thể, các nhóm người thường có vai trò quan trọng hơn các cá nhân; vậy nếu tăng cường cho các cá nhân thì sẽ dẫn tới chia rẽ trong xã hội. Vậy toàn cầu hóa đối với họ không những mang ý nghĩa họ phải ăn món McDonald's, mà còn có nghĩa là sự thay đổi quan hệ giữa cá nhân và nhà nước và cộng đồng một cách tiêu cực, dẫn tới chia rẽ xã hội.
"Liệu toàn cầu hóa phải là để chúng tôi cứ mặc xác những người nghèo phải tự lo thân?" Một phụ nữ Ai Cập có tri thức đã hỏi tôi. "Làm sao chúng tôi có thể tư hữu hóa trong khi không có hệ thống phúc lợi xã hội?" Một giáo sư đặt câu hỏi. Khi chính phủ ở nước này nói sẽ "tư hữu hóa" một ngành công nghiệp thì phản ứng bản năng của dân Ai Cập sẽ là: hình như có điều gì đó đang "bị đánh cắp" từ nhà nước, lời của một viên chức cao cấp của Ai Cập.
Sau những cuộc tranh luận đó tôi nhận thấy phần đông dân Ai Cập hiểu về toàn cầu hóa như một sự thất vọng kết hợp với sự cần thiết, chứ không phải là một cơ hội, điều đó cũng dễ hiểu. Toàn cầu hóa là cách thích nghi với một đe dọa từ bên ngoài, trong khi không tăng thêm được quyền tự do. Tôi cũng nhân ra rằng những ý thức hệ trước đây của họ - chủ nghĩa dân tộc Ả rập, chủ nghĩa phát xít - đã có ảnh hưởng mạnh, mặc dù không mang lại lợi ích gì về kinh tế. Nhưng chủ nghĩa toàn cầu hóa hoàn toàn không giống thế. Khi bạn nói với một xã hội truyền thống rằng họ phải cắt giảm biên chế, rút gọn và kết nối Internet, thì những điều bạn nói ra không có ảnh hưởng nhiều hoặc không có sức lôi cuốn. Đó là lý do của những khó khăn bạn vấp phảu khi cố gắng thuyết phục hàng triệu người Ai Cập, những người vẫn cầu nguyên trước khi vận hành các cầu thang máy.
Trò kéo co này đang diễn ra trên toàn thế giới Ả rập ngày nay, từ Maroc cho tới Kuwait. Một viên chức tài chính người Ả rập đã mô tả cuộc tranh đấu của toàn cầu hóa trong đất nước của ông ta: "Thỉnh thoảng tôi có cảm giác mình thuộc vào một hội kín Freemasons, vì cách nhìn thế giới của tôi khác hẳn với cách nhìn của những người quanh tôi. Có một sự khác biệt lớn về ngôn ngữ và từ vựng của tôi và người xung quanh. Không phải vì tôi không thuyết phục được họ. Tôi nhiều khi không thể giao tiếp được với họ, những người đó có cách nhìn toàn cầu xa lạ quá. Vậy là mỗi khi tôi phải giải thích một chính sách gì đó liên quan tới toàn cầu hóa, thì bao giờ câu hỏi cũng là: có thể quy tụ được bao nhiêu người để có thể tạo được một sự quá độ? Nếu anh có thể quy tụ được đủ số người từ những vị trí thích đáng, thì anh sẽ đẩy được hệ thống đi tới. Nhưng điều đó rất khó. Có nhiều ngày dân chúng đến và nói với tôi: "Chúng ta cần phải quét sơn lại căn phòng." Và tôi trả lời, "Không, chúng ta thực ra cần phải đào móng mới và xây lại toàn bộ tòa nhà" Vậy là toàn bộ cuộc hội thoại giữa anh và họ xoay quanh việc chọn màu sơn, nhưng trong đầu anh là ý nghĩ rằng toàn bộ kiến trúc cần phải được thay thế và một móng nhà mới phải được xây dựng - rồi hẵng lo tới màu sơn! Brazil, Mexico, Argentina, ở đó họ có những đám đông và những viên chức có tầm nhìn về thế giới. Nhưng phần đông các nước đang phát triển hiện chưa có được điều đó, chính vì thế gian đoạn quá độ của họ vẫn còn bất ổn.
Ở Marốc, chính phủ tư hữu hóa đơn giản bằng cách bán các xí nghiệp quốc doanh cho chính những nhóm kinh tế nhỏ có quan hệ với hoàng gia, những người một thời lũng đoạn kinh tế nhà nước. Chính vì thế mà ba phần trăm dân số Ma rốc hiện kiểm soát 85 phần trăm tài sản của đất nước. Các trường Đại học ở Marốc, thường kết hợp những đặc điểm tồi tệ nhất của hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa và của Pháp, mỗi năm cho ra trường rất nhiều sinh viên, nhưng họ khômg kiếm được việc làm, không có tinh thần thương mại hay những kỹ năng công nghệ thích hợp với nền kinh tế thông tin thời nay. Ma rốc hiện có "Hội liên hiệp các sinh viên đại học thất nghiệp."
Càng có thêm các quốc gia hội nhập vào toàn cầu hóa và "Thế giới Đi nhanh", thì càng có thêm một nhóm chống đối khác - họ là những con linh dương bị tổn thương. Nhóm này gồm những người cảm thấy họ đã thử hội nhập với toàn cầu hóa nhưng đã bị hệ thống này giày vò, nhưng đáng nhẽ phải đứng dậy, phủi bụi và chạy tiếp để theo kịp toàn cầu hóa, họ đã về nhà đóng kín cửa, thay đổi luật lệ để tránh toàn cầu hóa. Điển hình cho nhóm chống đối này là Thủ tướng Mahathir của Malaysia. Không có gì có thể sánh kịp với sự tức giận của một nhân vật toàn cầu hóa thất bại. ngày 25/10/1997, giữa lúc kinh tế Á châu đang thua thiệt, Mahathir đã tuyên bố với hội nghị Thượng đỉnh khối thịnh vượng chung ở Edinburg rằng kinh tế toàn cầu - vốn dĩ đã đổ hàng tỷ đô-la vào Malaysia, và nếu không Malaysia đã không bao giờ tăng trưởng nhanh như thế - nay đã trở thành "vô chính phủ."
"Đây là một thế giới bất bình đẳng," Mahathir giận dữ nói. "Nhiều người trong chúng tôi đã vật lộn khó khăn và thậm chí đã đổ máu để giành được độc lập. Khi những đường biên giới được mở cửa và thế giới trở thành một thực thể thống nhất, thì độc lập có thể trở thành vô nghĩa."
Chẳng lấy làm lạ khi năm 1998 Mahathir là nhà toàn cầu Á châu đầu tiên áp đặt chính sách kiểm soát trong một cố gắng nhằm chặn đứng làn sóng đầu cơ tự do chống lại đồng nội tệ và thị trường chứng khoán của ông. Khi Bộ trưởng Thông tin Singapore George Yeo mô tả hành động của Mahathir lúc đó, ông ta nói, "Con thuyền Malaysia đã rút lui vào một cái hồ ven biển và thả neo ở đó, nhưng chiến lược đó sẽ không phải là không có rủi ro."
Đúng như vậy. Nếu cho rằng rút lui vĩnh viễn vào một nơi hẻo lánh và an hưởng những mức sống cao của "Thế giới Đi nhanh", và tránh được bất cứ sức ép nào, thì chính bạn đang tự huyễn hoặc bản thân và dân chúng của bạn. Tuy nhiên, sự rút lui của Mahathir, sau này được biết chỉ là tạm thời, đã nhận được sự thông cảm trong thế giới đang phát triển - thông cảm nhưng họ không làm theo. Khi chúng ta sang thập niên thứ hai của toàn cầu hóa, có một quan niệm mới trong số các quốc gia vốn dĩ chống đối chiếc áo nịt nạm vàng và "Thế giới Đi nhanh" - đó là: họ không thể tiếp tục chống đối nữa. Và họ biết chiến lược rút lui sẽ không mang lại lợi ích gì về lâu dài cho tăng trưởng. Trong nhiều năm tôi hay gặp Emad El-Din Adeeb, biên tập viên tạp chí al Alam al Youm của Ai Cập trong những hội nghị của Ngân hàng Thế giới và những nơi khác, và trong cũng nhiều năm anh ta nói với tôi về sự ngờ vực của anh ta về khả năng Ai Cập hội nhập toàn cầu hóa. Khi gặp lại anh năm 1999 tại Diễn đàn Kinh tế Davos, anh nói với tôi, "OK, tôi hiểi rằng chúng tôi phải sẵn sàng để hội nhập toàn cầu hóa, một phần đó cũng là trách nhiệm của chúng tôi. Có một đoàn tàu đang chuẩn bị rời ga và chúng tôi biết điều đó và phải chuẩn bị. Nhưng liệu anh có thể nói đoàn tàu đó chạy chậm lại chút ít để chúng tôi có thời gian để nhảy lên bám theo tàu."
Tôi không dám nói thực với anh ta lúc đó rằng tôi vừa dự bữa ăn trưa cùng giới báo chí với Bill Gates. Tất cả các nhà báo cứ hỏi mãi Bill Gates, "Ông Gates. Những cổ phần Internet. Chúng là những bong bóng xà phòng phải không?" Sau cùng, Bill Gates bực tức nói với đám phóng viên: Đúng chúng là những bong bóng xà phòng, nhưng các bạn đã lẫn lộn ở một điểm. Những bong bóng đã thu hút rất nhiều tiền đầu tư vào ngành Internet và sẽ thúc đẩy "nhanh nữa, nhanh nữa" quy trình sáng tạo. Vậy tôi đã chứng kiến những gì: Buổi sáng thì nghe Bill Gates nói cái "Thế giới Đi nhanh" sẽ tiếp tục tăng tốc, buổi chiều thì gặp anh bạn Adeeb nói rằng, anh ta cũng muốn nhảy vào cái thế giới đó, nhưng, ai đó làm ơn nói nó chạy chậm lại chút ít.
Tôi nói với Adeeb rằng tôi cũng mong muốn đoàn tàu toàn cầu hóa chạy chậm lại, nhưng ở đầu tàu, tôi không thấy ai đang cầm lái.
Có một lần uống cà phê trong một quán cà phê Internet, mang tên Books@Cafe ở Amman, Jordan. Quán này ở ngay gần khi di tích được bảo tồn đẹp đẽ - một trong những nhà hát thuộc kiến trúc La Mã ở Trung Đông. Hồi đó là năm 1997, chủ quán, Madian al-Jazerah đứng lại bên bàn và làm quen với tôi. Anh ta nằng nặc mời tôi nếm thử món bánh chuối kem. Vì sao bánh chuối kem? Tôi hỏi. Anh ta trả lời rằng bánh này là do vợ của phó đại sứ Israel ở Amman làm.
"Để tôi nhắc lại cơi thử đúng không," tôi nói, "bánh chuối kem trong cà phê Internet ở Amman do vợ của phó đại sứ Israel làm! Hay thật. Tôi khoái quá."
Nhưng anh này nói cũng có nhiều người không thích thú gì điều đó. Khi những người Hồi giáo chính thống ở Amman biết bánh chuối kem trong cà phê Internet ở Amman do vợ của phó đại sứ Israel làm họ đã kêu gọi tẩy chay cho đến khi nào chủ quán rút món đó khỏi thực đơn. "Và họ đã dùng Internet để kêu gọi tẩy chay," chủ quán nói. (Rõ ràng là cuộc tẩy chay đã thất bại vì món bánh chuối kem vẫn được ghi trong thực đơn!)
Những người Hồi giáo chính thống chống-bánh-chuối-do người Israel làm đã đại diện cho một làn sóng khác chống toàn cầu hóa. Đó là sự chống đối của hàng triệu người dân uất ức trước sự đồng hóa mà toàn cầu hóa gây ra, dám đưa món bánh chuối Israel ra diễu trước mặt dân Hồi giáo Jordan, đưa người lạ cùng thói lạ vào nhà, xóa đi những đặc tính văn hóa và nhổ bật những cây ô liu truyền thống của bạn. Cũng có nhiều người rõ ràng đã sẵn sàng dẹp đi nhiều phần trong văn hóa địa phương để đón nhận văn hóa tiêu dùng, Mỹ hóa hay toàn cầu hóa, hoặc tung hứng cả hai luồng văn hóa thể hiện trong cách sống, quần áo, ẩm thực và ý thức. Không bao giờ nên coi thường những người biết tung hứng như vậy. Nếu không có họ thì làm sao McDonald's và Disney có thể lan tràn đến được nhiều nơi trên thế giới. Nhưng có những người rõ ràng đã không muốn chơi trò tung hứng. Họ sẵn sàng tham chiến để bảo vệ văn hóa riêng của họ. Khẩu hiệu xung trận của những người này là: "Tôi không muốn toàn cầu. Tôi chỉ muốn địa phương." Đối với các nhà toàn cầu hóa, họ tôn trọng những người nối kết nhiều nhất. Đối với phái cực đoan, họ kính trọng những nhân vật xa rời mạng - xa rời mọi thứ trừ chân lý của họ.
Những phản ứng về văn hóa trở nên gây bất ổn về chính trị một khi chúng kết hợp với những phản ứng khác - khi những nhóm người bị thiệt thòi về kinh tế trong toàn cầu hóa kết hợp với những nhóm đau khổ về văn hóa. Hiện tượng này rất phổ biến ở vùng Trung Đông, nơi những phần tử cực đoan của nhiêù phái đã trở nên rất giỏi trong việc thêu dệt nên những sự chống đối mang tính chính trị, kinh tế và văn hóa nhắm vào toàn cầu hóa, tập hợp chứng dưới một ngọn cờ và một phong trào chính trị chung, họ muốn tiếm quyền rồi choàng lên trên cộng đồng một chiếc khăn, chắn cả cộng đồng không cho ai nhìn ra thế giới. Lá cờ chống đối đầu tiên của người Algeria là một bao tải lúa mạch couscous, món ăn chủ yếu ở vùng Bắc Phi, lá cờ tượng trưng cho sự phẫn uất của những người lao động Algeria, đặc biệt giới trẻ không có việc làm. Dần dần những người cầm lá cờ đó đã liên hiệp với những phần tử Hồi giáo chính thống cùng chống lại trào lưu phương Tây hóa và phi tôn giáo hóa chế độ của Algeria, cùng với nhau họ tạo một làn sóng chống đối mạnh mẽ, dưới lá cờ xanh lục của Hồi giáo chính thống, chống lại những ai ở Algeria mong muốn hội nhập đất nước với hệ thống toàn cầu hóa.
Việc bầu phiếu đưa Benjamin Netanyahu lên chức Thủ tướng Israel năm 1996 một phần cũng là một sự phản ứng chính trị chống lại Hòa ước Oslo, một phần cũng là sự chống đối về văn hóa nhằm vào toàn cầu hóa và hội nhập tiềm ẩn trong các cố gắng hòa bình giữa Israel và khối Ả rập. Học giả tôn giáo người Israel Moshe Halbertal có lần đã nói với tôi rằng Shimon Peres có một viễn tưởng rằng cháu của ông ta và cháu của Yasser Arafat một ngày nào đó sẽ "cùng nhau sản xuất chip vi tính" - viễn tưởng đó đã đe dọa rất nhiều người Do Thái chính thống đang sống ở Israel. Họ sợ rằng một khi những bức tường ranh giới ở quanh Israel đổ xuống, đất nước này hội nhập vào Trung Đông - giống như người Do Thái hội nhập vào xã hội Mỹ - thì đạo Juda sẽ bị ảnh hưởng xấu. Họ lo ngại rằng sẽ không có chuyện sống chung hòa bình giữa hai khái niệm " hòa bình bây giờ" hay "Do Thái bây giờ" - đặc biệt khi hòa bình còn có nghĩa là toàn cầu hóa, hội nhập, dịch vụ thuê video Blockbuster, các kênh truyền hình cáp truyền hình ảnh gợi dục, và Pizza Huts. Vậy nên mới có những tấm biển xuất hiện trong những khi Do Thái chính thống trước ngày bầu cử Thủ tướng Israel năm 1996, viết: "Bầu cho Bibi [Netanyahu]. Ông ta bênh vực người Do Thái." Ở Israel chống đối mang màu sắc văn hóa nhằm vào toàn cầu hóa đã kết hợp với sắc thái chính trị và kinh tế. Sau khi có hòa ước với Jordan, các nhà máy dệt Israel bắt đầu có những hành động hợp lý: họ chuyển những dây chuyền sản xuất, những công ăn việc làm kỹ năng thấp từ địa phương Israel như từ Kiryat Gat qua sông sang cho Jordan, nơi có nhân công rẻ hơn. Và bỗng nhiên những thợ dệt Do Thái, chưa có đủ kỹ năng để xin vào nhà máy của Intel đang được xây dựng ở Israel, thấy công ăn việc làm của họ bị chuyển sang Jordan - điều mà nếu không có hòa ước Israel-Jordan và toàn cầu hóa thì không bao giờ xảy ra. Những người thợ dệt đó lo sợ rằng hòa bình sẽ không đi đôi với việc làm cho họ, và cũng vì nhiều người trong số họ thuộc phái Do Thái phương Đông - vậy là họ quay sang ủng hộ đảng Shas, một đảng chính thống cực đoan, chống toàn cầu hóa trên cơ sở văn hóa và tôn giáo, một chính đảng chỉ quan tâm tới các đức cha. Vậy là những người thất nghiệp, kết hợp với giới có đường lối cố kết sắc tộc và tôn giáo, thành một phong trào chống toàn cầu hóa.
Hiển nhiên là không có gì sai trái trong việc đặt xã hội của bạn lên trên một trụ cột tôn giáo và truyền thống. Đó là những cây ô liu khiến cho xã hội gắn bó. Không phải ai trong số những người tôn trọng những giá trị đó cũng đều ra tham gia chủ nghĩa cực đoan. Nhưng khi chủ nghĩa cực đoan đó không còn do những yếu tố tâm linh điều khiển mà do tâm lý chống toàn cầu hóa điều phối thì nó thường rơi vào khuynh hướng giáo phái phân liệt, bạo động và ly khai. Và càng rời xa thực tế, càng mất dần liên lạc thì càng bị tụt hậu; càng tụt hậu thì càng tiếp tục rút lui và ly khai.
Nhưng cũng không cần phải là một người cực đoan Do Thái hay Hồi giáo để muốn tham gia chống đối toàn cầu hóa bạn. Bạn chống đối có thể vì toàn cầu hóa đã khiến bạn trở nên lạc lõng ngay trong môi trường thân thuộc của bạn. Đây là một hiện tượng thông thường. Khi tôi sang châu Á vào năm 1996, thì những người Australia tổ chức bầu cử. Tôi ngạc nhiên khi thấy các vận động tranh cử ở Úc lúc đó xoay quanh chủ đề bánh quy và áo tắm khá nhiều. Vâng, John Howrd, lúc đó là thủ lĩnh đảng Tự do, phái bảo thủ, tố giác Paul Keating thuộc đảng Lao động đang cầm quyền, rằng trong khi hăng say thúc đẩy nước Úc hội nhập với kinh tế toàn cầu và đầu tư nước ngoài, đã tạo ra một tình huống trong đó các công ty thân thuộc của đất nước bị các tập đoàn của nước ngoài vào sáp nhập và người nước ngoài đang vào nắm quyền quản lý. Howard tố giác rằng người Úc đang mất dần những biểu trưng dân tộc, bản sắc và chủ quyền vào tay thị trường, dẫu cho kinh tế có được cải thiện đến đâu.Đặc biệt ông ta chỉ vào hãng bánh quy hiệu Arnott's, có sản phẩm mà bất cứ đứa trẻ nào ở Úc khi lớn lên đều biết đến, đã bị bán cho một công ty Mỹ (Campbell's Soup, cũng rất nổi tiếng!), công ty này sau đó đã thay đổi thành phần của bánh quy Iced Vovos - thương hiệu nổi tiếng rất Úc, làm bằng dừa và kẹo dẻo. Ông Howard cũng nói điều tương tự cũng đã xảy ra cho thương hiệu áo quần bơi Speedo nổi tiếng của Úc, cũng đã bị bán cho một hãng của Mỹ. Thương vụ Iced Vovos và Speedo đã trở thành một chủ đề nóng hổi trong các cuộc tranh cử. Và chính những lập luận theo lối ôm chặt cây ô liu đã giúp cho Howard chiến thắng ròn rã Keating, một người thích xe hơi Lexus.
Một năm sau đó vào mùa xuân 1997, khi tôi đang đi qua những vùng đồn điền bang Indiana trên đường đến Đại học Purdue. Lái xe cho tôi là Giáo sư John Larson, một người có nhiều suy nghĩ sâu sắc. Khi đến gần Lafayette, tôi nhìn thấy xa xa có một nhà máy lớn. "Nhà máy gì đó?" tôi hỏi. "Nhà máy sản xuất xe hơi Subaru," Giáo sư Larson trả lời, khi chúng tôi gần đến nơi. Ông nói thêm rằng nhà máy Subaru đó là khiến cho bang Indiana có "cảm giác giống như một nước thuộc Thế giới thứ ba."
"Vì sao?" tôi hỏi thêm.
"Đối với thế hệ như của tôi, lớn lên trong những năm 50, nước Mỹ bao giờ cũng là nước vươn ra thế giới," Larson giải thích. "Chúng tôi sinh ra cái gọi là toàn cầu hóa. Đến khi những chủ hãng xe hơi người Nhật đến Mỹ tìm chỗ để đặt nhà máy xe Subaru, họ đến vùng này như cáo lối người Mỹ sang Ấn Độ. Họ hỏi những câu: "Hãy giành cho chúng tôi những thứ mà chúng tôi muốn? Trình độ văn hóa ở đây ra sao? Chúng tôi có được hưởng ưu đãi về thuế không?" Những người đứng đầu cộng đồng ở đây rất thích được đầu tư, nhưng một số người khác thì chất vấn: "Những tay Nhật Bản là ai vậy mà dám hỏi han về trường lớp của chúng ta?'
Khi những lãnh đạo của Subaru quyết định đặt nhà máy ở Lafayette, có người đã gợi ý nên đổi tên con đường cao tốc trước cổng nhà máy thành "Đường cao tốc Subaru," để vinh danh công ty Nhật đó đã đến và mang theo nhiều công ăn việc làm. "Nhưng khi tổ chức VFW nghe chuyện đó họ đã làm ầm lên," Larson giải thích tiếp. "Họ nói rằng không thể đổi tên đường cao tốc đó. Anh có biết đường này mang cái tên mang ý nghĩa gì không?" Đường này mang tên Bataan - tên của bán đảo Philippin nơi hàng ngàn lính Mỹ bị giết sau khi họ bị quân Nhật bắt hồi tháng Tư năm 1942.
"Người của Subaru rất nhạy cảm. Họ nói chúng tôi không nên đổi tên đường cao tốc đó," giáo sư Larson nói. "Từ ngày đó, dân chúng quen dần với những người Nhật, và họ chấp nhận những người này trong cộng đồng. Các quản trị viên người Nhật cùng gia đình thay nhau dọn vào sống trong vùng này. Con cái họ đến trường ở địa phương - trừ ngày thứ bảy, bọn trẻ đến trường riêng để học ôn tiếng Nhật và một phần cũng vì họ nghĩ rằng cách dạy toán của chúng ta không được triệt để cho lắm."
 
Chương 16
Tập hợp lực lượng (hay chống đối lại chống đối)


Mùa đông năm 1995, tôi đến Hà Nội. Mỗi buổi sáng khi đi tập thể dục, tôi dạo quanh những ngôi chùa bên hồ Hoàn Kiếm, ngay ở trung tâm Hà Nội; và mỗi buổi sáng tội lại gặp một phụ nữ Việt Nam nhỏ bế ngồi bên lối nhỏ, bên cạnh là một chiếc cân buồng tắm. Chị mời mọi người lên cân để kiếm chút tiền. Và mỗi buổi sáng tôi trả cho chị ta một đô-la và bước lên cân. Không phải vì tôi muốn biết tôi năng bao nhiêu cân - tôi biết rõ trọng lượng của bản thân tôi (và nếu nhớ không lầm thì cân của chị cũng không được chính xác cho lắm). Nhưng, bằng cách bước lên cân, tôi muốn đóng góp cho toàn cầu hóa ở Việt Nam. Đối với tôi, phương châm của người phụ nữ này, mà chị này không nói ra, là: "Có được thứ gì, dù lớn hay nhỏ thì cứ việc bán, đổi chác, cho thuê, thế chấp... làm bất cứ điều gì để kiếm lời, cải thiện đời sống và hội nhập vào cuộc chơi."
Người phụ nữ và chiếc cân thể hiện một thực tế căn bản của toàn cầu hóa, một điều ít được nhắc tới trong những bàn bạc của các nhà quản trị tiền tệ, quỹ đầu tư và những bộ vi xử lý kỹ thuật cao. Đó là: toàn cầu hóa bắt đầu từ tầng lớp dướo, từ hè phố, từ tâm hôn và những hoài bão của con người. Đúng là toàn cầu hóa là kết quả của trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ, nhưng động lực để lái những trào lưu đó chính là hoài bão của con người - mong muốn có một cuộc sống tốt hơn - cuộc sống có nhiều lựa chọn để đi lên, ăn ngon, mặc đẹp, du lịch, làm việc, đọc sách, viết sách và học thêm. Toàn cầu hóa bắt đầu từ một phụ nữ ở Hà Nội, ngồi bên lề đường, dùng chiếc cân bàn như chiếc vé để gia nhập cái Thế giới đi nhanh đó.
Trong trung tâm Hà Nội ngày nay, một phân vuộng trên hè phố dường như đều có những người buôn bán, hoặc từ mảnh chiếu, từ rương hòm hay từ cửa hiệu của họ. Trên đường phố là những người đã đổi dép guốc để lấy xe đạp, đổi xe đạp sang xe máy, đổi xe máy lấy xe hơi Honda Civc, đổi Civic lấy Camry và thỉnh thoảng có người thậm chí đổi được Camry để lấy xe Lexus. Chúng ta thường nghĩ toàn cầu hóa chỉ đính dáng tới việc một đất nước hội nhập với bên ngoài, hay những gì được áp đặt từ phía trên hay từ bên ngoài, chúng ta thường quên rằng toàn cầu hóa bắt đầu từ những tầng lớp địa phương, từ thâm tâm mỗi chúng ta.
Điều đó giải thích tại sao cùng với sự xuất hiện những sự chống đối nhằm vào những sức ép, sự tàn khốc và thách thức của toàn cầu hóa, là cả một nền tảng dân chúng ở dưới dạng đòi hỏi những phúc lợi từ chính quá trình này. Nền tảng là tập hợp của hàng triệu nhân công, những người bị toàn cầu hóa xô đẩy, nhưng chính họ đã đứng lên, phủi bụi trên quần áo, và gõ cửa toàn cầu hóa, đòi được gia nhập vào hệ thống này. Vì nếu họ chỉ có dù một phần cơ may thì những con rùa sẽ không muốn mãi mãi mình là rùa, những người bị bỏ rơi sẽ không muốn lặng lẽ đi sau, và những người thiếu hiểu biết nay sẽ muốn học thêm. Họ muốn trở thành những con sư tử hay linh dương, họ muốn hưởng chút ít từ toàn cầu hóa, họ không muốn phá bỏ nó.
Tình cờ tôi sang Rio de Janeiro lúc chính phủ Brazil tư nhân hóa công ty điện thoại quốc doanh Telebras. Lúc đó có một cuộc biểu tình trên đường phố Rio chống tư nhân hóa. Nhưng điều là tôi ngạc nhiên là vào này hôm sau, tờ báo Brazil O Globo đăng một phỏng vấn với một trong nhũng người xuống đường biểu tình. Khi được hỏi vì sao anh ta đi biểu tình, người này trả lời anh ta làm thế bởi vì "nghĩ rằng tôi có thể kiếm được một việc làm." Anh chàng này không chống tư nhân hóa, mà chỉ muốn kiếm phần.
Dân chúng có thể chịu đựng được nhiều sức ép từ toàn cầu hóa hơn là người ta tưởng - vì, chẳng hạn những người thợ mỏ Nga, nông dân Mexico và lao động Indonesia hiểu rằng ở một mức nào đó, họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải theo kịp vào Thế giới Đi nhanh; phần nữa cũng bởi vì số đông dân chúng không muốn thế giới đó đi chậm lại. Dĩ nhiên, nếu những thế lực thị trường trở nên khó kiểm soát - nếu dân chúng cảm thấy toàn cầu hóa trở nên điên rồ, phá vỡ quan hệ giữa lòng hăng say làm việc và mức cải thiện sinh hoạt và những cải tổ đầy đau đớn và chính sách thắt lưng buộc bụng không đem lại gì cho họ - thì chắc chắn họ sẽ đạp bỏ toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta chưa phải đã tiến đến cái mức đó.
Hãy nghĩ về những người thợ ở Nga sau khi Liên Xô sụp đổ - những người bị chậm hàng tuần hay hàng tháng lương. Vì sao họ đã không đốt cháy điện Kremlin? Vì họ trước kia cũng đã làm điều đó và nay họ đã hiểu rằng làm thế cũng vô ích. Lần này họ muốn có một kết cục khác - họ muốn sự thịnh vượng, tự do và những lựa chọn - và họ sẵn sàng hy sinh vì chúng. Câu chuyện về nước Nga mà tôi rất thích, do một nhà kinh tế Nga kể lại cho một người bạn tôi, cho biết có một lính xe tăng người Nga trong một thị trấn nằm sau dãy Urals. Anh này đã lái xe tăng vào trong tòa thị chính để đòi cho được tiền lương nhà nước nợ anh ta. Nhưng khi những người dân thị trấn xúm quanh xe tăng và hỏi liệu anh ta có muốn bắn đổ tòa thị chính hay không thì anh này trả lời không bao giờ - lý do anh ta đi xe tăng vào là vì không có phương tiện giao thông nào khác sẵn có, và anh không đủ tiền để đi taxi. Anh ta chỉ muốn truy lĩnh lương thôi.
Thực tế cho thấy dẫu cho có những sức ép mà chủ nghĩa tư bản toàn cầu gây cho các xã hội, toàn cầu hóa ngày nay đã giúp nâng cao mức sống với tốc độ nhanh và cho nhiêù người hơn bất cứ trong giai đoạn nào trong lịch sử. Chúng đã đưa nhiều dân nghèo nhập được hàng ngũ trung lưu nhanh hơn trước nhiều. Vậy thì trong khi cái hố ngăn cách giàu nghèo đang trở nên rộng hơn - vì những kẻ thành công trong toàn cầu hóa tiến rất nhanh và ngày càng bỏ xa các tầng lớp khác - thì mức sống thuộc loại nghèo khó cũng đang dần được nâng cao hơn, ở nhiều nơi trên thế giới. Nói cách khác, trong khi mức đói nghèo tương đối đang dâng lên ở nhiều nước, thì mức đói nghèo tuyệt đối lại đang giảm đi ở nhiều nơi. Theo báo cáo về Phát triển Nhân loại của Liên Hiệp Quốc năm 1997, mức đói nghèo đã giảm trong vòng 50 năm qua nhanh hơn thời gian 500 năm trước đó. Tốc độ tiến của các nước đang phát triển trong 30 năm qua tương đương với tốc độ của các nước công nghiệp hóa tiến trong cả một thế kỷ. Từ năm 1960, tỷ lệ tử vong lúc sơ sinh, thiếu dinh dương và mù chữ đang giảm xuống đáng kể, trong khi việc cung cấp nước sạch cho dân đang tiếp tục được cải thiện. Trong một thời gian tương đối ngăn, những nước và những vùng mở cửa ra thế giới như Đài Loan, Singapore, Chile, Israel, Chi lê và Thụy Điển đã đạt được mức sống tương đương với Hoa Kỳ và Nhật Bản, trong khi kích thước của giai cấp trung lưu trong các nước như Thái Lan, Brazil, Ấn Độ và Hàn Quốc đã tăng lên, nhờ có toàn cầu hóa.
Mời bạn xem bài sau đây của tạp chí The Economist (8/1/2000):
HÃY CẢNH GIÁC: Các công ty đa quốc gia đang hoành hành, cướp bóc công ăn việc làm, xóa bỏ lương bổng và nói chung đang phá hủy các nền kinh tế địa phương. Đó là những điều giới chỉ trích chống toàn cầu hóa lập luận. Nhưng nếu lạnh lùng nhìn vào những con số thì ta thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Một nghiên cứu đối chiếu của OECED [Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế], nghiên cứu đầu tiên loại này cho ta thấy con số các hãng nước ngoài đóng góp cho các nền kinh tế quốc gia.
Thực tế 1: Các hãng nước ngoài trả lương cho công nhân cao hơn mức lương bình quân - và khoảng cách này ngày càng rộng hơn. Ở Mỹ chẳng hạn, năm 1989, các hãng nước ngoài trả lương cao hơn lương nội địa 4 phần trăm; năm 1996, mức chênh lệch đó là 6 phần trăm.
Thực tế 2: tại phần lớn các nước, các hãng nước ngoài tạo cơ hội việc làm nhanh chóng hơn các hãng nội địa. Tại Hoa Kỳ, nhân lực tại các hãng nước ngoài tăng 1,4 phần trăm trong thời gian 1989-1996, so với con số tăng nhân lực 0,8 phần trăm trong các hãng nội địa. Cả ở Anh và Pháp, nhân lực trong hãng nước ngoài tăng 1,7 phần trăm/năm; trong khi ở các hãng nội địa, nhân công giảm 2,7 phần trăm. Chỉ có ở Đức và Hà Lan thì các hãng nước ngoài mới giảm nhân công.
Thực tế 3: Các hãng nước ngoài đầu tư nhiều vào nghiên cứu và phát triển (R&D) ở những nước họ đầu tư. Năm 1996 mức R&D của nước ngoài chiếm 12 phần trăm tổng vốn dành cho R&D ở Mỹ, 19 phần trăm ở Pháp, và đáng kể nhất: 40 phần trăm ở Anh. Trong một số nước, các hãng nước ngoài dùng doanh thu vào R&D cao hơn là các hãng trong nước. Ví dụ ở Anh, hãng nước ngoài dùng 2 phần trăm doanh thu vào R&D, trong khi hãng nội địa chỉ chi có 1,5 phần trăm cho R&D.
Thực tế 4: Hãng nước ngoài xuất khẩu nhiều hơn các hãng nội địa. Năm 1996 các hãng nước ngoài ở Ireland xuất 89 phần trăm sản phẩm của họ, trong khi các hãng nội địa xuất có 34 phần trăm sản phẩm. Sự chênh lệch ở mức 64-37 phần trăm diễn ra ở Hà Lan, 35,3-33,6 phần trăm ở Pháp và 13,1-10,6 ở Nhật. Ngoại lệ lớn nhất là Hoa Kỳ trong đó hãng trong nước xuất 15,3 phần trăm trong khi hãng nước ngoài xuất 10,7 phần trăm.
Những lợi ích của đầu tư nước ngoài còn cao hơn tại các nước nghèo hơn trong OCED. Ví dụ Thổ Nhĩ Kỳ: tại đó lương trong các hãng xưởng nước ngoài bằng 124 phần trăm lương trung bình; mức nhân công của hãng nước ngoài tăng 11,5 phần trăm/năm, so với con số tăng 0,6 phần trăm trong các hãng xưởng nội địa; và R&D của các hãng nước ngoài cao gấp đôi so với chi phí của các hãng nội địa.
Rõ ràng là trong khi sự chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đang còn đó thì sự chống đối này cũng bị kiềm chế vì nguyện vọng của người dân muốn toàn cầu hóa nhiều hơn nữa. Không cần phải là một nhà khoa học chính trị mới biết được điều đó. Chỉ cần bạn đi dạo trên bất cứ phố phường nào, đặc biệt trong bất cứ đất nước đang phát triển nào.
Bạn sẽ gặp Chanokphat Phitakwanokoon, 40 tuổi, phụ nữ người Thái gốc Hoa, bán thuốc lá và bánh bao trong một kiosk trên đường Wireless Road, trung tâm Bangkok. Tôi đã ngụ tại một khách sạn gần đó hồi tháng 12/1997, vào cái tuần mà chính phủ cho đóng cửa phần lớn các quỹ tín dụng của đất nước. Tôi nhờ người phiên dịch đi cùng để đưa tin về phản ứng của những người buôn bán trên hè phố. Người đầu tiên tôi gặp là Chanokphat. Trước hết tôi hỏi chị: "Hàng họ buôn bán thế nào rồi?"
"Sụt mất 40-50 phần trăm," chị buồn rầu trả lời.
Tôi hỏi có bao giờ chị biết ai tên là George Soros, tỉ phú, chủ một quỹ đầu cơ, người bị đổ tội là đã đầu cơ các đồng nội tệ Á châu và khiến chúng sụt giá.
"Không," chị lắc đầu. Chị chưa bao giờ nghe về người này.
"Vậy xin hỏi chị, chị có biết thị trường chứng khoán là gì không?" tôi hỏi tiếp.
"Có," chị nhanh nhẹn trả lời. "Tôi có cổ phiếu của Bangkok Bank và Asian Bank."
"Vì sao chị biết mà lại mua cổ phiếu của chúng?" tôi hỏi.
"Bà con của tôi ai cũng mua, vậy là tôi mua," chị trả lời. "Tôi giữ các cổ phiếu trong ngân hàng, giờ đây chúng chẳng còn mấy giá trị."
Vào phút đó tôi nhìn xuống và thấy chị không đi giày dép gì cả. Có thể chị vứt giày ở đâu đó, nhưng đúng là chị đang đi chân không. Tôi tự nhủ: "Chị này không có giày dép, văn hóa chỉ khoảng lớp năm, vậy mà lại sở hữu cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán." Có những câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi: Những niềm quan tâm của chị ta là gì? Liệu chị có định dẫn đầu một đám biểu tình đến đốt toà trụ sở của IMF, một tổ chức đã ép buộc Thái Lan phải cải tổ và thắt lưng buộc bụng? Hay là, do giờ đây chị này đã hội nhập vào hệ thống, liệu chị có cố gắng làm việc nhiều hơn, tiết kiệm hơn và hy sinh nhiều hơn, thậm chí hy sinh cho IMF, nếu điều đó giúp khôi phục kinh tế Thái Lan? Tôi có cảm giác chị sẽ thực hiện lựa chọn sau. Tập hợp lực lượng là như vậy đó.
Trên phố bạn cũng có thể gặp Teera Phutrakul, đứng đầu một trong những hỗ tương lớn nhất ở Thái Lan. Tôi đến phỏng vấn ông ta và hỏi liệu sẽ có một phản ứng ở Thái Lan nhằm vào các ông chủ nhà băng người Mỹ và phương Tây, những người có thể vào mua chiếm lĩnh các ngân hàng và doanh nghiệp Thái Lan, vì giờ đây tiền Thái mất giá và khá nhiều các doanh nghiệp đang lỗ chỏng vó. Teera nghĩ một lúc rồi trả lời, bằng cách kể cho tôi một câu chuyện: Vài tuần trước đó, một người bạn của ông bị mất ví. Trong ví có những thẻ tín dụng của bốn ngân hàng: American Express, và ba ngân hàng Thái Lan. Người này lập tức đã gọi điện cho các ngân hàng đó để báo về chuyện mất cắp thẻ tín dụng. American Express hỏi nếu anh ta muốn thì họ có thể cấp thẻ mới, gửi Honda ôm, mang đến cho anh ngay hôm đó. Nhưng với các ngân hàng Thái thì cho mãi đến hôm nay, vẫn chẳng thấy họ hồi âm cho anh bạn này.
"Vậy thì," Teera nói, "hãy tự hỏi: "Liệu anh bạn tôi có cần quan tâm xem liệu ba ngân hàng Thái Lan đó bị Citibank mua lại và nâng cấp chất lượng để theo kịp American Express hay không?'
Nhưng còn vấn đề niềm tự ái dân tộc? Ừ thì tự hào, nhưng tự ái này sẽ giảm đi nếu ngân hàng thuê nhân lực Thái Lan và làm ăn có lãi có hiệu quả như Citibank hay American Express. Tập hợp lực lượng là như thế đấy.
Trên phố bạn cũng có thể gặp Liliane, 32 tuổi, một nhân viên xã hội người Brazil sống ở khu Rocinha ở Rio, làm việc cho chính quyền địa phương. Chị cho tôi đi xem một trung tâm trông trẻ em trong khu phố nghèo, và trên đường đi đã giải thích rằng chị đã tiết kiệm hàng năm trời để có thể chuyển gia đình ra khỏi khu phố nghèo đó. Giờ đây gia đình của chị đã kết nối được với Thế giới đi nhanh, và chị không bao giờ muốn thề giới đó bị loại bỏ. Chị nói: "Khi còn nhỏ, tôi thấy tất cả mọi người trong xóm không có TV, họ đến xem nhờ trong một gia đình. Giờ đây tôi chuyển đến chỗ mới, các sở làm là một giờ 20 phút, đi làm lâu hơn trước một tiếng, nhưng đó không phải là nơi ổ chuột và ổ tội phạm. Tôi chuyển gia đình đến đó để tránh xa những tay buôn ma túy. Mỗi tháng gia đình đến đó để tránh xa những tay buôn ma túy. Mỗi tháng, lương của tôi là 900 real. Giờ đây tôi có thể mua một chiếc điện thoại. Nhà chúng tôi là nhà gạch, không còn là nhà lá, và đến cuối tháng vẫn còn để dành được ít tiền. Khi có nạn lạm phát, không ai được mua hàng theo lối khất nợ vì không ai kham nổi mức lãi suất nợ. Ngày nay, ngay cả nghười nghèo cũng có điện thoại, truyền hình cáp và nhà cửa thì có điện vào. Tôi cũng có những vật dụng cơ bản như của người giàu. Giờ đây tôi có thể khiếu nại về [chất lượng] các dịch vụ [công ty điện thoại hay nhà máy điện]. Trước đây chúng tôi không được hưởng những dịch vụ đó, nên không thể khiếu nại chuyện đó được. "Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng.
Bạn sẽ gặp Fatima al-Abdali, một nhà khoa học nghiên cứu môi trường, chủ của Coffee Valley, quán cà phê Internet nổi tiến nhất thủ đô Kuwait, nơi bạn có thể vừa uống cà phê vừa vào mạng. Tốt nghiệp ở Mỹ, al-Abdali vẫn đeo khăn che mặt theo truyền thống Hồi giáo, nhưng đã trở thành một người hiểu biết cao về Internet. Và chị là một trong những cử tọa trong phiên tôi giảng bài về toàn cầu hóa ở Kuwait vào năm 1997. Sau bài giảng, chị mời tôi đến quán cà phê, cũng để gặp một vài sinh viên ở đó. Khi ngồi vào bàn, tôi nói với chị: "Có một điều tôi không hiểu, xin chị giải thích. Chị trùm khăn che mặt, chắc chắn là một người theo đạo, nhưng lại tốt nghiệp ở một đại học ở Mỹ, và giờ đây đang giới thiệu Internet cho dân chúng Kuwait. Tôi không rõ về sự kết hợp như vậy."
Đại thể câu trả lời của chị là, trong quá khứ có nhiều lần thế giới Ả rập bị nước ngoài xâm lăng, và chính họ cũng mang đến những ảnh hưởng và công nghệ khác lạ. Nhưng, chị nói, lần này thêm một cuộc xâm lăng mới, nhưng lại do chính những người Ả rập gây ra. Họ chiếm giữ công nghệ mới, chứ không để công nghệ mới điều khiển họ. Chị dự định sẽ dùng tấm khăn choàng quanh Internet và muốn những bạn trẻ đến quán chị cũng dùng khăn choàng đúng cách. Tôi kính phục cố gắng của chị. Đừng chống lại nó - hãy tận dụng và chiếm hữu nó.
"Các đây ba năm tôi nảy ra ý nghĩ mở một cà phê Internet," chị nói. "Tôi biết Internet đang tràn đến và nếu tôi không mở một dịch vụ như thế thì sẽ có người khác làm. Tôi nhận thấy chúng ta có thể kiểm soát nó về một số phương diện, vậy thì hãy đào tạo dân chúng về những điều hay của nó, khiến nó hội nhập với văn hóa của chúng tôi, hơn là chịu để nó lũng đoạn. Tôi áp dụng, khiến cho nó thích nghi, và giờ đây tôi đang dần dần giới thiệu về quyền của phụ nữ [ Hồi giáo] trên trang web của mình."
Al-Abdali đã mời một số sinh viên thuộc Đại học Kuwait đến. Một người tình cờ cho biết họ vừa tổ chức bầu cử đại diện sinh viên trong trường và những thành phần chính thống Hồi giáo đã bị các phe độc lập, tự do và thế tục đánh bại. Bầu cử sinh viên là một hoạt động quan trọng trong thế giới Ả rập, vì nó có khuynh hướng tự do nhất, và vì thế chúng bộc lộ rõ nhất về thái độ chính trị của dân chúng, ít nhất là trong thế hệ trẻ. Tôi hỏi Abdul Aziz alSahli, một sinh viên 21 tuổi ngành truyền thông, vì sao những người cực đoan Hồi giáo bị thua phiếu. " Người Hồi giáo cực đoan không còn sức thu hút," anh này nói. "Những phái thế tục đang giúp đỡ sinh viên nhiều hơn trong những chuyện mà sinh viên đặc biệt quan tâm - in ấn, sửa chữa trong kỹ thuật email, sách thư viện, đậu xe. Xã hội giờ đây không còn duy ý chí nhiều nữa. Chúng tôi chỉ muốn đi tìm việc làm." Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng.
Bạn sẽ gặp hai người bạn Australia của tôi, nhà nghiên cứu khoa học xã hội Anne và chồng là Gerard Henderson. Nhà Hendersons gặp tôi ở Washington và kể với tôi về con gái của họ đang theo học đại học ở Australia: "Johannah, con gái của chúng tôi, 21 tuổi," Gerrard kể. "Một hôm, cháu và bạn ở chung nhà nhận được một lá thư của Telstra, công ty điện thoại Úc, thông báo rằng một phần ba công ty này đã bị tư hữu hóa, và mỗi gia đình Úc dùng dịch vụ Telstra sẽ được phép mua cổ phần của công ty. Cháu gọi điện hỏi ý kiến chúng tôi, và chúng tôi nói, cứ mua đi. Vậy là cháu mua. Cháu có rất ít tiền - lúc đó giá là 3 đô-la Úc một cổ phiếu, và cháu mua 300 cổ phiếu. Cháu nó vẫn chưa được hưởng lương. Cháu có thể trở thành một nhân viên thư viện, hay một cô giáo, hay một người làm công ăn lương chăm chỉ, nhưng cháu là người đầu tiên trong gia đình đứng ra mua cổ phiếu của Telstra. Những công nhân trong công ty Telstra đã mua tổng cộng 90 phần trăm số cổ phiếu, và họ trở nên hiền hòa, không thấy phản đối nhiều trong chuyện công ty của họ bị tư hữu hóa. Dân chúng đã hiểu tầm quan trọng của việc làm như vậy. Chính phủ bảo thủ Úc đã dùng lập luận chống toàn cầu hóa để đánh bại chính phủ lao động của Paul Keating trong năm 1996, để rồi ngay sau đó dang tay chào đón toàn cầu hóa. Không có cách nào khác ngoài chuyện chấp nhận toàn cầu hóa, nếu bạn không muốn bị lạc hậu. Cách đây 10 năm, con gái tôi có lẽ sẽ gia nhập vào dòng biểu tình chống toàn cầu hóa, nhưng với những cổ phiếu Telstra mà cháu nó mua được, giờ đây cháu trở nên quan tâm nhiều hơn đến những gì xảy ra ở phố Wall.'
Đó chính là tập hợp lực lượng.
Nếu những trí thức đang chỉ trích toàn cầu hóa sử dụng thêm thời gian vào việc tìm ra cách tận dụng nó, thay vì tìm cách xé tan nó ra, thì họ có thể nhận ra những điều dễ hiểu - toàn cầu hóa có thể tạo ra những giải pháp và cơ hội cũng nhiều như những khó khăn nó gây ra. Nhưng liệu nó có thể tạo ra giải pháp lớn nhất không? Liệu toàn cầu hóa, với sự trổi dậy của Internet và các công nghệ hiện đại có thể cải thiện đời sống của những người ở dưới đáy xã hội - 1,3 tỷ người đang sống ở mức 1 đô-la/ngày?
Có rất nhiều những lập luận chính trị ngớ ngẩn theo lối thời trang đã xuất hiện, nói về điều đó. Những người chống toàn cầu hóa đã dùng những thông số cho thấy 90 phần trăm, hay tương đương, dân chúng trên thế giới không có điện thoại hoặc chưa bao giờ được gọi điện thoại. Vì lẽ đó, họ lập luận, toàn cầu hóa và Internet sẽ không có tác dụng gì đối với họ - mà chỉ làm tăng khoảng cách giữa họ và phần còn lại của dân chúng thế giới. Đây đơn giản là một lập luận sai lầm.
Trước hết nói về công nghệ. Vào năm 2000 cứ cho rằng phần lớn dân chúng trên hành tinh chưa hề được gọi điện thoại, nhưng thực tế đó sẽ thay đổi vào năm 2005, và sẽ không còn là thực tế vào năm 2010. Theo đánh giá trong ngành viễn thông thì vào khoảng năm 2005, một tỷ những kết nối Internet di động, chi phí thấp sẽ được lắp đặt trên khắp thế giới - thông qua điện thoại di động, máy nhắn tin hay máy tính cầm tay. Và năm 2010 sẽ có khoảng 3 tỷ kết nối mới được lắp đặt. Chúng ta có khoảng một tỷ gia đình trên thế giới, những thiết bị viễn thông sẽ trở nên rẻ tiền hơn, không có lý do gì mà đại đa số những người nghèo trên thế giới lại không được kết nối mạng. (Một người bạn tôi trong ngành kỹ thuật đã đánh giá rằng vào năm 2010 thì khoảng 100 triệu máy nướng bánh mỳ nhỏ, sẽ được lắp Internet, khi đó mọi công cụ điện tử đều sẽ được gắn phần mềm và nối mạng.)
Chính vì thế câu hỏi thực sự là một khi công nghệ được phổ biến rộng rãi thì liệu chúng có góp phần xóa đói nghèo hay không khi các cuộc cách mạng kỹ thuật trước đây đã không làm được? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi không có ý nói phải là kỹ thuật hay việc thiếu kỹ thuật mới là yếu tố duy nhất để chống đói nghèo. Tạo ra môi trường ổn định chính trị, pháp luật và kinh tế giúp tăng cường sự hăng say làm ăn, giúp cho dân chúng bắt tay vào kinh doanh và tăng năng suất, chính là những yếu tố tiên quyết để chống đói nghèo ở mọi nơi mọi lúc. Nhà kinh tế Amartya Kumar Sen, đoạt giải Nobel, lập luận rõ ràng trong cuốn sách của ông Phát triển là một quyền tự do - rằng tự do, hay khả năng một người được đưa ra những quyết định trong cuộc sống của anh hay chị ta, không những là phương tiện hiệu quả nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển, mà là một mục đích tối hậu của con người ta. Khi bạn giao tài sản cho người nghèo, sống trong một môi trường bất ổn về chính trị, như Liberia hay Myanma, thì cũng chẳng lợi lộc gì. Nhưng khi trao tài sản vào tay người nghèo trong một môi trường ổn định và tự do, thì bạn sẽ thấy nhiều kết quả. Chính vì thế, Sen chỉ ra, chưa bao giờ nạn đói xảy ra trong một nền dân chủ, có đa đảng và tự do báo chí, điều này áp dụng cả với Ấn Độ. "Tự do về chính trị," Sen nói, "cho phép những bộ phận yếu ớt nhất trong xã hội được lên tiếng và trao cho họ quyền được đòi hỏi và tiếp nhận những sự hỗ trợ khi xảy ra khủng hoảng."
Những đất nước nghèo nàn như Kenya và Zambia đã tụt hậu trong hệ thống toàn cầu hóa không phải do toàn cầu hóa làm hại họ, mà do họ đã không xây dựng được những hạ tầng chính trị, kinh tế và pháp luật tối thiểu để có thể tận dụng toàn cầu hóa. Sự thịnh vượng không phải đã bỏ họ mà ra đi, mà chính họ đã không tạo ra những điều kiện để giữ nói lại. Những nước như Uganda, Ba Lan hay Hàn Quốc đã có những lựa chọn đúng đắn và đã thu lợi rất nhiều từ toàn cầu hóa. Các quốc gia không bao giờ đơn thuần nhưng phát triển - điều mà chúng thiếu là những chính phủ đúng đắn.
Do vậy chúng ta có thể sửa lại câu hỏi quan trọng kể trên. Có điều gì trong toàn cầu hóa mà có thể tăng cường được quyền tự do và đóng góp vào quá trình xóa nghèo đói, những điều mà những cải cách và tiến bộ kỹ thuật trước đây không thực hiện nổi? Câu trả lời là "có." Tôi đã cố gắng giải thích trong chương 9 và 10 về cách thức toàn cầu hóa có thể giúp cho chính phủ chịu trách nhiệm cao hơn và giúp cho cá nhân, các nhà hoạt động và các công ty những quyền lực mạnh mẽ hơn đặng trở thành những nhà sáng lập trong một thế giới không còn rào cản. Điều đáng nói là người nghèo rồi sẽ hiểu và khai thác điều đó như thế nào. Dẫu có nguy hiểm đến đâu toàn cầu hóa vẫn có thể trao cho những người nghèo một khả năng to lớn hơn để họ có thể tuyên truyền, tập hợp và tự đối phó với sức công phá của chính toàn cầu hóa. Chính điều này giải thích và duy trì sự tập hợp lực lượng trong dân chúng.
Chẳng hạn nhờ có Internet mà không còn chuyện chỉ một vài công ty truyền thông lớn giao tiếp với số đông, mà ngày nay thực tế đang cho thấy số đông đang giao tiếp với số đông. Tôi tìm hiểu điều này từ Chandra Muzaffar, Chủ tịch một tổ chức nhân quyền Malaysia mang tên Phong trào quốc tế vì một thế giới công bằng. Tôi đến gặp người đàn ông Hồi giáo hiền lành này trong văn phòng của ông ở thủ đô Kuala Lumpur. Tôi đến với một mục đích để nghe ông ta chỉ trích toàn cầu hóa, thay mặt cho những người bị hắt hủi và bỏ rơi, những người mà tổ chức của ông đang bênh vực. Nhưng ngược lại tôi đã nhận được một thông điệp nhẹ nhàng và thú vị hơn từ ông ta.
"Tôi nghĩ toàn cầu hóa không phải chỉ là sự tái sinh của chủ nghĩa thực dân," Muzaffar nói. "Những người nói như vậy thật đã không hiểu vấn đề. Sự thể phức tạp hơn thế nhiều. Hãy nhìn quanh. Do toàn cầu hóa, đã có những thành phần văn hóa của những dân tộc bị đè nén lại đang xâm nhập lên phương Bắc. Món ăn phổ biến của người Anh ngày nay không còn là cá và khoai tây rán, mà là món cà ri. Cà ri không còn là món lạ miệng đối với người Anh nữa. Nhưng tôi không chỉ nói đến cà ri. Trong ý thức hệ, hiện nay xuất hiện những quan tâm nhất định đối với những tôn giáo mới. Vậy thì trong khi có cái thế lực thống trị [Mỹ hóa], anh cũng thấy tư tưởng của những người bị thống trị đang lan tràn... Hiện có nhiều cơ hội cho phép những người khác bộc lộ tư tưởng thông qua Internet. Iran kết nối với Internet rất chẵt chẽ. Họ coi đó là một công cụ để họ phổ biến quan điểm của họ. Ở Malaysia, Mahathir được CNN đưa tin [đến khắp thế giới]. Chiến dịch vận động cấm mìn trên đất liền đang được tuyên truyền trên Internet. Đó chính là công của toàn cầu hóa giúp cho những nhóm dân chúng sống ngoài lề. Nói rằng đó là một thứ giao thông một chiều thì không đúng, và chúng ta phải hiểu được sự phức tạp của nó. Dân chúng hoạt động trong nhiều cấp độ khác nhau. Ở một mức họ có thể tức giận vì những bất công mà hiện tượng Mỹ hóa gây cho xã hội của họ, nhưng họ lại bàn về vấn đề đó khi ngồi trong quán McDonald's với con cái của họ, những người đang theo học tại Hoa Kỳ." Tập hợp lực lượng đối mặt với chống đối toàn cầu hóa.
Điều đó là thực tế ngay tại các xã hội phát triển. Tạp chí Forbes - khó có thể gọi là thứ tạp chí bênh vực cho người nghèo - đã đăng một bài rất hay vào tháng 7/1998 sau phim tài liệu của Time Warner - CNN (7/6/98) nói về lực lượng Mũ Nồi Xanh của Mỹ đã dùng hơi ngạt đối với những kẻ phản bội ở Lào năm 1970. Ngay sau bản tin, những cựu chiến binh Mỹ đã tố cáo cái gọi là sự thật về chiến dịch Tailwind dựa trên các báo cáo giả mạo và các nguồn tin mơ hồ. Mặc cho rất nhiều khiếu nại, nhưng tập đoàn truyền thông khổng lồ CNN đã không đưa ra cải chính gì về bản tin. (Những người khổng lồ truyền thông toàn cầu thường không xin lỗi ai, đặc biệt không có chuyện xin lỗi cựu chiến binh.)
""Time Warner có thể đã dự kiến mọi khiếu nại rồi cũng đi vào quên lãng," tạp chí Forbes cho biết. "[nhưng] những cựu chiến binh chiến trường Việt Nam đã sử dụng Internet - vũ khí duy nhất mà họ có. Không có Internet thì có khi phải mất hàng tháng mới có thể tìm ra sự thật, mà đến lúc đó thì chẳng còn ai nghe họ nữa." [Internet] cho phép tôi làm trong ba ngày những việc mà [nhà làm phim CNN] April Oliver làm trong 8 tháng," đại tá không quân Perry Smith (đã nghỉ hưu), một tư vấn quân sự cho CNN, người đã đi khỏi CNN để phản đối phim tài liệu đó. Smith cho biết đêm mà phim tài liệu đó được chiếu, ông ta đã viết xuống một loạt các câu hỏi xung quanh điều gì đã xảy ra hồi đó ở Lào. Chỉ bấm một nút, ông ta đã gửi email đến hơn 300 nguồn tin của riêng ông - "Email được gửi khắp nơi," Smith giải thích. Hồ sơ về chiến dịch Tailwind thời đó là tối mật, vậy là nếu những người cựu chiến binh phải đợi các vị quan liêu trong Bộ Quốc phòng quyết định cho công bố hồ sơ thì sẽ mất nhiều thời gian mới bác bỏ được tư liệu của CNN, và lúc đó thì quá muộn. Nhưng bằng cách dùng email, chi phí hầu như bằng không, các cựu chiến binh đã tập hợp hồi ức của họ từ những binh sĩ có mặt thời gian đó, rồi trong vài ngày cho công bố. Họ quả đã giáng cho CNN một cái tát.
Những cựu chiến binh, nhận tiền hưu trí, trang bị bằng email đã buộc ông Rick Kaplan, Chủ tịch CNN, lương cao, xuất hiện trên chính truyền hình CNN của ông ta, run run giống như một con hươu bị rọi đèn, bác bỏ phim tư liệu đó và xin lỗi lên xin lỗi xuống, để cố gắng giữ cho được công ăn việc làm của chính ông ta, và khôi phục uy tín cho truyền hình CNN. Tỷ số: cựu chiến binh với email: 1- Time Warner-CNN, tập đoàn truyền thông hùng mạnh nhất thế giới: 0.
Trong khi Internet và toàn cầu hóa có thể và sẽ ngày càng tạo ra tự do ngôn luận cho các cá nhân và sự minh bạch trong chính phủ, vì sao tôi lại tin rằng chúng sẽ góp phần một cách độc đáo vào việc xóa nghèo đói? "Vì Internet đến với dân chúng nhanh hơn bất cứ công nghệ nào khác," Alan Hammond, Trưởng khoa học gia của Viện Tài nguyên thế giới giải thích. "Một trang web dịch sang ngôn ngữ Ấn Độ, Trung văn, Swahili và Tây Ban Nha có thể trở thành một khi tư liệu cho khoảng hai tỷ dân. Nó có thể giúp dân chúng, thậm chí những người nghèo nhất, tìm cách thoát khỏi nghèo đói, tạo lợi ích kỹ thuật số thay cho hố ngăn cách kỹ thuật số.
Xin xem một câu chuyện của Iqbal Z. Quadir, ông chủ ngân hàng người Mỹ gốc Bangladesh. "Đầu năm 1993," Quadir kể, "tôi được tuyển vào làm trong một hãng đầu tư ở New York, ở đó tôi và đồng nghiệp cùng phối hợp viết các báo cáo, lưu giữ và chia sẻ chúng trên các đĩa mềm máy tính, lắt nhắt. Sau đó khi các máy tính của chúng tôi được nối vào một mạng nội bộ, giảm được việc phải trao đổi các đĩa mềm, chúng tôi đã viết báo cáo nhanh hơn, làm việc sáng tạo hơn và đầy hứng thú. Điều đó khiến tôi nhớ lại kỷ niệm của tôi trong một ngôi làng ở nông thôn bangladesh trong thời gian chiến tranh giành độc lập của nước này, năm 1971. Chiến tranh nổ ra đầu tiên ở đô thị, khiến gia đình tôi tản cư vào một vùng quê hẻo lánh. Cả vùng đó không có công nghệ hiện đại, ngoại trừ hai chiếc phà máy dùng để chở khách và hàng hóa giữa hai thị trấn, nó dừng bến làng tôi. Trong nhiều tháng, chiến tranh khiến cho dịch vụ chuyên chở bị đình đốn. Khi dịch vụ trở lại thì nó đã khiến cuộc sống vùng tôi thay đổi tích cực. Nông dân và ngư dân bán sản phẩm của họ với giá cao hơn, hàng hóa đa dạng hơn. Sự cải thiện lên đến mức tôi có thể thấy tận mắt, dù cho lúc đó chỉ mới 13 tuổi. Thêm nữa, trong thời gian đó tôi phải đi bộ rất nhiều giữa hai ngôi làng. Cha mẹ nói tôi đi bộ 10 km sang làng bên để nhận ít thuốc men từ một dược sĩ ở đó. Nhưng sau khi đi hết buổi sáng, đến nơi, tôi mới biết là ông dược sĩ đó đã vào thành phố để mua thêm thuốc. Và thế là mất cả buổi chiều tôi đi bộ quay lại làng của mình. Sau đó nhờ có phà nối hai làng mà đỡ phải đi bộ. Khi máy tính trong sở của tôi được nối mạng vào năm 1993, tôi nhớ lại những năm tháng bị phí hoài thời 1971, và thấy nảy sinh một thực tế. Kết nối chính là điều sẽ tăng năng suất, dù đó là chuyển xảy ra trong một văn phòng hiện đại hay trong một ngôi làng nghèo túng; kết nối sẽ tăng tiềm năng; không kết nối sẽ gây tê liệt và thui chột tiềm năng."
"Nếu kết nối đồng nghĩa với năng suất," Quadir nhớ lại. "thì nó cũng là một vũ khí chống nghèo đói. Nhưng dân Bangladesh của tôi năm 1993 đã làm gì để chống nghèo đói? Qua nghiên cứu, tôi thấy Bangladesh đã qua những bước phát triển mà ít cần đến điện thoại, tôi không hiểu được sức người bị uổng phí bao nhiêu trong việc đi lại ở cái đất nước 120 triệu dân đó. Trong 1.000 người dân chỉ có hai người có điện thoại, và trong vùng nông thôn với hơn 100 triệu dân thì hầu như không có điện thoại. Đây là một thực tế phũ phàng vì ngày nay những hình thức kết nối mới đang không ngừng xuất hiện, với Internet và Email, tạo ra những chuyển biến ngay cả ở những nền kinh tế trưởng thành như của Mỹ chẳng hạn. Vào thời điểm này năm 1993, tôi được biết chính phủ bangladesh đang có sáng kiến cấp giấy phép hoạt động cho các dịch vụ điện thoại di động, dự định bắt đầu vào năm 1994. Đây là điều rất phù hợp. Để có được sự kết nối liên lạc trong vùng nông thôn cần phải có một cách thiết lập một hệ thống liên lạc điện thoại - trong trường hợp đó, điện thoại di động là thích hợp nhất - và cần phải có giấy phép của chính phủ. Tôi đã phải hành động thật nhanh. Mặc dù thu hút đầu tư để xây dựng viễn thông ở nông thôn Bangladesh là một việc khó khủng khiếp, nhưng tôi nghĩ phải tìm ra một cách. Nếu kết nối có nghĩa là tăng năng suất, vậy thì cần phải giành trước những phần lời lãi của năng suất đó để có thể trang trải cho việc đầu tư vào kết nối. Điều quan trọng, tôi cứ nghĩ trong đầu, không phải là cần bao nhiêu tiền để cho một làng mua cho được các dịch vụ điện thoại, mà là nếu có những dịch vụ đó thì làng đó sẽ làm ra bao nhiêu tiền. Dân làng sẽ dùng lợi tức từ việc sử dụng dịch vụ để trả cho chính dịch vụ họ được hưởng."
Nhưng làm thế nào để khởi sự?
"Một đốm sáng hy vọng xuất hiện trong bối cảnh đó là định chế mang tên Grameen bank," Quadir kể tiếp. "Ngân hàng chuyên cung cấp các khoản vốn vay nhỏ, hoạt động trong 35.000 làng mạc, có 1.100 chi nhánh và 12.000 nhân viên. Thông thường một phụ nữ sẽ vay 100 hay 200 đô-la, miễn thế chấp từ Grameen Bank để mua, ví dụ, một con bò. Con bò này sẽ cho sữa, chị sẽ bán sữa cho người hàng xóm, kiếm đủ tiền để sống và trả dần khoảng vay ban đầu. Quá trình đó sẽ giúp những người nghèo đói nhất đứng dậy. Đối với tôi, khả năng kết nối có thể được tổ chức theo cách tương tự. Nghĩa là một điện thoại di động cũng giống như "con bò nọ" - ít nhất là trong cách nhìn của người đi vay vốn. Một phụ nữ có thể vay 200 đô-la từ nhà băng, mua một điện thoại di động, dùng nó, đi từng nhà, mời chào dân làng sử dụng, và thu phí, như vậy vừa kiếm ra tiền, vừa có thể trả nợ ngân hàng. Đề nghị của tôi được Muhammad Yunus, người sáng lập Grameen Bank chú ý. Không có ông ta thì chẳng làm được gì. Ông ta khuyến khích và năm 1994, tôi đã bỏ việc ở hãng đầu tư và thuyết phục Joshua Mailman, một nhà đầu tư người Mỹ có đầu óc xã hội, cùng tôi lập một công ty ở New York."
"Hai năm sau, kết quả là ra đời một quan hệ đối tác gọi là Grameen Phone Limited - một công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động cho đô thị và nông thôn Bangladesh. Ngân hàng Grameen chịu trách nhiệm lựa chọn đối tượng phụ nữ để cho vay vốn, dựa vào hồ sơ của họ vay vốn trong quá khứ. Chẳng hạn một phụ nữ đã chứng minh rằng chị có một số kỹ năng nhất định và có khả năng học hỏi thêm, sẽ được hỗ trợ cho vay vốn và mở dịch vụ điện thoại. Một yếu tố khác là nhà của chị nên nằm ở trung tâm một cộng đồng, ở giữa làng. Grameen cũng giúp cho ít nhất là một thành viên trong gia đình mở dịch vụ có thể đọc được ngôn ngữ và chữ số bằng tiến Anh. Mỗi một người làm đại lý điện thoại như vậy trung bình có thể kiếm được hai đô-la một ngày. Và đã có rất nhiều câu chuyện kể về cách sống, cách làm ăn của dân làng thay đổi ra sao kể từ ngày điện thoại xuất hiện trong làng mạc của họ. Chẳng hạn có một phụ nữ suy nghĩ sẽ nuôi một đàn gà lớn hơn, một lối làm ăn mà chưa bao giờ chị dám nghĩ tới vì trước kia nếu gà ốm thì đã không thể gọi thú y cho kịp thời. Một người đàn ông muốn mở rộng vườn chuối của ông vì giờ đây ông có thể dùng điện thoại để hỏi thăm dò giá cả thị trường để quyết định thời điểm bán sản phẩm. Một người mẹ đã dùng điện thoại để gọi bác sĩ và đã cứu được đứa con của chị, cháu bị sốt cao. Những người dân Bangladesh lưu lạc làm ăn phương xa trên khắp thế giới giờ đây có thể gọi về nói chuyện với bà con gia đình họ, và kiểm tra xem tiền họ gửi về có đến tận tay người thân. Cả một sự tác động xã hội tích cực do liên lạc đem lại. Khi có những người phụ nữ nghèo đói nhất giờ đây có thể cầm trong tay phương tiện liên lạc toàn cầu, những làn sóng tiến bộ đã xuất hiện trong những làng bản xa xôi hẻo lánh. Ngay cả những người tương đối giàu có cũng tìm đến căn nhà của người phụ nữ nghèo khó để được sử dụng dịch vụ điện thoại."
Quadir cho biết anh rút được nhiều bài học từ kinh nghiệm đó. Một điều rõ ràng là kỹ thuật số đã cho ra một lối tư duy mới và những mô hình làm ăn mới thích hợp với các nước nghèo. Nhưng cần phải có những định chế mới trong những quốc gia đó để có thể cung cấp công nghệ tới người dân thường để bản thân họ có thể tận dụng được sức mạnh kỹ thuật. Đó là điều GrameenPhone đã thực hiện. Bài học khác cho thấy không thể có cái gọi là "phát triển kinh tế: nếu không có tinh thần doanh nghiệp. Tinh thần doanh nghiệp là sức mạnh quan trọng nhất để nâng bậc các quốc gia và điều mà Internet và toàn cầu hóa có thể làm, với chút ít trí tưởng tượng, là đã khiến cho những người nghèo nhất ở Bangladesh có được tinh thần kinh doanh này.
"Theo định nghĩa thì nước nghèo thường có đông dân nghèo, những nước này cần xác định dân nghèo của họ cũng chính là một trong những nguồn sức mạnh để đưa đất nước tiến lên," Quadir kết luận. "Nói cách khác, một chiếc điện thoại di động cũng là một "con bò" đối với người cung cấp dịch vụ điện thoại, nhưng nó có thể là một "con ngựa" đối với làng đó, con ngựa giúp kéo cả làng ra khỏi nghèo đói."
Những câu chuyện trên cho chúng ta thấy thực tế: một đằng toàn cầu hóa sản sinh ra tâm lý thờ ơ xa lánh khi các thế lực và ảnh hưởng phát triển tới mức gần như vô hình và khó hiểu, một đằng nó cũng tạo ra những tiến bộ thực tế. Nó có thể tiếp cận những tầng lớp thấp nhất trong xã hội, tạo cho những người dân nghèo yếm thế những lợi thế, cơ hội và nguồn tài nguyên mới để họ có thể tự sáng tạo.
Những câu chuyện trên cũng giải thích vì sao những phản ứng chống lại toàn cầu hóa cho đến nay vẫn chưa lôi cuốn được đông đảo quần chúng để phá tan toàn cầu hóa. Quá nhiều người dân vẫn còn muốn có hệ thống toàn cầu hóa, họ tiếp tục tìm đường để hội nhập vào hệ thống đó, dù cho quá trình hội nhập có khó khăn đến đâu. Bởi vì có quá nhiều người dân ở các nước đang phát triển tin rằng toàn cầu hóa là công cụ để họ nhanh chóng tìm ra một cuộc sống khá hơn, một công cụ hữu hiệu hơn tất cả những gì xưa nay họ có được. Liệu ai cũng tìm được công việc mình ưa thích? Chắc chắn là không. Liệu ai ở Sri lanka cũng sẽ được trả lương cao như những người sống ở Seattle không? Không. Nhưng liệu những cơ hội việc làm do Bầy Thú Điện Tử tạo ra ở các nước phát triển có hay hơn những công việc khác, nảy sinh từ cảnh nghèo khó, từ việc bóc lột tình dục từ trẻ em không? Chắc chắn rồi. Những cơ hội việc làm đó là những bước đầu tiên cho dân nghèo bước khỏi cảnh nghèo túng? Chắc chắn. Nhà kinh tế Paul Krugman đã thẳng thắn chỉ ra: "Sự thật trần trụi cho thấy mỗi điển hình phát triển kinh tế thành công trong thế kỷ trước - mỗi khi có một quốc gia hăng say làm ăn để tiến lên sự thịnh vượng, hay ít nhất đã đạt được mức sống khá hơn - đã diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa; có nghĩa là họ đã sản xuất cho thị trường toàn cầu thay vì chỉ tự cung tự cấp. Nhiều công nhân tham gia sản xuất cho thị trường thế giới đã không được trả lương xứng đáng theo mức của Thế giới Đi nhanh. Nhưng không thể nói rằng họ đã bị toàn cầu hóa làm cho đói khổ... thì bạn đã quên rằng chính họ là những người rất nghèo, trước khi họ nhận được công việc phục vụ xuất khẩu. Và nếu nghĩ như thế thì bạn cũng đã làm ngơ trước một sự thật là những ai không vào được toàn cầu hóa thì nghèo kém hơn nhiều so với những ai được vào." (Slave, 23/11/1999)
Chính vì thế mà rất nhiều đại diện từ các nước đang phát triển đã rất lo buồn tại hội nghị thượng đỉnh WTO tại Seattle năm 1999 khi Hoa Kỳ và các nước phát triển khác đã dọa cắt họ khỏi mậu dịch toàn cầu nếu trong một thời gian ngắn họ không cải thiện được quyền lợi cho công nhân và tình hình môi trường của mình - mặc dầu những thông điệp đó chẳng qua là một thời trang chính trị do các nghiệp đoàn thợ thuyền Hoa Kỳ đề ra để kêu gọi giảm bớt thương mại với các nước có mức lương công nhân còn thấp. Nếu không có mức lương thấp đó thì các nước đang phát triển không thể bước những bước đầu tiên vào nấc thang phát triển, điều kiện tiên quyết cho phép họ cải thiện tiêu chuẩn môi trường và đời sống công nhân. Vì thế những phản ứng chống toàn cầu hóa trong hàng ngũ những trí thức phương Tây đã và đang mạnh hơn những phản ứng trong hàng ngũ công nhân ở các thị trường mới nổi. Những công nhân ở đó có thể không thích nhiều điều thuộc về toàn cầu hóa, nhưng họ có còn giải pháp nào tốt hơn không? Chưa ai biết được.
Có lúc những khẩu hiệu trên đường phố Seattle và những bức tranh bôi bẩn lên tường được báo chí tung ra thành tin tức đáng chú ý. Nhưng có lúc những sự im lặng cũng rất đáng chú ý. Là một phóng viên, sự thành công đối với bạn là khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa hai sự việc nói trên. Tôi thấy mẫu tin quan trọng nhất từ châu Á và Nga trong năm 1998 và 1999 là sự im lặng tương đối trong hàng ngũ những tầng lớp trung lưu và dân nghèo ở Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia và Liên Xô cũ. Họ chấp nhận sự phát quyết về thị trường tự do - chấp nhận rằng đất nước của họ có những khó khăn liên quan tới hệ điều hành và các phần mềm, và họ sẵn sàng chịu bị trừng phạt và cố gắng đưa ra những điều chỉnh cần thiết.
Giai đoạn này kéo dài bao lâu thì khó mà đoán trước, nhưng nó gây bối rối trong số những người dự đóan về sự thất bại của toàn cầu hóa. Sau mỗi cơn hỗn loạn trong kinh tế toàn cầu, sau mỗi cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ, sau mỗi cuộc họp thượng đỉnh của WTO, những chuyên gia nói trên đều kết luật rằng toàn cầu hóa đã bị "cáo chung," hệ thống toàn cầu hóa đang đổ vỡ và dân nghèo sẽ vùng lên chống lại nó. Toàn cầu hóa bao giờ cũng là khái niệm bị chôn vùi trong trí óc của những người không hiểu về nó, không hiểu về hoài bão thực sự của con người. Những người chống toàn cầu hóa chắc chưa bao giờ gặp những người như Liliane hay Teera, Chandra hay Iqbal, hay cô con gái của nhà Hendersons hay những người thợ mỏ ở Nga, chưa nói đến người phụ nữ nhỏ nhắn ở Hà Nội. Khi nào tất cả những con người nói trên bỏ cuộc, không muốn gia nhập Thế giới Đi nhanh, tuyên bố rằng họ thích quay về những hệ thống cũ kỹ, đóng cửa và bị kiểm soát, và khi họ bỏ cuộc không muốn tìm đến một cuộc sống tốt hơn - cho bản thân hay cho con cháu của họ - thì tôi sẽ đầu hàng, chấp nhận toàn cầu hóa bị "diệt vong" và rằng những người chống đối toàn cầu hóa thắng cuộc.
Nhưng cho đến ngày đó thì cho phép tôi được chia sẻ với bạn một điều bí mật nhỏ, tôi thu lượm được khi trò chuyện với những con người nói trên: "những người nghèo đói trên trái đất" chỉ muốn đến cho được Disney World - chứ không còn muốn dựng chiến lũy. Họ muốn có Vương quốc Mầu nhiệm chứ không muốn trở thành Những người khốn khổ. Và nếu bạn có thể xây dựng được những môi trường chính trị và kinh tế mà tạo cho họ được chỉ một chút hy vọng, rằng bằng cách làm việc hăng say và hy sinh thì sẽ đến được Disney World và thưởng thức Vương quốc Mầu nhiệm - thì phần lớn những người đó sẽ gắn bó với cuộc chơi toàn cầu hóa lâu, lâu hơn mức bạn tưởng tượng.