20/6/12

Mưu trí thời Tùy Đường - Phần III: Trèo Lên Tận Đỉnh, Thấy Núi Cỏn Con

Chương 28
Ra tay trước khống chế đối thủ


NĂM 626, Lý Thế Dân cho người phát động phong trào “sự biến Huyền Vũ Môn” , đã sát hại anh trưởng để cướp ngôi Đường thái tử. Ít lâu sau lại được Đường Cao Tổ nhường ngôi báu nên nắm luôn việc triều chính. Năm sau đổi niên hiệu thành "Trinh Quán” , từ đó mở ra thời kỳ hoàng kim của xã hội phong kiến Trung Quốc. - từ “Trinh Quân chi trị" tới "Khai Nguyên thịnh thế”.
Đường Thái Tông Lý Thế Dân sở dĩ trở thành bậc đế vương anh minh hiếm có của Trung Quốc, một mặt là do trước đây ông đã lập được những chiến công lừng lẫy chưa từng có, mặt khác là do lúc đó ông đủ khả năng kịp thời "nhảy qua lưng ngựa” , dứt võ tu văn, nhanh chóng thiết lập nền chính trị Trinh Quán ngay trên đống đổ nát của cuộc chiến bằng những sách lược vô cùng thông thái khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc.
Vị hoàng đế nổi tiếng tiếp theo chính là nữ hoàng đại phong lưu Võ Tắc Thiên. Làm thân nữ nhi phải chịu sức nặng của "tam tòng tứ đức” , Võ Tắc Thiên đã dựa vào trí tuệ phi phàm của mình không những đã làm một cuộc cách mạng kinh thiên động địa trên lĩnh vực triều chính để bước lên đỉnh cao nhất của quyền lực, đồng thời đã duy trì được bước phát triển ổn định của cả một xã hội, thiết lập nên một nhịp cầu chuyển tiếp bình ổn từ năm Trinh Quán sang thời kỳ cực thịnh của nhà Đường.
Trong những năm Khai Nguyên lúc Đường Thái Tông đang chấp chính, vương triều nhà Đường đã bước vào thời kỳ cực thịnh, đây chính là thời kỳ cường thịnh nhất của lịch sử Trung Quốc. Bất luận là về quân sự, kinh tế hay tinh thần, tâm lý dân chúng hay về văn hoá, trí tuệ, thì Trung Quốc đều đã đạt được đỉnh cao của thế giới.
* * *
Đường Cao Tổ Lý Uyên có ba người con trai là: Thái tử Lý Kiến Thành, Tấn Vương Lý Thế Dân và Tề Vương Lý Nguyên Cát. Trong đó, Lý Thế Dân trong sự nghiệp quân chính tạo lập triều Đường và thống nhất đất nước đã đóng góp công lao to lớn không ai sánh nổi, đồng thời trong cuộc nam chinh bắc phạt trường kỳ, ông cũng chiêu mộ được rất nhiều văn thần võ tướng võ nghệ cao cường. Lý Kiến Thành cảm thấy ngôi vị thái tử của mình đang bị đe dọa trước công trạng và thực lực của Lý Thế Dân, bèn ngấm ngầm câu kết với người em thứ ba là Lý Nguyên Cát và Bàng Cơ, đại thần của Lý Uyên, định trừ khử Lý Thế Dân càng sớm càng tốt.
Lý Thế Dân biết rõ dụng tâm của Thái tử và Tề Vương, đồng thời lại có các văn võ canh phòng cẩn mật nên kế hoạch của Lý Kiến Thành trước sau vẫn không có cách nào thành công. Lý Kiến Thành quyết định trước tiên đối với văn thần võ tướng trong phủ Tấn Vương hoặc là đẩy họ vào chỗ chết hoặc là điều đi xa để cô lập Lý Thế Dân. Quả nhiên danh tướng Trình Trí Tiết bị điều ra ngoài làm Thích Sử, Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối bị điều ra khỏi phủ Tấn Vương, còn Uất Trì Kính Đức suýt nữa bị Lý Uyên xử tội chết. Lúc đó trong phủ Tấn Vương, mọi người đều tự cảm nhận được sự nguy hiểm, dồn dập khuyên Lý Thế Dân nên có sự chuẩn bị sớm để tránh bị hại. Lý Thế Dân trong lòng đã có dự định, ngầm quan sát sự việc tiến triển nhưng ngoài mặt không hề có biểu hiện gì.
Đúng lúc đó, quân Đột Quyết đến xâm phạm biên giới nhà Đường. Lý Kiến Thành nhanh chóng tiến cử Lý Nguyên Cát đem quân đi bắc phạt. Lý Uyên liền giao binh quyền cho Tề Vương. Tề Vương thừa cơ xin phái Uất Trì Kính Đức, người luôn luôn ở cạnh Lý Thế Dân như hình với bóng trong phủ Tấn và cũng là chiến tướng dũng mãnh nhất làm tiên phong quân thảo phạt đồng thời điều động gần hết tinh binh trong phủ Tấn Vương bổ sung vào đoàn quân do mình chỉ huy.
Uất Trì Kính Đức và cậu vợ của Lý Thế Dân là Trưởng Tôn Vô Kỵ khuyên Tấn Vương "Đại vương nếu không giải quyết sớm, họa ở trước mắt rồi". Nhưng Lý Thế Dân giả vờ nói: “Việc liên quan đến tình cảm huynh đệ, làm sao có thể nhẫn tâm ra tay?". Kính Đức lại nói: "Con người không ai là không sợ chết, mọi người nguyện dùng cái chết để phụng sự đại vương, đại vương sao có thể vì kẻ tiểu nhân làm hại đại cuộc?". Chưa nói hết câu thì Suất cánh thừa (chức quan) Vương Chí hối hả chạy vào, dường như có việc cấp báo. Vì thấy Trưởng Tôn, Kính Đức ở đó nên không nói gì. Lý Thế Dân liền dẫn Vương Chí vào trong nói chuyện. Một lúc sau, Vương Chí vội vã cáo lui. Lý Thế Dân nói với bọn người Trưởng Tôn Vô Kỵ: "Vừa nãy Vương Chí báo cáo, nói rằng Thái tử và Tề Vương đã vạch kế hoạch, muốn để ta và Thái tử cùng đi tiễn Tề Vương xuất chinh. Đến lúc đó, dũng sĩ ngầm phục trong bữa tiệc tiễn đưa sẽ thừa cơ ám sát ta, sau đó Thái tử đưa quân vào trong yêu cầu nội thiện và phong Tề Vương là Thái đệ".
Trưởng Tôn Vô Kỵ không đợi Lý Thế Dân nói hết liền xen vào: "Hành động trước khống chế được người, hành động sau sẽ bị người khống chế . Lý Thế Dân than thở: "Cốt nhục tương tàn là điều đại ác từ xưa đến nay, ta biết rõ tai họa sẽ đến trong một sớm một chiều nhưng muốn đợi Thái tử ra tay trước, sau đó vì nghĩa ra quân thảo phạt, mới là danh chính ngôn thuận". Kính Đức tâu rằng: "Đại vương nếu vẫn không nghe lời khuyên, Kính Đức không thể ở lại bên cạnh đại vương để trói tay chịu chết, xin phép được cáo từ". Vô Kỵ cũng nói: "Vô Kỵ xin cùng đi!".
Lý Thế Dân triệu tập các quan trong phủ cùng thương nghị. Mọi người đều cho rằng phải nhanh chóng ra tay. Lý Thế Dân nói phải bói một quẻ trước, xem có thể hành động hay không. Bỗng có người hùng hổ xông vào, cướp lấy quẻ bói bằng mai rùa vứt xuống đất, nói rằng: “Có nghi vấn mới bói, nay tên đã ở trên cung, không thể không bắn, ai bắn trước người đó sẽ có đường sống, vậy còn nghi ngờ gì nữa?". Lý Thế Dân nhìn lên, hóa ra là Mộ Liêu Trương Công Cẩn. Thế là Tấn Vương ra lệnh cho Trưởng Tôn Vô Kỵ ký mật triệu Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối đến thương nghị.
Không ngờ, hai họ Phòng, Đỗ trước đó không lâu còn ra sức khuyên Lý Thế Dân động thủ, nay lại đồng thanh nói: “Cao Tổ chiếu lệnh cho tôi không được theo hầu Tấn Vương, bây giờ nếu như tự ý đến thăm há chẳng phải tội chết sao?". Lý Thế Dân thấy hai người không muốn đến, bèn đưa con dao đeo bên mình cho Uất Trì và bảo rằng: "Hai người ấy sao dám phản ta? Ngài cầm con dao này đi xem xem nếu họ thật sự không muốn đến thì lập tức giết chết đem thủ cấp về cho ta". Kính Đức và Vô Kỵ cùng đi gặp Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối. "Đại vương đã quyết kế hành sự, hai ông mau đi thương nghị". Phòng Huyền Linh nói: "Bốn người cùng đi quá lộ liễu chúng ta mỗi người đi một đường khác nhau”, Kính Đức và Vô Kỵ đi trước, hai người họ Phòng, Đỗ thay quần áo rồi cũng lặng lẽ đến phủ Tấn Vương. Mọi người cùng nhau thương lượng kế sách.
Tối hôm đó, Lý Thế Dân vào triều yết kiến Lý Uyên. Lý Uyên đưa bản mật tấu của Thái Sử lệnh cho Lý Thế Dân xem, trong đó nói rằng theo thiên văn Tấn Vương xứng đáng được thiên hạ. Lý Thế Dân yêu cầu cho các quan tả hữu lui ra, sau đó tâu với Lý Uyên: Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát tư thông với hoàng phi, dâm loạn hậu cung. Lý Uyên vừa kinh ngạc vừa tức giận. Lý Thế Dân nói tiếp: "Thần nhi không hề muốn phụ lòng huynh đệ, không ngờ hai người họ lại muốn hãm hại thần nhi, còn nói phải trả thù cho Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức. Thần nhi nếu bị chết oan uổng thì mãi mãi phải xa phụ thân, hơn nữa khi hồn trở về dương gian cũng bị bọn người Vương Thế Sung từng bại dưới tay thần nhi chê cười, xin phụ hoàng cứu mạng!". Tấn Vương nói xong liền khóc nức nở. Cao Tổ càng kinh ngạc, nói rằng: “Ngày mai phải thẩm vấn hai đứa nó. Ngươi quả thực cũng nên đến sớm tham tấu” .
Lý Thế Dân lập tức lui ra, trong đêm điều binh khiển tướng, lệnh cho bọn người Trưởng Tôn Vô Kỵ dẫn đầu mai phục ở ngoài cửa Huyền Vũ.
Ngày hôm sau, Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát lên triều, đi qua Huyền Vũ Môn cảm thấy tình hình không tốt, vội vàng quay đầu muốn chạy nhưng bị Lý Thế Dân và Uất Trì Kính Đức chặn lại. Lý Kiến Thành bị Tấn Vương bắn chết, Lý Nguyên Cát bị Uất Trì chém chết. Lúc này, Phùng Dực, Phùng Lập là thuộc hạ của Thái tử và các tướng lĩnh trong phủ Tề Vương như Tiết Vạn Triệt đem hàng ngàn binh mã đi đánh phủ Tấn Vương song bị quân mai phục trước Huyền Vũ Môn chặn lại. Sau thấy Thái tử, Tề Vương đều đã chết, đám binh mã này cũng rầm rập bỏ chạy.
Lý Uyên thấy sự việc đã đến nước này, trách mắng Lý Thế Dân cũng chẳng được ích gì thậm chí còn gây nguy hiểm cho bản thân vì thế dứt khoát phong Tấn Vương Lý Thế Dân làm Thái tử, nghe lời Tấn Vương trừ cỏ tận gốc đối với Kiến Thành, Nguyên Cát, bắt và giết cả nhà họ. Không lâu sau Cao Tổ biết lượng sức mình, dũng cảm rút lui nhường lại ngôi vị hoàng đế cho Lý Thế Dân.
Vì Lý Uyên ngồi ở trên cao, không hiểu rõ tình hình, địa vị giữa Thái tử, Tề Vương và Tấn Vương là ngang nhau nhưng thực lực mỗi bên yếu mạnh khác nhau. Vì thế trên thực tế ai ra tay trước giết chết đối thủ, người đó đương nhiên sẽ nắm được quyền uy. Về điểm này, Lý Thế Dân và các mưu thần võ sĩ của ông ta hiểu rất rõ. Chính Thái tử, Tề Vương cũng muốn hành động trước khống chế đối thủ để dành lấy quyền chủ động. Nhưng Lý Thế Dân quả thực sáng suốt hơn họ rất nhiều. Chỉ có ông ta mới thực sự áp dụng thành công kế "ra tay trước khống chế đối thủ” . Điểm dựa của kế này là "trước" nhưng "trước" thường thường bắt nguồn từ "bí mật" và "nhanh". Lý Thế Dân giả vờ "không nhẫn tâm", ngoài mặt không có biểu hiện gì thực tế một mặt là để danh chính ngôn thuận bảo toàn danh dự, mặt khác là vì tính "bí mật" của hành động. Vua không biết ông ta đưa dao cho Uất Trì Kính Đức để giết Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối diệt khẩu nếu bọn họ làm phản. Nhà vua không biết ông ta nửa đêm điều binh để đề phòng có người biết, vua không biết ông ta giết cả những người vô tội trong nhà Thái tử, Tề Vương nhưng đủ để biết ông ta dùng trăm phương ngàn kế chỉ là đóng giả quân tử, đủ để biết lòng dạ ông ta sâu sắc, hành động bí mật mà nhanh gọn. Trái lại, Thái tử, Tề Vương mồm nói muốn "ra tay trước để khống chế đối thủ" ngày đêm ra sức "hành động trước khống chế người" (như điều các dũng tướng, tinh binh trong phủ Tấn Vương đi...) nhưng chuyện cơ mật bị tiết lộ ra ngoài, hành động trì hoãn, đâu có cái lý không bị Tấn Vương khống chế! Trong cạnh tranh thương trường cũng thường phải dùng kế này, song muốn sử dụng thành công kế sách cũng cần nắm chắc hai điểm mấu chốt "bí mật" và "nhanh".
Một ngày năm 1965, quốc hội Canada thông qua quyết nghị, lấy "biểu tượng lá cây phong làm quốc kỳ. Ba hôm sau, trên các loại đồ chơi ở trên thuyền buôn của các thương gia Nhật Bản, Đài Loan vượt đại dương đến Canada đều có ước hiệu cờ lá phong, ngoài ra còn có một loạt lá cờ nhỏ hình lá phong thuần túy. Hiển nhiên, trước khi nghị quyết được thông qua, những thương gia này đã dò biết được nội tình, chớp thời cơ vội vàng sản xuất ra. Trẻ em ở Canada vui mừng nháy cẫng lên vì kịp thời có được những lá cờ nhỏ và đồ chơi mang hình quốc kỳ. Còn các bậc phụ huynh ở Canada vì niềm vui của con trẻ cũng không tiếc tiền mua với giá cao. Song các thương gia ở nước này không những chỉ cảm thấy tiếc nuối vì bị người khác cướp mất cơ hội kiếm tiền mà còn cảm thấy rất khâm phục sự bí mật và nhanh gọn trong hành động của các thương gia Nhật Bản, Đài Loan và sự cao minh tuyệt vời của kế "ra tay trước" khống chế đối thủ.
 
Chương 29
Kịp thời chuyển hướng bỏ võ sửa văn.


Tháng 6 năm 626 sau Công nguyên, Tấn Vương Lý Thế Dân phát động "cuộc chính biến ở Huyền Vũ Môn", ra tay trước khống chế đối thủ, giết chết Thái tử Lý Kiến Thành và Tề Vương Lý Nguyên Cát. Tháng 8 tiếp nhận chiếu thư thiện vị (nhường ngôi) của Lý Uyên, lên ngôi hoàng đế.
Vào dịp tết Nguyên Đán năm thứ hai sau khi lên ngôi, Lý Thế Dân mở một bữa tiệc thịnh soạn chiêu đãi quần thần. Trong bữa tiệc có vở "Tấn Vương phá Trần Nhạc" hùng tráng. Lý Thế Dân nói với quần thần: "Nhiệm vụ trước đây của trẫm là chuyên lo việc Nam chinh Bắc chiến, cho nên trong dân gian có khúc nhạc này. Tuy khúc nhạc không nói hết được văn đức của Đế vương nhưng vì thiên hạ ngày nay mà ta có là do sự chinh chiến lúc đó, vì vậy cũng không thể quên nó nên mới sai người tấu khúc nhạc này lên trong bữa tiệc!".
Phong Đức Di lập tức đứng dậy tâu rằng: "Uy võ thần công bình định tứ hải của bệ hạ, "văn đức" đâu thể sánh bằng?"
Phong Đức Di đã là mệnh quan triều đình từ thời Tùy Văn Đế dựa vào sự nịnh hót bợ đỡ Lý Uyên nên vẫn giữ được mũ ô sa. Lời tấu của ông ta là nhằm tâng bốc, lấy lòng Lý Thế Dân. Không ngờ Lý Thế Dân không những không vui mà còn nổi giận: "Dẹp loạn cần dùng đến vũ lực nhưng giữ thiên hạ thì chi có thể dựa vào văn đức. Việc dùng văn hay võ phải tùy từng lúc. Khanh nói là văn đức không bằng vũ lực, e rằng có phần không đúng! Lẽ nào lập tức được thiên hạ rồi thì có thể lập tức trị thiên hạ?".
Phong Đức Di nghe xong mặt đỏ ửng lên, biết mình nịnh hót không đúng chỗ không còn gì để nói đành phải miễn cưỡng ngồi xuống uống rượu.
Lý Thế Dân lại hỏi các đại thần về kế sách giữ thiên hạ và trị nước. Phong Đức Di muốn cứu vãn danh dự đã mất nên vội vàng trả lời: "Từ thời Hạ, Thương, Chu đến nay, lòng người càng ngày càng quá quắt xảo trá, cho nên triều Tần chuyên dùng hình phạt, triều Hán dùng cả bá đạo. Nay đối mặt với đám dân tà ác, không thể không dùng hình để tra tấn uy hiếp, và vũ lực để trấn áp giáo hóa".
Phong Đức Di còn chưa nói hết thì Nguy Trưng liền đứng dậy phản bác: "Nếu như nói từ thời Hạ, Thương, Chu đến nay, lòng người càng ngày càng xấu đi, thế thì đến bây giờ mọi người đều biến thành những con quỷ hung dữ, cần gì nói đến giáo hóa, cứ đem giết hết là được rồi. Kế sách thích hợp với thời thế bây giờ chỉ có thể là chuyển võ thành văn. "Dứt võ sửa văn" đất nước sẽ tự nhiên yên định, di địch bốn phương sẽ tự quy thuận. Trị quốc cần phải an dân trước, dân không yên thì nước không ổn. Nếu trăm họ muốn yên ổn làm ăn nhưng quan phủ lại không ngừng hách dịch. Như vậy trăm họ khốn khổ đất nước suy yếu cũng là điều tự nhiên mà thôi”.
Lý Thế Dân rất tán thưởng quan điểm của Nguy Trưng, Phong Đức Di cảm thấy mình không được ủng hộ, đành cúi đầu buồn bã uống rượu.
Lý Thế Dân dựa vào ý kiến của bọn Ngụy Trưng lập tức thay đổi phương châm Nam chinh Bắc chiến trước đây, đề ra một loạt sách lược trị nước bằng "Văn đức", "Dứt võ sửa văn", ví dụ: "coi trọng nông nghiệp an định lòng dân", "trọng dụng người hiền vào việc chính trị", "đại hưng lễ nhạc ... Mặt khác, Lý Thế Dân còn áp dụng hoàn toàn kế hoạch chuyển đổi từ võ sang văn trong hành động thực tế, khiến các chính sách đều được thực hiện.
Bản thân Lý Thế Dân sinh ra và lớn lên trong thời loạn, vì bí mật mưu đồ nghĩa cử lật đổ nhà Tùy mà "chú trọng uy võ, không giỏi học hành", đến bây giờ thiên hạ đã dần dần yên định, ông cố gắng học tập Kinh dịch, mở trường văn học để chiêu mộ tài tử bốn phương. Lúc đó có 8 người gồm Đỗ Như Hối... thường xuyên cùng ông ta thảo luận về nghĩa lý kinh học, nghiên cứu đạo thịnh suy của các triều đại. Vì thế không lâu sau, Lý Thế Dân từ một chiến tướng tung hoành trên chiến trường cũng hoàn toàn trở thành một minh quân tinh thông học thuật thái bình trị quốc.
Khi Lý Thế Dân lên ngôi, chiến tranh qui mô lớn trong cả nước vừa mới kết thúc, sự thống trị của triều đình đối với các vùng vẫn chưa ổn định, thêm vào đó nạn mất mùa liên tiếp xảy ra, số hộ trong cả nước giảm từ hơn 900 hộ thời kỳ Tùy Dạng Đế chấp chính xuống còn hơn 200 hộ. Những người may mắn sống sót vẫn chưa thoát khỏi cơn ác mộng chiến tranh đầy máu và lửa. Năm thứ hai sau khi Lý Thế Dân lên ngôi, lấy niên hiệu là Trinh Quán năm thứ nhất. Ông vừa mới lên nắm quyền liền lập tức thay đổi phương hướng kịp thời. Vì chính sách dùng đức để trị quốc "bỏ võ sửa văn" phù hợp với nhu cầu xây dựng mới mọi mặt, yên định lòng người lúc đó nên trong 23 năm tại vị, Lý Thế Dân đã đạt những thành tựu nổi bật về mặt chính trị. Cục diện chính trị của đất nước ngày càng yên định, nền kinh tế xã hội cũng được hồi phục và phát triển nhanh chóng, diện mạo tinh thần của dân chúng có sự biến đổi to lớn. Tuy rằng thời kỳ này vẫn chưa đạt đến sự giàu có như của triều Tùy nhưng chính sách trị quốc của Lý Thế Dân lại rất được lòng người. Lịch sử gọi 23 năm này là "nền chính trị Trinh Quán".
“Bỏ võ sửa văn" là mưu kế đặc biệt sáng lập ra "nền chính trị Trinh Quán" mà "kịp thời chuyển hướng" lại là mưu kế thông dụng phù hợp với nhiều lĩnh vực như chính trị, quân sự, kinh tế ... Lý Thế Dân sau khi lên ngôi lập tức áp dụng kế sách “bỏ võ sửa văn", cũng có thể nói là người tài trí biết "kịp thời chuyển hướng". Thế giới biến động hàng ngày, phương châm, phương pháp, phương hướng tự nhiên cũng phải biến đổi theo, nếu không thì bị thời thế đào thải. Cách duy nhất có thể "dĩ bất biến, ứng vạn biến" đó chính là phái ghi nhớ và áp dụng thiết thực kế "kịp thời chuyển hướng", đặc biệt là trong cạnh tranh thương trường đầy phức tạp và nhiều biến động.
Thương nhân sản xuất kẹo cao su của Nhật Bản, ông Xiceha vào đầu những năm 50 để ý thấy những bộ phim miền Tây nước Mỹ bắt đầu thịnh hành ở Nhật Bản nên ông nhanh chóng tung ra thị trường "kẹo cao su con bò" vỏ mới, lãnh đạo "trào lưu mới" của thanh niên thời thượng.
Tiếp theo Xiceha lợi dụng vụ chấn động do sự kiện giới y học của nước Mỹ phát minh dùng chất diệp lục chữa trị ngoại thương, kịp thời tung ra thị trường kẹo cao su có chất diệp lục. Qua tuyên truyền quảng cáo, mọi người dường như cảm thấy ăn một chiếc kẹo cao su có chất diệp lục tuy không thể làm giảm bệnh tật nhưng sẽ có cảm giác an toàn hơn. Sự thay đổi bao bì, cách tuyên truyền lại một lần nữa phù hợp với tâm lý người tiêu dùng.
Tháng 11 năm 1955, Nhật Bản lần đầu tiên phát sóng vô tuyến truyền hình, Xiceha không bỏ lỡ thời cơ lại dấy lên cơn sốt "bình chọn các cô gái Nhạc Thiên" (Nhạc Thiên - tên của loại kẹo cao su) trên truyền hình. Thời gian này, tin "kẹo cao su Nhạc Thiên tìm mỹ nữ" trở thành chuyện nhà nhà đều biết, khiến cho danh tiếng của Xiceha một lần nữa lại nổi như cồn, lượng tiêu thụ kẹo cao su liên tiếp phá kỷ lục.
Năm 1956, đội khảo sát Nam Cực số một của Nhật Bản đến Nam Cực khảo sát, Xiceha lập tức quyết định tặng miễn phí cho đoàn thám hiểm loại kẹo cao su đặc biệt. Sự kiện này trở thành tin nóng trong giới truyền thông. Khi đoàn thám hiểm trở về đã mang theo bằng chứng khách quan chứng minh kẹo cao su "ở -500C vẫn không hỏng . Thế là sự tuyên truyền về bao bì của Xiceha lại chuyển hướng vào người có khả năng “nói khoác" mà các hãng kẹo khác không có cách nào sánh ngang. Kẹo cao su do ông ta sản xuất lại áp đảo tất cả.
Đến thập kỷ 60, kỹ thuật kích thích tiêu thụ của công ty đã đạt đến trình độ cao như ngọn lửa xanh trong bếp. Nhưng ông ta vẫn áp dụng kế "kịp thời đổi hướng” không ngừng thay đổi phương hướng và trọng tâm quảng cáo, luôn luôn gắn kết kẹo cao su do mình sản xuất với các chủ đề hoặc sự kiện nóng hổi nhất, từ đó khiến cho lượng tiêu thụ của công ty chỉ có tăng mà không có giảm.
 
Chương 30
Tính kế lâu dài, ao đầy bắt cá


Nền chính trị Trinh Quán" thái bình thịnh trị nổi tiếng thế giới, nội dung cốt yếu đầu tiên của nó phải là chính sách ổn định đời sống, phát triển sản xuất, coi trọng nông nghiệp, nuôi dưỡng dân. Khi Lý Thế Dân cùng các quần thần thương nghị biện pháp "yên định lòng dân, ổn định đất nước" vào năm Vũ Đức thứ 9 (năm 626 sau Công nguyên), chính sách thống trị sáng suốt có hiệu quả này đã được trình bày cụ thể. Một là "giám sự xa xỉ, tiết kiệm chi tiêu , hai là "giám nhẹ phu dịch", ba là "sử dụng quan thanh liêm", bốn là "làm cho dân chúng có cơm ngon áo đẹp".
Lý Thế Dân nói như thế và cũng cố gắng làm như thế.
Năm Trinh Quán thứ 1, Lý Thế Dân muốn xây dựng một cung điện, nguyên liệu đã chuẩn bị xong, nhưng vừa nhớ đến phải "giảm sự xa xỉ, tiết kiệm chi tiêu” , ông quyết định không xây nữa. Tháng 8 năm Trinh Quán thứ 2, quần thần ba lần kiến nghị xây lầu gác ở trên cao để cải thiện "ẩm thấp trong cung điện” nhưng Lý Thế Dân kiên quyết không đồng ý. Năm Trinh Quán thứ 4 ông nói với các đại thần: "Việc trang hoàng lộng lẫy cung điện, tham luyến cảnh đẹp, vui chơi trong lầu gác đình đài, tuy là nguyện vọng của mỗi vị vua nhưng sự xa xỉ hoang phí là mối họa cho dân chúng, vì vậy không thể tùy tiện xây dựng". Việc vua và quan phủ giảm bớt sự xa xỉ, dân chúng thì tăng thời gian lao động của mình trên đồng ruộng khiến sức sản xuất tự nhiên phát triển. Lý Thế Dân còn vận dụng "Đường luật" để ước thúc các vị quan làm trái lệnh từ hình pháp, từ đó ngăn chặn lạm dụng nhân lực, đề xướng phong trào tiết kiệm, nên nhiệt tình sản xuất của dân chúng rất cao.
Giữa năm Trinh Quán, việc phu dịch chấp hành tương đối nghiêm khắc biện pháp "Tô dung điều” . Vì đất nước lúc đó quốc khố trống rỗng, mâu thuẫn giai cấp đã bớt căng thẳng nên thuế phu thu trên thực tế đã vượt xa triều Tùy. Nội dung của nền kinh tế chính trị Trinh Quán không chỉ ở chỗ miễn giảm tô phu mà còn ở chỗ ngăn chặn lạm dụng sức dân, đặc biệt là sự phản đối kiên quyết lao dịch không đúng thời vụ. Lý Thế Dân nói: "Mọi việc đều phải coi trọng gốc, nước lấy dân làm gốc, phàm là mưu cầu cơm áo, lấy chuyện không mất mùa làm gốc". Năm Trinh Quán thứ 5, sử quan bộ lễ dựa vào ngày tốt do thầy âm dương chọn, muốn cử hành lễ đội mũ cho hoàng thái tử vào tháng 2. Đây là một sự kiện trọng đại của đất nước. Nhưng Lý Thế Dân nghĩ rằng tháng 2 đúng vào vụ xuân canh bận rộn, nên bất chấp lời thuyết giáo của thầy âm dương, thà làm trái lễ mà quý trọng thời vụ, thay đổi thời gian để cử hành lễ đội mũ vào tháng 10 sau mùa thu là lúc nông nhàn. Đường Thái Tông thích hoạt động săn bắn để chứng tỏ mình không quên phòng bị. Nhưng để không làm trái thời vụ, bảy lần đi săn trong năm Trinh Quán ông đều sắp xếp vào những tháng nông nhàn tức tháng 10, 11 , 12 của năm đó. Dân chúng thu hoạch được mùa, thêm vào đó mưa thuận gió hòa lòng người an định, Tuy phải nộp thuế phu nhiều hơn triều Tùy nhưng dân chúng vẫn có cảm giác là "lao dịch giảm nhẹ".
Lý Thế Dân nhờ vào việc thực sự chấp hành chính sách ổn định lòng dân, xây dựng đất nước coi trọng nông nghiệp, nuôi dưỡng dân chúng đã sáng lập ra nền chính trị Trinh Quán nổi tiếng.
Mọi người đều rất rõ Lý Thế Dân cũng là một con người bằng xương bằng thịt, hơn nữa ông lại mang đậm bản chất giai cấp, đặc điểm thời đại, vì vậy không nên cho rằng việc ông nói muốn "dưỡng dân" chứng tỏ ông đại công vô tư, việc giảm bớt sự xa xỉ tiết kiệm chi tiêu chứng tỏ ông là một vị thần tiên có tấm lòng trong sạch, không ham muốn. Lý Thế Dân là một người đại trí, ông thực thi chính sách "Khắc kỉ dưỡng dân" (tự kiềm chế mình, nuôi dưỡng dân) trên thực tế . là đang áp dụng kế sách "tính kế lâu dài, ao đầy bắt cá".
Người không có học thức, không có mưu trí, tầm nhìn nông cạn, luôn tính toán sự được mất trước mắt, người có học thức, có mưu trí thì suy tính lâu dài, nghĩ về tương lai. Người có tầm nhìn hạn hẹp trong ngày hôm nay có thể kiếm được một hạt vừng nhưng người suy tính lâu dài thì biết thu hoạch cả một ruộng dưa hấu trong tương lai. Tùy Dạng Đế sau khi giành được ngôi vị hoàng đế vội vàng gấp gáp ăn chơi xa xi vô độ, kết quả biến Đại Tùy từ một đế quốc giàu có bậc nhất thành một vương triều đoản mệnh. Bản thân cũng trở thành một tội nhân thiên cổ. Đây chính là cách "đầm cạn bắt cá" tức là tháo hết nước ở trong hồ để bắt hết cá cho vào nồi. Lý Thế Dân không làm giống như vậy, ông muốn "ao đầy bắt cá".
Có một việc có thể chứng minh Lý Thế Dân đang dùng kế này. Lý Thế Dân từng quy định những người trong độ tuổi từ 18 đến 21 đều phải đi lính. Năm đầu tiên khi mới lên ngôi, sau khi nghe kiến nghị của một vị đại thần, ông hạ chiếu trưng dụng binh lính, quy định con trai không đủ 18 tuổi mà thân thể cường tráng cũng có thể bị trưng dụng. Chiếu thư bị Ngụy Trưng giữ lại, Lý Thế Dân thúc giục mấy lần Ngụy Trưng cũng đều bất chấp. Lý Thế Dân tức giận triệu Nguy Trưng đến trước mặt trách mắng ông ta sao dám to gan kháng chỉ. Ngụy Trưng điềm tĩnh trả lời: "Vi thần từng nghe nói có cách làm tát cạn ao bắt cá. Tát cạn ao bắt cá không phải là không bắt được cá, xong trước mắt tuy có thể bắt được không ít cá nhưng về sau thì không có cá để bắt nữa. Bệ hạ trưng dụng cả những thanh niên chưa đủ 18 tuổi mà thân thể cường tráng đi lính, hỏi sau này vi thần đi đâu để tuyển binh? Hơn nữa, thuế phu mà bệ hạ thu là do ai chịu trách nhiệm đóng?"... Lý Thế Dân nghe xong lập tức nói theo: "Ao đầy bắt cá", sau đó hủy bỏ chiếu thư, đề bạt Ngụy Trưng làm Thái sư của thái tử.
Tháng chạp năm 626 sau Công nguyên, Lý Thế Dân từng nhấn mạnh rằng: "Vua dựa vào nước, nước dựa vào dân, lấy của dân để cung phụng vua cũng như cắt thịt để lấp đầy bụng, bụng đầy mà thân không còn, vua giàu mà nước mất". Ý là có đất nước thì mới có vua, có dân chúng mới có đất nước, bóc lột dân chúng để cung phụng vua khác nào cắt thịt mình ăn đỡ đói, bụng no rồi thì mạng cũng không còn, vua giàu lên thì nước cũng tiêu vong. Nếu như chúng ta vận dụng kế sách: "Tính kế tính lâu dài, ao đầy bắt cá" vào trong kinh doanh buôn bán, như vậy thì: Doanh nghiệp dựa vào khách hàng, bóc lột khách hàng để kiếm tiền, thế thì tiền đã kiếm được nhưng khách hàng không còn nữa, doanh nghiệp cũng không thể tiếp tục tồn tại. Vì vậy, chỉ cần nhìn xa một chút, biết tự kiềm chế mình, chăm sóc khách hàng mới có thể lúc nào cũng có "cá".
Biện pháp "ao đầy bắt cá" trong thương trường có rất nhiều, ví dụ đúng hẹn để giữ chữ tín, nhường lợi nhuận, cho ưu đãi, quảng cáo tạo dư luận v.v... dưới đây lả một cách "nuôi cá" độc đáo.
Ở Mỹ có một công ty chuyên kinh doanh dầu hỏa và bếp dầu. Lúc mới thành lập, "ao không có cá", một khách hàng cũng không có. Thế là công ty cho đăng hàng loạt quảng cáo, ra sức tuyên truyền các ưu điểm của bếp dầu, song lợi nhuận vẫn như cũ thậm chí còn giảm đi. Sản phẩm vẫn không có người hỏi, hàng hóa tồn đọng nhiều, công ty vẫn chưa thoát ra khỏi sự bế tắc thì đã có dấu hiệu ngột ngạt.
Một hôm, ông chủ bỗng nhiên tuyên bố ông muốn: "bồi dưỡng khách hàng", giơ tay triệu tập tất cả nhân viên dưới quyền lại, bảo họ đến từng nhà một tặng miễn phí cho chủ nhà một bếp dầu, các nhân viên nghi ngờ không hiểu, cho rằng ông chủ vì buồn quá mà sinh bệnh. Nhưng lệnh đã ban ra, họ đành phải chia nhau làm việc.
Các chủ nhà được tặng bếp dầu không phải trả tiền, tự nhiên cảm thấy rất vui mừng. Trong ngõ ngoài phố, đâu đâu cũng đều là "tuyên truyền viên" miễn phí của công ty này. Công ty đã có danh tiếng nên người gọi điện đến công ty hỏi bếp dầu không ngừng tăng lên. Không lâu sau, tất cả bếp dầu tồn đọng đã được đem tặng hết.
Dụng cụ bếp lúc đó vẫn chưa hiện đại hóa. Bếp gas, nồi cơm điện, lò vi ba đều chưa xuất hiện trong bộ óc của các nhà phát minh. So với bếp củi và bếp than thời đó, bếp dầu như con chim hạc đứng giữa đàn gà. Tính ưu việt của nó khiến các bà nội trợ trong gia đình mừng đến nỗi tưởng như một bước lên tiên. Họ quả thực cả ngày không rời nó. Trong "ao" của ông chủ "cá" đã thành đàn.
Các bà nội trợ nhanh chóng phát hiện ra dầu trong bếp được tặng đã hết, thế là vội vàng "đem cá đến tận cửa", chạy đến công ty mua. Giá dầu không thấp nhưng vì đun bếp dầu thuận lợi nên mọi người vẫn vui vẻ bỏ tiền mua. Sau một thời gian, bếp dầu cũng trở nên cũ, thế là các bà nội trợ lại cam tâm tình nguyện trở thành "cá tươi" của công ty, mua bếp dầu mới.
Từ đó, dầu hỏa và bếp dầu của công ty này đều bán rất chạy.
 
Chương 31
Cầu hiền như khát, có tài thì cử


Năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629 sau Công nguyên), Đường Thái Tông khuyến khích các quan dâng sớ bàn về cái hay dở của việc chính sự. Tướng trung lang Thường Hà tuy không thạo chuyện viết lách nhưng cũng muốn viết một bản tấu theo trào lưu chung, nên đã nhờ một người khách nghèo trong nhà tên là Mã Chu viết hộ hơn 20 chuyện để tấu. Không ngờ cả hơn 20 chuyện đều đánh trúng vào những tiêu cực thời đó, hơn nữa văn phong lại nho nhã, xác đáng, lời văn ý nhị sâu xa.
Khi bản tấu đến tay Đường Thái Tông, trong lúc đang hết lời khen ngợi bỗng nhiên Đường Thái Tông nhận ra một điều kỳ lạ là: Thường Hà là con nhà võ, không thông thạo việc viết lách thì sao có thể viết được một cách tài tình những điều to tát đòi hỏi có tầm nhìn xa trông rộng đến vậy? Vì thế ông quyết hỏi cho ra ngọn ngành. Thường Hà không còn cách nào khác đành phải nói ra việc mình đã nhờ người khác. Đường Thái Tông chẳng những không nghĩ đến việc trách Thường Hà làm chuyện gian dối, mà còn nói: "Mã Chu là một người tài hoa hiếm có" và hạ chỉ cho vào triệu kiến.
Mã Chu vì lý do đó cứ chần chừ không muốn đến, Đường Thái Tông thì sốt ruột không thể chờ thêm nên đã liên tiếp bốn lần sai người đi giục. Cuối cùng thì văn nhân cũng đến gặp Đường Thái Tông. Đường Thái Tông tiếp đãi với một thái độ khiêm tốn chứ tuyệt nhiên không có thái độ kiêu ngạo của một kẻ bề trên.
Sau một hồi trò chuyện thân thiết, Mã Chu được cử ngay đến làm quan ở tỉnh Hạ Môn.
Mã Chu không cần lợi dụng quan hệ hôn nhân câu kết mưa cầu danh lợi để tiến thân, cũng chẳng phải dùng tiền bạc để được ban ơn mà vẫn một bước lên trời. Nhưng báo đền ơn nghĩa cũng là bản tính của một bậc văn nhân nên sau khi đến nhậm chức, Mã Chu quả nhiên đã không phụ công sức của Đường Thái Tông, dốc hết tâm trí, nỗ lực hết sức, cuối cùng làm đến chức trung thư lệnh.
Nếu chỉ nhìn sơ qua thì sự may mắn của Mã Chu trong đường công danh là lạ lùng và ngẫu nhiên. Song thực ra vì sự thái bình của Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn luôn cầu hiền tài, chú ý đến sự xuất hiện của nhân tài nên "nhiệm hiền mà trị" là phương châm chính trị lớn thời đó. Mã Chu là người có tài “phò vua" lại gặp được Đường Thái Tông là người biết trọng dụng nhân tài, hơn nữa lại ở vào thời buổi hiếm nhân tài nên việc gáy một tiếng làm tất cả mọi người kinh ngạc là điều tất nhiên. Ngay từ khi mới lên ngôi, Đường Thái Tông đã ra lệnh cho các đại thần phải tiến cử người hiền tài. Nhưng mấy tháng trôi qua mà không thấy Thượng thư Phong Đức Di tiến cử được người nào. Đường Thái Tông không giấu nổi vẻ sốt ruột muốn tìm hiền tài nên đã nổi giận cách chức Phong Đức Di, chức tể tướng bị bỏ trống. Phong Đức Di đã cố gắng biện giải: "Không phải là hạ thần không gắng sức đi tìm mà quả thực là do thiên hạ thiếu bậc kỳ tài". Đường Thái Tông càng tức giận: "Vậy các bậc quân vương trước đây lôi kéo được người tài là do mượn của các triều đại khác ư? Tự mình không cố sức tìm kiếm nhân tài lại còn đổ cho bao bậc hiền tài trong thiên hạ sao?".
Kế "Cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" là mưu kế của những người có chí lớn, còn người suốt ngày chỉ sợ người khác đoạt mất vị trí của mình như Phong Đức Di thì sao có thể nghĩ ra và sử dụng được. Nền chính tri của Trinh Quán ngoài "trọng nông dưỡng dân" ra thì nội dung chủ yếu, quan trọng nhất là “nhiệm hiền mà tri", "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử". Vương Bàn Sơn đã từng nói: "Đời nhà Đường có nhiều bề tôi giỏi nhất, kể cả đời Hán trước đó lẫn đời Tống sau này đều không sánh kịp thời kỳ Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn tạo điều kiện cho người hiền tài, không kể là quan lại hay dân thường, dù chỉ là người mới biết hay đã biết từ lâu, là người Hán hay người Di, chi cần có tài thì Đường Thái Tông đều cố gắng để lôi kéo được người đó về bên mình. Trong những năm Trinh Quán có thể gọi là niên đại của nhân tài. Nền chính trị của Trinh Quán nên nói là do tất cả những quần thần có tài cùng khai sáng nên. Đương nhiên cũng có thể nói đó là kết quả chính sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" của Đường Thái Tông.
Người muốn làm được việc đại sự thì phải biết coi nhân tài là việc chính yếu. Việc trị quốc an bang đã vậy, sự cạnh tranh trên thương trường cũng thế. Không ý thức được về nhân tài, không dùng kế “cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" thì ngay cả các công ty lớn không sớm thì muộn cũng sẽ phá sản. Công ty Ford để có được một nhân tài sẵn sàng mua cả công ty mà người đó đang làm việc, Shitafiphu không chút do dự gạt bỏ người nhà để mời một người ngoài ngẫu nhiên quen biết làm giám đốc điều hành, ông chủ hãng Panasonic thì không cho người nhà làm tổng giám đốc, các công ty Singapore đã từng trả 100.000 đola Singapore tiền lương để tuyển giám đốc, Akeka thì nhờ có nhân tài thu hút từ công ty Ford sang mà liên tiếp thành công. Hành động của những người có máu mặt trong giới thương nhân cũng đều xuất phát từ kế sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử". Dưới đây là tình hình thực tế của cuộc chiến giành giật sinh viên trong giới thương gia Nhật Bản, qua đó có thể thấy giá trị sử dụng phổ biến của kế "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử".
Nhật Bản rất thiếu những người tài giỏi thực sự, bình quân mỗi khóa sinh viên tốt nghiệp có hơn 2,7 vị trí để họ chọn lựa. Do đó, hàng năm cứ đến trước kỳ sinh viên tốt nghiệp là giữa các công ty Nhật Bản lại diễn ra "cuộc chiến giành giật sinh viên" hết sức gay gắt.
Chiến thuật truyền thống trong cuộc chiến giành giật đó là các vật phẩm tuyên truyền giới thiệu về tình hình của các công ty được gửi qua đường bưu điện cho các sinh viên. Các vật tuyên truyền thường không viết tên và địa chỉ người nhận, mà do nhân viên bưu điện nhét vào các thùng thư của sinh viên. Số lượng các vật phẩm tuyên truyền nhiều đến mức làm người ta kinh ngạc. Theo thống kê, ở các trường là khoảng 2 triệu, chỉ trong vòng mấy tháng mỗi người đã nhận được số vật phẩm tuyên truyền có thể chứa đầy ba, bốn thùng giấy to.
Sau này, một số công ty còn cải tiến "chiến thuật", trong các bưu kiện gửi cho sinh viên còn có một thẻ điện thoại trị giá 500 yên Nhật, người nhận có thể dùng thẻ đó gọi điện thoại miễn phí. Cũng có những công ty làm lịch treo tường, lịch bàn để làm vật phẩm tuyên truyền, làm như vậy thì các sinh viên sẽ treo lên cao hoặc đặt trên bàn, mỗi ngày nhìn qua vài lần thì tự dưng vô hình trung đã làm cho họ biết đến công ty ngày càng nhiều hơn, tăng thêm sức hấp dẫn của công ty đối với sinh viên.
Công ty đường sắt Nhật Bản đã tặng các sinh viên những chiếc băng đĩa rất đẹp mà nội dung chủ yếu là hướng người ta về tình hình của công ty: Những nhân viên trẻ trung mặc đồng phục, ngồi máy bay, tàu hỏa đi nghỉ mát, tham quan các thắng cảnh ở Anh, Tây Ban Nha. Từ năm 1992 đến nay, công ty đã gửi các băng đĩa này cho 100.000 sinh viên, tiêu tốn 500 triệu yên Nhật.
Một số công ty còn có những cách làm rất đặc biệt là thường cử những nhân viên mới làm việc được một, hai năm quay lại trường cũ thiết lập các quan hệ, làm quen, kết bạn với sinh viên trong trường, phát tài liệu tuyên truyền về công ty, quảng cáo về ưu điểm của công ty và đã giành được nhiều thiện cảm của sinh viên. “Cuộc chiến" càng ngày càng quyết liệt, "chiến thuật" thì ngày càng đa dạng, duy chỉ có tôn chỉ của kế sách "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" thì không có gì thay đổi.
 
Chương 32
Lấy thành tâm mà đối xử với nhau


Năm Trinh Quán thứ nhất (năm 627 sau Công nguyên) có người dâng sớ đòi loại bỏ những kẻ nịnh thần trong triều đình. Đường Thái Tông sau khi xem rất coi trọng nên cho gọi người đã dâng sớ đến để tự mình hỏi cách trừ bỏ những kẻ nịnh thần.
Đường Thái Tông hỏi. "Xin hỏi kẻ nào là nịnh thần?".
Người đó trả lời "Tôi chỉ sống trong dân gian, không hiểu các quan thì làm sao biết được ai là nịnh thần".
Đường Thái Tông lại hỏi: "Nếu ngươi không biết kẻ nào là nịnh thần thì ta sao có thể trừ bỏ được?".
Người đó nói một cách tự tin và thần bí "Bệ hạ có thể giả vờ bàn bạc chuyện đại sự với các quần thần, sau đó tùy tình thế mà giả vờ nổi cáu để xem phản ứng của các quan. Những người kiên trì chân lý, không chịu khuất phục bệ hạ thì đó chính là những trung thần; ngược lại, những kẻ sợ ngài cáu giận, tùy theo ý của bệ hạ để nói mà không cần biết đúng sai thì chính là những kẻ gian thần. Một khi đã biết kẻ nào là nịnh thần thì việc bệ hạ muốn trừ bỏ chẳng còn khó khăn gì".
Đường Thái Tông nghe xong rất tức giận, nhưng vì nể mặt người đó nên cố nói với một thái độ ôn tồn: "Cái cách mà nhà ngươi nói tuy rất hay, nhưng đó là cách giả dối. Người làm vua như nguồn, kẻ bề tôi như dòng chảy. Nơi đầu nguồn mà đục thì sao có thể đòi hỏi nhánh của nó trong được. Vua mà dùng gian kế thì không thể yêu cầu bề tôi thành tâm chính trực được. Cái mà trẫm muốn là lấy sự chân thành để đối đãi với bề tôi, trị thiên hạ. Trẫm cảm thấy rất hổ thẹn với việc dùng kế sách gian dối để đối đãi với bề tôi của các bậc đế vương triều đại trước. Vì vậy kế sách mà ngươi hiến cho trẫm tuy là có hiệu quả thật nhưng cũng không thể sử dụng được".
“Dĩ thành tương đãi" chính là sự đối xử chân thành, không dùng những cách thức gian dối, kết hợp giữa sự nhiệt tình, nghĩa khí hay cùng chí hướng với nhau. Vì vậy mới nói Lý Thế Dân là người mưu trí, không phải là ông không tìm ra những kế sách gian dối, bởi vì trong giai đoạn bắt đầu xây dựng nhà Đường, tiễu trừ những kẻ phản loạn ông cũng đã dùng không ít những kế sách hư hư thực thực, thật thật giả giả, nhưng từ khi lên ngôi thống trị thiên hạ đặc biệt là với các tướng lĩnh, đại thần được yêu quý thì ông luôn đối xử một cách chân thành, quang minh chính đáng. Mà trong xã hội loài người thì quan hệ giữa vua với bề tôi dựa trên cơ sở kết hợp giữa sự tương đồng về chí hướng với sự hợp nhau về tâm tư, tình cảm cũng chính là mối quan hệ lành mạnh, lâu dài nhất.
Chính vì Đường Thái Tông có thể "dĩ thành tương đãi", đối xử một cách chân thành cởi mở, dựa vào lễ để đối xử với họ nên rất nhiều quần thần thời Trinh Quán đã vận dụng hết tài năng của mình, tận tâm tận lực phò vua giúp nước. Phòng Huyền Linh từng nói: "Tất cả các quan lớn bé không ai là không dốc lòng dốc sức, tận tâm tận lực không quản ngày đêm phụng sự nhà vua". Thậm chí lúc hấp hối vẫn còn viết thư khuyên Đường Thái Tông không nên viễn chinh rồi sau đó mới chết, thật đúng là bề tôi trung thành. Sầm Văn Bản sau khi được phong làm trung thư lệnh cũng "ngày đêm cần mẫn tự mình làm lấy mọi việc" cho đến khi sức cùng lực kiệt mà chết Những người khác như Mã Chu, Ngụy Trưng, không ai là không tận tâm tận lực, dốc hết tài năng của mình.
Chúng ta không thể phủ nhận rằng sự nổi tiếng của chế độ Trinh Quán ngoài lý do đã khôi phục một cách nhanh chóng nền kinh tế và việc có được nhiều bề tôi tài giỏi ra thì không thể không nói đến việc Đường Thái Tông biết dựa vào lễ, đối xử một cách chân thành cởi mở với các quân thần. Một đặc điểm nổi bật của chế độ Trinh Quán là mối quan hệ giữa người với người rất trong sáng, thuần phát, tư tưởng của dân chúng thoải mái, lời nói trung thực và lời khuyên thẳng thắn không bị ngăn cấm.
Mưu kế cũng có hai loại: mưu kế ngấm ngầm và ngược lại là mưu kế công khai. Tiền đề của việc thực hiện mưu kế ngấm ngầm là dùng mưu gian đối với đối thủ, trước khi thực hiện không để cho đối thủ biết được dụng ý thật. Loại âm mưu này thường chỉ dùng trong đấu tranh với địch, đặc biệt là trong các trường hợp kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hoặc muốn giành thắng lợi một cách bất ngờ. Đặc điểm của mưu kế công khai thì lại là quang minh chính đại, không cần bảo mật, loại mưu kế này tương tự như các chính sách, phương châm, kế hoạch công bố với dân chúng. Loại kế này cũng rất thích hợp để giải quyết những mâu thuẫn không phải mâu thuẫn địch ta, không cần đổ máu. "Dĩ thành tương đãi" thuộc loại mưu kế công khai, sau khi giành được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, Lý Thế Dân dùng kế này để giải quyết mối quan hệ quân thần, quả thực là rất phù hợp.
Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng vậy, không thể lẩn tránh quan hệ với khách hàng. Tuy nó không phải là quan hệ địch ta nhưng cũng không hoàn toàn là mối quan hệ "đồng chí" nên cả mưu kế công khai và mưu kế ngấm ngầm đều có đất để dụng võ. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nếu lạm dụng mưu kế ngấm ngầm thì sẽ không tránh khỏi việc bị coi là "gian thương" còn dùng mưu kế công khai giống như "dĩ thành tương đãi", không che giấu cái hạn chế của mình, thẳng thắn giới thiệu đặc điểm sản phẩm của mình, không gian dối, tuy bình thường mà lại diệu kỳ, tưởng ngu mà thực ra lại thông minh và cuối cùng hấp dẫn được khách hàng một cách lâu dài.
Ông Henry tổng giám đốc công ty chế biến thực phẩm của Mỹ qua báo cáo giám định hóa nghiệm phát hiện ra rằng hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm do công ty mình sản xuất có độc, tuy không lớn nhưng nếu dùng lâu dài thì có hại cho sức khỏe. Nếu không dùng chất đó để bảo quản thì lại ảnh hưởng đến độ tươi của thực phẩm.
Ông Henry cho rằng cần phải thành thật với khách hàng nên đã quyết định nói rõ sự tình cho khách hàng, tuy biết rằng làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến sức tiêu thụ. Và ngay lập tức tuyên bố trước mọi người rằng: chất chống thối rữa có độc và có hại cho sức khỏe.
Sự việc vừa được nói ra thì lượng hàng tiêu thụ giảm rõ rệt, tất cả các ông chủ ngành chế biến thực phẩm liên kết với nhau, dùng mọi thủ đoạn để phản kích lại ông, chỉ trích ông có mưu đồ riêng nên đã đả kích người khác để đề cao mình, cùng nhau ngăn chặn sản phẩm của công ty Henry.
Công ty Henry bỗng chốc lâm vào tình trạng khó khăn. Sau bốn năm ở trong tình cảnh lao đao, Henry đã khuynh gia bại sản, nhưng danh tiếng của nó thì vẫn được mọi người biết đến. Chính phủ đã đứng ra ủng hộ công ty của ông, sản phẩm của công ty ngay lập tức lại trở thành mặt hàng hấp dẫn mà mọi người cảm thấy rất yên tâm và hài lòng.
Chỉ trong một thời gian ngắn công ty Henry đã khôi phục lại được nguyên khí và thậm chí còn mở rộng quy mô lớn hơn gấp hai lần. Henry bỗng dưng trở thành người đứng đầu trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm.
Ở hải ngoại có một loại mứt cà chua gọi là Hans mùi vị của nó đậm đặc hơn nhiều so với của các hãng khác. Tuy nhiên trong những năm 60, vì lưu tốc của nó chậm nên người tiêu dùng không hài lòng, mọi người đều cho rằng để đổ mứt cà chua của hãng này mất nhiều thời gian mà các loại khác không bị nên việc tiêu thụ Hans của gặp trở ngại.
Đứng trước tình hình đó, công ty đã suy nghĩ rất kỹ. Thay đổi chất phối hợp với mứt cà chua, giảm bớt nồng độ của mứt cà chua? Hay thay đổi bao bì để rót cho dễ? Nhưng dù là dùng cách nào đi chẳng nữa thì cũng sẽ làm mất đi cái đặc sắc vốn có của nó. Giám đốc công ty đã quyết định vẫn kiên trì một nguyên tắc là giữ nguyên đặc sắc của mình. Nếu chỉ vì tốc độ mà thay đổi đặc điểm đó và vẫn dùng mác Hans thì là không thành thật với khách hàng. Trong quảng cáo vẫn khẳng định “mứt cà chua có lưu tốc chậm nhất". Đồng thời cũng nói rõ sở dĩ lưu tốc của mứt cà chua Hans chậm là do nồng độ mứt cà chua cao hơn so với các loại khác. Và cuối cùng khuyên người tiêu dùng: để duy trì nồng độ cao và cái đặc sắc vốn có của mứt cà chua Hans thì hãng không cho phép dùng các biện pháp khác pha loãng ra để tăng lưu tốc của nó, hy vọng người tiêu dùng hiểu rõ rằng để có vị ngon thì nồng độ mứt cà chua phải cao.
Việc công ty Hans dùng kế “dĩ thành tương đãi" đã đạt được hiệu quả thần kỳ. Người tiêu dùng trước đây chê "lưu tốc chậm” thì hiện nay không cho rằng đó là hạn chế mà ngược lại là ưu điểm riêng của sản phẩm mứt cà chua Hans so với các loại khác. Thị phần của công ty Hans tăng từ 19% trước đây lên đến 50% hiện nay.



Chương 33
Biến trắng thành đen


Sự đông đúc giàu có đời Tùy, sự hùng mạnh của đế quốc Tần đều rất nổi tiếng trong lịch sử. Tuy đều cường thịnh và thịnh hành muôn dặm nhưng cả hai vương triều hùng mạnh đó đều đoản mệnh, chỉ truyền được hai đời vua rồi không xuất đầu lộ diện nữa. Triều vua Đường được xây dựng trên các tàn tích của cuộc chiến tranh nông dân, Lý Thế Dân đã tận mắt chứng kiến việc vương triều Tùy thịnh vượng là thế mà chỉ qua hai đời thì đã tuyệt diệt.
Nên khi Lý Thế Dân lên ngôi năm 626 sau Công nguyên cũng chính là đời vua thứ hai của triều Đường, ông không khỏi lo lắng, sợ sẽ giẫm phải vết xe đổ của Tần Nhị Thế và Tùy Dạng Đế. Vì vậy Đường Thái Tông rất coi trọng việc "lấy lịch sử làm gương". "Dĩ cổ vi kính, khả dĩ tri hưng thế” (lấy đời xưa làm tấm gương, có thể biết được hưng thế) đã trở thành châm ngôn sống của ông. Như vậy, lấy lịch sử làm tấm gương mà soi (dĩ sử vi giám) đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của nền thống trị Trinh Quán Đường Thái Tông.
“Dĩ sử vi giám" nghĩa là rút ra bài học kinh nghiệm từ sự hưng vong của các triều đại trong lịch sử, xem xét hiện thực, so sánh đối chiếu với bản thân, cố gắng lo toan việc trị nước yên dân, xây dựng triều chính sáng suốt tiến bộ. "Dĩ sử vi giám" đương nhiên là bao hàm lịch sử, nhưng Đường Thái Tông chủ yếu chỉ coi Hán là thầy còn Tùy, Tần thì tránh mà trọng điểm là lịch sử Tần, Tùy thông qua việc xem xét những sai lầm đã dẫn đến sự diệt vong của hai triều đại Tần, Tùy để tìm ra phương pháp, con đường đúng đắn thống trị đất nước. Chúng ta khái quát hóa cách làm này thành kế "Cứu quá đắc chính".
Đường Thái Tông đã vận dụng kế "Cứu quá đắc chính" này, tuy rằng rất gian khổ nhưng có thể nói là cũng rất sáng suốt.
Đường Thái Tông vốn là người tinh thông võ nghệ chứ không phải việc văn chương nhưng để có thể làm cho kế "cứu quá đắc chính" đạt được hiệu quả thiết thực thì về sau ông lại trở thành vị hoàng đế ham thích, say mê nói chuyện lịch sử.
Đầu những năm Trinh Quán, Đường Thái Tông nhân những lúc rỗi rãi thường nói chuyện chính sự cùng các quần thần, bàn luận quy luật hưng vong trị loạn từ xưa đến nay. Sử gia Lý Bách Dược đã khen ông "thường xuyên cùng với các bậc nhân sĩ luận bàn các điển tích, đàm luận chuyện văn thơ, thậm chí say sưa đến mức quên cả mệt nhọc, quên cả giờ giấc". Ông thường một mình đọc sách quên cả mệt mỏi đến tận đêm khuya. Đồng thời cũng cho người viết sách sử cho riêng ông. Được sự khuyến khích của Đường Thái Tông, trong những năm Trinh Quán đã biên soạn được các cuốn chính sử như "Bắc Tề thư , "Chu thư", "Lương thư” , "Trần thư” , “Tùy thư” , "Tấn thư” , “Nam sử", "Bắc sử" chiếm đến gần một phần ba trong 25 bộ sử, các quan đại thần nổi tiếng như phòng Huyền Linh, Ngụy Trưng, Trưởng Tôn Vô Kỵ đều là những nòng cốt trong quá trình viết sử. Đường Thái Tông do chịu khó đọc sách và khiêm tốn học hỏi nên có những kiến giải độc đáo có lý, có căn cứ về các sự kiện lịch sử trọng đại đặc biệt là đối với Tần Thủy Hoàng, Tùy Văn Đế, Tùy Dạng Đế.
Xét về sai lầm "ngược đãi dân" của nhà Tùy, Đường Thái Tông đề ra tư tưởng "lấy dân làm gốc". Ông cho rằng nguyên nhân làm cho nhà Tùy bị diệt vong là do trong khi người dân muốn chăm chỉ làm ruộng thì Tùy Dạng Đế lại không ngừng bắt lao dịch, phu phen, nhân dân đã khốn khổ đủ đường rồi mà Tùy Dạng Đế vẫn không ngừng bóc lột để phục vụ cho cuộc sống xa hoa lãng phí của mình. Người làm vua như thuyền, trăm họ là nước, nước có thể đẩy thuyền và cũng có thể lật thuyền. Do đó, muốn dựng nước phải biết dựa vào dân, muốn cho nước giàu thì trước hết phải làm cho dân no đủ. Vì vậy, Đường Thái Tông đã đề ra những chính sách, biện pháp trọng nông, an dân như: Giảm tô thuế, xây dựng các công trình thủy lợi. Nhờ vậy mà kinh tế trong những năm Trinh Quán được khôi phục và phát triển nhanh tới không ngờ.
Tùy Văn Đế là người đa nghi, thậm chí còn nghi ngờ cả thái tử Dương Dũng mưu phản nên đã phế Dương Dũng để lập con thứ vốn là người hoang dâm vô độ - Dương Quảng tức Tùy Dạng Đế. Khi xem xét sai lầm về sự "đa nghi" trong cách dùng người của nhà Tùy, Đường Thái Tông đã cố gắng đối xử chân thành cởi mở, không tỏ ý nghi ngờ với bề tôi trên cơ sở phương châm "nhiệm hiền mà trị". Vì vậy, Đường Thái Tông không bao giờ tin những lời gièm pha, loại bỏ những kẻ tiểu nhân, tạo điều kiện cho các đại thần phát huy sở trường. Nhân tài dưới thời Đường Thái Tông tuy có kẻ thù và có cả bạn hữu được đề bạt lên nhưng không ai là không dốc hết tài trí cùng với Đường Thái Tông gây dựng nên một thể chế Trinh Quán sáng suốt, hưng thịnh.
Kế "cứu quá đắc chính" của Đường Thái Tông có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng thể chế Trinh Quán. Để đạt được điều đó không chỉ có sự vận dụng tài tình của Đường Thái Tông mà về cơ bản còn vì đặc tính vốn có của mưu kế này. Những việc sai lầm sớm muộn cũng sẽ bị đào thải, "cứu quá đắc chính" có thể làm cho người ta luôn ở vị trí đứng đầu, khuyết điểm, sai lầm sẽ ít đi mà ưu điểm sẽ nhiều lên và tự dưng sẽ có tiềm lực phát triển rất lớn.
Trong quá trình cạnh tranh trên thương trường muốn làm cho lượng tiêu thụ của mình trội hơn so với các hãng khác thì đương nhiên là càng phải vận dụng kế "biến trắng thành đen". Duy trì được ưu thế của sản phẩm, khắc phục và loại bỏ được những sai sót và hạn chế thì mới có thể làm cho sản phẩm của mình có được thị trường rộng lớn. Không ít các doanh nghiệp lớn nhờ dựa vào kế "cứu quá đắc chính" này mà ngày càng phát triển, lớn mạnh.
Công ty Panasonic ngay từ khi mới ra đời đã dùng kế "cứu quá đắc chính". Chiến lược của họ là "không có phát minh mà chỉ cải tiến". Công ty Panasonic chọn những phát minh trong và ngoài nước để mua lại bản quyền sau đó phỏng chế và cải tiến. Cho đến nay Panasonic rất ít khi phát minh ra những sản phẩm mới nhưng lại luôn cố gắng tạo ra các sản phẩm với giá thấp hơn các hãng khác để mở rộng việc tiêu thụ. Họ đã xây dựng 23 trung tâm nghiên cứu sản xuất với kỹ thuật tiên tiến nhất để chuyên phân tích sản phẩm mới của các đối thủ cạnh tranh, xem xét những điểm hạn chế, tìm ra các biện pháp cải tiến hoặc loại bỏ chúng, tìm cách tốt nhất để làm cho chất lượng, tính năng của sản phẩm mình ngày càng hoàn thiện.
Máy quay phim vốn là phát minh của công ty Sony, Nhật Bản, nhưng hãng Panasonic sau khi xem xét đã biết được nhược điểm của sản phẩm Sony là thời gian chiếu phim ngắn. Vì thế Panasonic đã đưa ra một loại rất tinh xảo với thể tích tuy nhỏ nhưng dung lượng lớn nên tính năng của nó hơn hẳn mà lại giảm được 5% giá thành sản phẩm. Và hiển nhiên chúng ta có thể thấy ngay được giữa nhà phát minh với người cải tiến ai thắng ai thua.
Công ty Xulist Paker của Anh còn vận dụng kế này tài tình hơn, họ không chỉ tích cực cho ra các sản phẩm mới mà còn có tài tìm ra các sai sót và hạn chế trong sản phẩm của các hãng khác. Mỗi khi đối thủ cạnh tranh đưa ra một sản phẩm mới là các kỹ sư của công ty này bắt tay vào hành động ngay. Trên danh nghĩa là họ đi bảo dưỡng sản phẩm của công ty cho khách hàng nhưng thực tế thì nhiệm vụ hàng đầu của họ là bí mật điều tra. Họ rất kiên nhẫn hỏi thăm khách hàng những ưu điểm và hạn chế đối với các sản phẩm mới mà hãng khác đưa ra để xem nên thêm những công năng gì, họ đánh giá thế nào...
Sau khi bắt tay vào hành động tức là họ đã hoàn thành xong nhiệm vụ "cứu quá". Tiếp sau đó sẽ thấy ngay kết quả “đắc chính", các sản phẩm đã qua cải tiến xuất hiện trên thị trường. Các sản phẩm này hiển nhiên là đáp ứng được nguyện vọng và yêu cầu của khách hàng, kết quả là mọi người chọn sản phẩm của hãng Xulist Paker.
Cả hai công ty trên đều chậm hơn người khác một bước và chịu đứng thứ hai. Nhưng không thể nói trình độ kỹ thuật của họ kém hay thiếu khả năng phát minh, sáng tạo mà chính là ở các bước chậm hơn người khác đó mà họ đã làm được theo cách "cứu quá đắc chính".
 
 
Chương 34
Thu nạp lời can gián


Một ngày của năm đầu Trinh Quán (năm 627) Đường Thái Tông Lý Thế Dân bắt được một con chim ưng nhỏ rất đẹp, ông vô cùng vui thích sai người mang đậu đến cho con chim ăn. Đột nhiên, Ngụy Trưng tiến đến xin tấu việc, sợ Ngụy Trưng quở trách mình vì vui chơi mà quên chí lớn, ông vội vàng giấu con chim vào ống tay áo, Ngụy Trưng làm ra vẻ không nhìn thấy, ngược lại còn cố ý nói dài dòng và nhiều, nói mãi không nghỉ. Đợi đến khi Ngụy Trưng thoái lui Đường Thái Tông mới dám lôi con chim ra, nào ngờ nó đã bị chết ngạt từ bao giờ. Lại một lần khác Ngụy Trưng đi giải quyết công việc ở bên ngoài, quay về cung ông ta nói với Lý Thế Dân "Nghe nói bệ hạ đi ra ngoài tuần sát, trang bị rất khoa trương và bố trí rất náo nhiệt, tại sao không từ tốn gọn nhẹ thôi?". Đường Thái Tông cười đáp: "Tiến ra trận đều có tính toán, nào ngờ khanh còn đến khuyên nhủ trẫm, vì vậy dứt khoát khanh phải khuyên can trẫm gạt bỏ những ý nghĩ đó trước đi...". Ngụy Trưng là một hiền thần xuất sắc, kiệt xuất trong niên giám Trinh Quán, trong vài năm ngắn ngủi có khoảng 200 vụ việc được ông ta can gián và tiến cử. Đa số các vụ việc đó được Đường Thái Tông chấp thuận sử dụng.
Ngụy Trưng tuy có danh, nhưng những đại thần dám nói những lời trung thực và thẳng thắn khuyên can thì chỉ có mình Ngụy Trưng. Những năm Trinh Quán, quân vương và đại thần cùng bàn việc nước, tiến dâng những việc nghĩa và nói lời trung thực trở thành phong trào. Đây là một cảnh sắc đặc biệt trong "vũ đài chính trị thời xã hội phong kiến và cũng là một phương diện quan trọng trong vũ đài chính trị Trinh Quán" vào những năm đầu thời Đường, dẫn dắt được sự chú ý của mọi người. Ví như Vương Khuê, Lưu Ký, Trương Huyền Tố, Chử Toại Long, Đỗ Như Hối thậm chí cả Trưởng Tôn hoàng hậu ... đều là những người dám tiến cử lời can gián.
Vương Khuê được phong làm Thị trung. Có một lần vào yết kiến, ông ta thấy thị nữ đứng hầu cạnh Lý Thế Dân. Ông trông cô ta rất quen mặt và cố ý trừng mắt nhìn cô gái. Lý Thế Dân đành phải nói với ông: "Cô ta là thiếp của Lư Giang Vương Lý Hoãn, Lý Hoãn nghe nói cô ta rất đẹp nên đã giết chồng cô ta và cướp về làm vợ". Vương Khuê cố ý hỏi: "Bệ hạ cho rằng hành vi của Lý Hoãn là đúng hay sai?". Lý Thế Dân đáp: "Giết người rồi cướp vợ người ta, đương nhiên là chuyện trái đạo lý, hà tất gì khanh phải hỏi?". Vương Khuê nói "Thần nghe nói Tề Hoàn Công có hỏi các bô lão nước Quắc tại sao nước Quắc bị thất bại. Các phụ lão đã nói vì quốc vương của họ không trọng nhân tài, hiền tài và không loại bỏ gian thần. Nếu như hôm nay bệ hạ thu nạp tì thiếp của Lư Giang Vương, thần xin thánh thượng xem lại cách làm của Lý Hoãn, nếu không sẽ giẫm lên vết xe cũ” .
Lý Thế Dân kinh ngạc nói: “Há chẳng phải khanh đến nhắc nhở trẫm không nên bao che cho hành vi xấu” . Đợi khi Vương Khuê đi khỏi Lý Thế Dân gả cô gái đó đi.
Tháng 3 năm Trinh Quán thứ 6, một lần sau khi bãi triều, Đường Thái Tông tức giận nói: "Có ngày trẫm phải giết chết Điền Xả Uông". Trưởng Tôn hoàng hậu vội vàng hỏi Điền Xả Uông là ai, Đường Thái Tông đáp "Hắn chính là Ngụy Trưng! Hắn suốt ngày ở bên cạnh trẫm nói nhiều, còn ở trên đại triều thì o ép trẫm, trẫm phải giết chết hắn ta, mới hả được mối hận trong lòng". Nghe hoàng thượng nói vậy, bà ta sợ hãi thất kinh, vội vàng thoái lui. Một lúc sau, bà ta thay quần áo mặc trong những ngày lễ và quỳ trước mặt Đường Thái Tông khuyên: “Thiếp nghe nói quân vương anh minh tất có đại thần trung trực. Triều đình ta có Ngụy Trưng trung thực như vậy thì bệ hạ là người vô cùng anh minh". Đường Thái Tông nghe xong, lập tức chuyển giận thành vui.
Việc tiếp nạp lời can gián là một phong trào hưng thịnh ở những năm Trinh Quán. Thời đó nếu kể ở tầng lớp trên từ Tể tướng cho đến khanh sứ, tầng lớp dưới từ quan huyện cho đến tiểu sứ, lớp già về lớp trẻ lên, thậm chí các phi tần trong cung... đều thẳng thắn nói những điều mình dám nghĩ. Mọi người còn hỏi: "Vì sao trong lịch sử chỉ có những năm Trinh Quán xuất hiện cục diện anh minh như vậy?".
Điều này không thể không quy công lao cho Đường Thái Tông đã dùng kế "tiếp nạp lời can gián". Ngụy Trưng có câu nói rất hay: (Bệ hạ chỉ dẫn thần nói những lời trung thực thì quần thần mới dám nói. Nếu như bệ hạ không phải là người tiếp nạp những lời can gián, quần thần đâu dám bị lụy, như thế khác gì lấy trứng chọi đá".
Sở dĩ dùng kế "tiếp nạp lời can gián" là do ông ta biết phối hợp những kiến giải thấu triệt. Ông vô cùng tâm đắc với câu nói: "Khiêm tốn nghe lời anh minh, kiên nhẫn nghe lời nói quanh co". Có một lần ông ta mang chiếc cung "10 trượng" cho các thợ thủ công xem. Nào ngờ khi bọn họ nói chiếc cung này tâm gỗ không thẳng, mạch nghiêng, không song song với dây cung. Đường Thái Tông cảm thán nói: "Trẫm ngồi ở ngôi vị hoàng đế, không cách gì nhìn được những sự việc nhỏ trong thiên hạ. Các khanh có mặt ở khắp nơi thì giống như làm tai mắt cho trẫm, giúp trẫm nhận biết mọi chuyện".
Đường Thái Tông mưu sâu trí cao biết rằng nếu không dùng kế "tiếp nạp lời can gián", tất khiến mình mê muội, cố chấp, khiến quốc gia bị náo loạn suy bại, do đó phải thiết thực dùng kế "tiếp nạp lời can gián". Vì thế ông ta ra sức cố gắng tiếp nhận lời trung. Từ khi mới được lập làm thái tử, ông đã cho phép các quan tự do bàn luận mở rộng ý kiến và kiến nghị trị quốc. Sau khi đăng cơ, để đánh bại những ý kiến bảo thủ của vài đại thần cố chấp, ông hòa đồng với mọi người tạo ra vẻ thân thiện giữa đôi bên. Nhiều lần bàn bạc, có những lời quá thẳng thắn nghe chói tai nhưng ông cũng không lộ vẻ bực bội ra ngoài.
Không chỉ có vậy, ông còn thực hiện chế độ "mở rộng đường cho lời trung trực". Ông vẫn áp dụng chế độ "Sáu bộ ba tỉnh" từ triều Tùy, đồng thời ông còn cho phép một số quan lại có địa vị thấp lấy danh nghĩa là "tham dự triều chính" để gia nhập vào quyết sách cao nhất. Quy định các việc quan trọng đều phải thông qua sự bàn bạc giữa các bộ, thông qua sự trù bị của Tể tướng, nếu như đó là vấn đề thiết thực thì có thể làm xong rồi mới báo cáo cho ông ta sau. Nếu như chiếu thư không ổn thỏa thì bất kỳ ai cũng có thể vạch ra. Ông còn đặc biệt coi trọng những hiền quan, tuyển chọn bọn họ và dám đưa những người kiệt xuất vào vị trí quan trọng.
Suy nghĩ sâu xa thì thấy được tính quan trọng của việc thu nạp lời can gián, từ chế độ phương pháp đều bảo đảm cho việc thực thi thuận lợi việc "tiếp nạp lời can gián". Như vậy, trong vũ đài chính trị những năm Trinh Quán đã xuất hiện cục diện “quần thần đồng tâm đồng đức, cùng trị vì thiên hạ", cũng chính là tự nhiên như vậy.
Nhân tài và mưu lược phi thường xuất chúng mà thuận theo lời can gián trung thực, người làm chủ phải có lý trí và kiên nhẫn nghe lời can gián trung thực.
Ông quả xứng với tên gọi "Nhà chính trị gia kiệt xuất trong lịch sử Trung Hoa". Cho đến hôm nay triết lý "kiên nhẫn khiêm tốn nghe lời anh minh" luôn luôn trường tồn, vì vậy “tiếp nạp lời can gián" luôn luôn là mưu lược hữu hiệu trong việc mở rộng sự nghiệp của các nhà doanh nghiệp. Kế sách mà Đường Thái Tông áp dụng đáng là tấm gương sáng cho các nhà quản lý học hỏi và làm theo.
Trong thực tế, không ít nhân tài có mưu lược phi thường xuất chúng, các nhà quản lý khá thành công trên con đường doanh nghiệp họ cũng sớm áp dụng kế sách "tiếp nạp lời can gián" và giành được hiệu quả đáng mừng. Người sáng lập công ty Justanhas là Justan cho rằng: Sự thành bại của xí nghiệp có quan hệ rất lớn tới việc đề xuất ý kiến của các nhân viên. Cho đến hôm nay, công nhân viên của công ty đã đề xuất được hơn 2 triệu ý kiến, trong đó có khoảng 7000 ý kiến được thu nạp. Những ai dám đề xuất ý kiến đều được phần thưởng, mỗi năm đều vượt quá 1,5 triệu đô la. Một số ý kiến này đều có hiệu quả hữu hiệu đối với sự tăng giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm cải tiến phương pháp sản xuất và đảm bảo chất lượng.
Công ty cho rằng: đối với những công nhân viên đề xuất ý kiến mà chưa được thu nạp cũng có thể đạt hai mục tiêu. Thứ nhất: Người quản lý cũng có thể hiểu được nhân viên của mình nghĩ gì. Thứ hai: Thông qua việc đề xuất ý kiến để tăng thêm mối quan tâm tới sự nghiệp của công ty, tăng cường sự đồng tâm hiệp lực, thúc giục được tính trách nhiệm và tính tích cực của công nhân viên.
Để bảo đảm thuận lợi cho việc "tiếp nạp lời can gián", dẫn tới sự sắp xếp chu đáo. Bất kỳ ai cũng có thể đề xuất ý kiến của mình, họ có thể viết thư rồi bỏ vào thùng thư góp ý. Nếu không muốn lộ tên tuổi, họ có thể dùng hình thức nặc danh, người có trách nhiệm sẽ điều tra xem xét ý kiến đó đúng hay sai.
Công ty Justanhas áp dụng kế "tiếp nạp lời can gián" do đó đạt thành quả rất cao, hiện nay tại Mỹ có nhiều doanh nghiệp áp dụng phương sách này.
 
Chương 35
Hai bàn tay trắng, tung ra của hiếm


Vương Quân Khoách vốn là một tướng cướp, sau khi đầu hàng triều Đường, nhờ vào võ nghệ cao siêu và sự dũng mãnh trong chiến đấu, do đó lập nên không ít chiến công. Đương nhiên ông ta muốn trở thành một nhân vật có tiếng tăm, có địa vị cao trong triều, điều cần thiết là phải có nền tảng chính trị cơ bản, nhưng chiến công của Quân Khoách chỉ có thể ngồi vào vị trí của một viên quan nhỏ, chức vị "hữu lãnh quân". Vương Quân Khoách chưa mãn nguyện với địa vị hiện có của mình, hy vọng trên diễn đàn chính trị có thể tìm thấy một “vật lạ”, để thực hiện được mong ước của mình. Nhưng cái "vật lạ”, đó tìm đâu ra?
Thời cơ đã đến, Đường Cao Tổ có một người cháu tên là Lý Hoãn, bất tài vô dụng, không những kém cỏi về võ công, mà còn gây cho dòng họ nhà Đường nhiều chuyện nực cười, nhưng Cao Tổ muốn giữ lại họ hàng thân thích nên không nhẫn tâm loại bỏ, mà chỉ thay đổi chức vị của y. Lần này Cao Tổ điều Lý Hoãn làm đô đốc U Châu (tên một châu thời cổ ở miền Bắc tỉnh Hà Bắc và miền Nam tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc). Vì lo tài năng của Lý Hoãn không đảm đương được vị trí đô đốc, nên lệnh cho hữu tướng quân Vương Quân Khoách giúp đỡ. Về phần Lý Hoãn thấy võ công của Vương Quân Khoách quả là hơn người, hắn lại lắm mưu nhiều kế, nên coi như người tâm phúc, hứa gả con gái và kết thành người thân, hễ có việc gì đều tìm đến để bàn bạc. Vương Quân Khoách vốn có mưu tính từ lâu ông nghĩ rằng "hàng lạ" nay đã tìm được rồi, con người Lý Hoãn ngu si đần độn mà lại nắm giữ binh quyền, không cần tốn công, trong đầu óc hắn đã nghĩ ra đó chẳng phải là vật lạ khó kiếm trên trường chính trị đó sao? Bởi vậy ông ta bắt đầu để tâm khai thác "vật lạ" đó.
Lý Thế Dân phát động "chính biến ở cửa Huyền Vũ” giết chết thái tử Lý Kiến Thành, Tề Vương Lý Nguyên Cát, rồi tự mình ngồi lên ghế thái tử. Đối với sự việc này các hoàng thân quốc thích không dám bàn ra tán vào, nhưng trong lòng họ đều có cách nhìn riêng. Sau khi Lý Thế Dân ngồi lên ghế thái tử, đối với Lý Kiến Thành, Tề Vương Lý Nguyên Cát, y thi hành chính sách: "Nhổ cỏ nhổ tận gốc", mọi người đều nhận thấy quả là tàn nhẫn, đương nhiên trong lòng Lý Thế Dân đã suy tính kỹ càng mọi chuyện. Vương Quân Khoách vì lao vào con đường chính trị nên đã quá hiểu rõ tình hình đó, vì vậy khi Lý Hoãn đến hỏi ông “Lúc này có cần vào kinh không?" ông bèn lợi dụng cơ hội đó mà hiến kế: "Sự tình phát triển như thế nên chúng ta cũng khó lường trước được tình huống. Nay đại vương muốn tận tình vì nước, phụng mệnh đi trấn ải, dẫn 10 vạn quân, chẳng nhẽ triều đình cử một sứ thần nhỏ mà anh chỉ có thể bám sau đuôi ngoan ngoãn vào thành ư? Phải biết rằng Thái tử cũ, Tề Vương là con bà cả, vậy mà phải hứng chịu thám họa này. Nếu đại vương tùy tiện vào kinh, có thể đảm bảo sự an toàn cho bản thân không?". Hắn nói mà bộ dạng muốn khóc.
Lý Hoãn nghe xong, trong thâm tâm vô cùng cảm động, vội nói ra: "Mục đích của anh là vì nghĩ đến tính mạng ta, ý đồ của ta quyết không thay đổi". Trong lúc hồ đồ Lý Hoãn đã sai trói sứ thần của triều đình, bắt đầu phát binh chinh phạt và mời thứ sử Bắc Yên Châu Vương Tẩy làm tham mưu quân sự.
Tham quân quân tào Vương Lợi Thiệp vội nói với Lý Hoãn: “Đại vương không nghe lệnh của triều đình tự ý xuất quân, rõ ràng là muốn tạo phản. Nếu như các thứ sử trực thuộc không nghe lệnh của Đại vương, cũng tùy tiện khởi quân như vậy Đại vương thành công thế nào được ?".
Lý Hoãn nghe xong, cảm thấy cũng đúng, nhưng không biết tính sao? Vương Lợi Thiệp nhân đà đó hiến kế: "Hào kiệt ở Sơn Đông, đa số là bộ hạ của Đậu Kiến Đức, nay đã từ quan làm dân thường. Nếu Đại vương phát chiếu lệnh, nhận lời phục chức cho mọi người, tất nhiên họ không có lý nào mà không xả thân vì Đại vương. Ngoài ra cử Vương Tiển liên kết với tộc Đột Quyết, từ Thái Nguyên tiến sát phía nam, Đại vương dẫn theo binh mã cùng lúc xông vào cửa ải hai đầu hợp lại, thế là chỉ trong vòng mười ngày hoặc nửa tháng, Trung Nguyên sẽ là lãnh địa của Đại vương”.
Lý Hoãn đắc chí phá ra cười, cùng lúc kịp báo cho người tâm phúc là Vương Quân Khoách biết, Vương Quân Khoách hiểu rõ, hổ đã rơi vào tròng, triều Đường tuy không bị diệt vong, nhưng sẽ vấp phải phiền phức lớn, tự mình vướng phải kế "trộm gà không xong còn tấn gạo", hắn vội nói với Lý Hoãn: "Lời nói của Lợi Thiệp thật quá mê muội. Đại vương thử nghĩ xem, trói sứ giả của triều đình, tránh sao khỏi cảnh triều đình xuất quân để trừng phạt? Đại vương đâu có thời gian đi đến phía bắc liên kết với tộc Đột Quyết và các hào kiệt đây? Nay tiện có kế này, hà tất đại quân triều đình chưa đến, phải lập tức khởi binh tiêu diệt, tất nắm chắc phần thắng về mình".
Lý Hoãn nghe xong, cảm thấy có lý bèn nói: "Mệnh sống của tôi đã ký thác cho anh, việc khởi binh trong ngoài đều do anh lo liệu”. Vương Quân Khoách không kịp cầm ấn tín, lập tức hành động ngay. Vương Lợi Thiệp nhận được tin, vội vàng khuyên Lý Hoãn thu quân. Lúc đó, Vương Quân Khoách đã điều động binh mã, giết chết tham mưu Vương Tiền. Lý Hoãn đang thất kinh bát đảo, thì nhận được hàng loạt cấp báo hành động của Vương Quân Khoách: sứ thần của triều đình đã được Vương Quân Khoách thả ra, Vương Quân Khoách tuyên bố, Lý Hoãn muốn tạo phản; Vương Quân Khoách dẫn đại quân đến bắt Lý Hoãn ... Lý Hoãn ngất lịm mấy lần, quay sang cầu cứu Vương Lợi Thiệp, nào ngờ Vương Lợi Thiệp thấy tình thế thay đổi nên cụp đuôi trốn chạy.
Lý Hoãn cùng đường, đem một số quân lính đến gặp Vương Quân Khoách, mong rằng Vương Quân Khoách động lòng thương. Ai ngờ Vương Quân Khoách vừa gặp là bắt ngay Lý Hoãn dâng lên triều đình.
Chiếu chỉ ban xuống, phạt Lý Hoãn làm dân thường, Vương Quân Khoách ngồi vào chỗ của Lý Hoãn, đô đốc U Châu. Lúc đó Vương Quân Khoách mới thỏa mãn ước nguyện của mình. Vương Quân Khoách tính kế: lấy sinh mạng con người làm “quà lạ” quả là gian manh xảo trá, với góc độ mưu mô mà tính vô hình trung đã vồ một món "quà lạ" trời cho, không mất một tí công lao nào. Trong buôn bán, ai cũng muốn mình có "hàng lạ”, ai cũng muốn biến hàng bình thường, hàng tồn đọng của mình thành "hàng lạ”, hởi vậy trong mưu kế tạo hàng lạ, tấm gương của Vương Quân Khoách lan truyền rộng rãi.
Trong nghề du lịch, để phát triển ngành "công nghiệp không khói”, tăng thêm lợi ích, người Nhật cũng đã dùng kế tạo ra “hàng lạ”.
Thị trấn Y Na là một mảnh đất hoang vắng, các cán bộ ở vùng đất ấy cũng hy vọng muốn biến nó thành "hàng lạ", biến thành nơi vui chơi của khách du lịch. Làm cách nào họ cử một đội quân, tỏa đi tìm hiểu phong tục tập quán của dân. Trải qua mấy tháng trăn trở, khó khăn lắm mới tìm ra một câu chuyện dân gian, cổ đại, lịch sử thần kỳ của một vị Kham Thái Lang hiệp khách thời cổ đại. Mặc dù đó là những thần thoại trống rỗng, nhưng ban chủ quản cũng không cần để ý, chỉ cần dựa vào đó mà thổi phồng.
Không bao lâu, tại nhà ga của thị trấn Y Na đã dựng một tượng đồng của Thái Lang. Trong hiệu sách, tự nhiên thấy xuất hiện hàng loạt tranh, sách nói về Thái Lang "giúp yếu chống mạnh". Trong các quán bán hàng cho khách đều có bán các điêu khắc về Thái Lang, thắt lưng, binh khí của Thái Lang... tất cả đều không thiếu thứ gì, thậm chí trong dân gian bắt đầu truyền tụng các bài hát về Thái Lang... Bỗng chốc Thái Lang trở thành một vị anh hùng. Từ đó, mảnh đất sinh ra Thái Lang đã trở thành mảnh đất anh hùng, nơi thắng cảnh nổi tiếng mê hồn.
Vô tình gạch đá cũng thành vàng, nơi đơn sơ này lại trở thành nguồn tài nguyên du lịch vô tận của Nhật Bản, trở thành món "hàng lạ" đáng giá của dân địa phương và cán bộ vùng này.
 
Chương 36

Trong vũ đài chính trị niên giám Trinh Quán đã giành được thành tựu to lớn, ngoài việc mở mang một loạt chính sách thực hiện trong quốc nội thì ở vùng biên cương cũng bình ổn xây dựng mối quan hệ mật thiết. Mà sự yên ổn ở vùng biên cương chính là thành quả của việc Lý Thế Dân áp dụng những mưu kế sâu xa kỳ diệu.
Trung kỳ thế kỷ thứ VI, dân tộc Đột Quyết bắt đầu mở rộng tiến về phía tây (nay là nước Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ) xây dựng một đế quốc hùng mạnh. Năm 582 (thời kỳ Tùy Văn Đế) đế quốc Đột Quyết chia làm hai bộ: Một bộ ở phía đông, một bộ ở phía tây. Tùy Văn Đế áp dụng kế "lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc để tiêu diệt lực lượng", khiến cho tộc Đột Quyết ở phía đông phải quy phục xưng thần với người Hán. Nhưng sau đó, vùng Trung Nguyên rơi vào cục diện hỗn chiến, sau khi triều Đường kiến lập trong một thời gian dài cũng xảy ra các cuộc tranh đoạt vương quyền trong triều. Tộc Đột Quyết ở phía đông lại nhân cơ hội đó nhảy vào xâm lược gây nên mối nguy hiểm lớn cho sinh mệnh tài sản và sự phát triển kinh tế của nhà Đường. Phải đối diện sự đe dọa của tộc Đột Quyết nên nhà Đường thỉnh cầu xin hòa.
Nào ngờ tộc Đột Quyết lúc thế này lúc thế kia, không đánh cũng không hòa, họ tự dựa vào ý nguyện của mình thích làm gì thì làm.
Năm 626, lúc mới bắt đầu lên ngôi hoàng đế, Lý Thế Dân bắt tay vào việc xây dựng một xã hội phồn vinh, đương nhiên hy vọng có thể tiêu trừ tai họa do tộc Đột Quyết mang đến. Do đó Lý Thế Dân luôn luôn vắt óc suy nghĩ tới vấn đề này.
Tháng 10 năm đó, hai Khả hãn của tộc Đột Quyết là: Hiệt Lợi và Đột Lợi cùng nhau hợp binh dẫn 10 vạn kỵ binh một lần nữa lại xâm lược vào lãnh thổ nhà Đường. Đường Thái Tông hạ chiếu lệnh cho Uất Trì Kính Đức thống lĩnh quân đội đi ngăn cản. Tại Kinh Dương, Khả hãn Đột Lợi bị Uất Trì Kính Đức giết chết, còn Khả hãn Hiệt Lợi thống lĩnh binh mã vòng ra hậu tuyến của Uất Trì Kính Đức, với tốc độ nhanh chóng bọn chúng tiến vào kinh đô Trường An, chỉ còn cách Canh Kiều không xa.
Đám quần thần thấy quân lính Đột Quyết hùng mạnh hung tợn, ai nấy đều hoang mang. Bọn họ liên tiếp thỉnh cầu Đường Thái Tông gấp rút thu binh, kịp thời trốn chạy. Chỉ cần quyết thủ giữ thành Trường An, giúp cho đô thành khỏi bị cảnh xáo động còn các đô thành khác bỏ lại đó cũng là cái may trong cái rủi rồi.
Đối mặt với cục diện biến động, Đường Thái Tông kiên quyết giữ vững ý chí. Ông nói: "Trẫm cho các khanh biết, trẫm không sợ bọn chúng". Hóa ra, qua thời gian suy nghĩ lâu dài ông đã cho rằng: Đối với đế quốc Đại Đường có lãnh thổ bao la rộng lớn, văn hóa anh minh đương nhiên tộc Đột Quyết không thể không đố kỵ, họ cũng có tâm trạng "ăn trộm sợ bị phát hiện". Nếu như bỏ lại các địa bàn khác chỉ giữ lại đô thành Trường An, thì đất đai phì nhiêu của vùng Trung Nguyên sẽ gặp cảnh náo động, huống hồ dựa vào tình hình này tộc Đột Quyết sẽ nhận ra sự nhu nhược của triều Đường, như vậy cái họa bị tộc Đột Quyết xâm lược sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị tiêu trừ. Vì vậy chỉ cần làm cho tộc Đột Quyết hiểu rằng: Triều Đường không hề sợ hãi, trong lòng nhân dân Hán luôn tràn ngập dũng khí và lòng tin chiến thắng, thề chết để bảo vệ quyền và lợi ích của đế quốc Đại Đường, vạn nhất đánh đuổi tộc Đột Quyết và làm cho chúng vĩnh viễn không dám xâm lấn biên cương nhà Đường.
Phân tích của Đường Thái Tông vô cùng chính xác. Khả hãn Hiệt Lợi tuy mạnh mồm nói sẽ chạy đến Canh Kiều nhưng không dám cho binh lính cướp đoạt, càng không dám tấn công vào thành Trường An. Để thăm dò hư thực, ông ta phái tướng lĩnh tâm phúc là Chấp Thất Tư Lực vào Trường An dò la.
Đường Thái Tông triệu kiến Chấp Thất Tư Lực, hỏi anh ta tại sao lại làm gia binh. Tư Lực đáp: "Tiền và vải của thượng quốc cung cấp không định mức tuổi tác, hoặc làm hoặc bỏ, không cần thành ý, vì vậy hai Khả hãn của tệ quốc đã dẫn binh đến đây xin thỉnh mệnh".
Phải đối mặt với sứ thần gian nịnh như vậy, ông không hề biến sắc mà phẫn nộ hét lên: "Trẫm và Khả hãn của ngươi từng hẹn ước hòa bình thân thiện, từng tặng lụa vàng trước sau đều không tính. Nay Khả hãn tự quay lưng vào hẹn ước, dẫn binh xâm lấn, ông ta sai ta đúng, vậy mà còn dám sai sứ đến thăm trẫm! Trẫm thiết nghĩ ông ta đã cứ trú tại lãnh địa của mình, hợp với lòng dân, tại sao lại quên đi ân đức, tự mình khoa trương, đầu tiên phải chặt đầu tướng lĩnh của ông ta, sau đó sẽ giao chiến, xem ông ta có chiến thắng binh lính của trẫm được không?".
Chấp Thất Tư Lực nghe thấy khẩu khí của Lý Thế Dân rất nghiêm túc, không hề nói đùa, thấy mình sắp bị họa chém đầu nên sợ hãi quỳ xuống xin tha mạng.
Cùng lúc đó có đại thần xin khải tấu: "Hai nước giao tranh, không nên giết sứ thần, xin bệ hạ mở lòng khoan dung mà tha cho tội chết". Đường Thái Tông cố ý hét to: "Trẫm hà tất phải bắt giết sứ thần, trẫm chỉ miệt thị hắn vài lời, chẳng phải đã khoan dung đó ư?". Sau đó ông quay lại nói với Chấp Thất Tư Lực: "Cứ để tạm thủ cấp của ngươi ở đấy, xem ra trẫm phải đích thân chỉ huy, xem ai đúng ai sai sau đó mới chặt đầu ngươi". Đường Thái Tông sai tả hữu lôi Chấp Thất Tư Lực ra khỏi đại điện tống vào nhà lao. Thật ra ông âm thầm sai người để cho Chấp Thất Tư Lực trốn khỏi nhà lao.
Xử lý xong việc sứ thần của tộc Đột Quyết, Đường Thái Tông triệu tập một số cấm binh, ông mặc giáp cưỡi ngựa rồi dẫn 6 kỵ binh đi theo lối cửa Huyền Vũ, chạy qua sông Vị Thủy. Hiệt Lợi ngồi trong doanh trại đợi chờ tin tức, thấy Chấp Thất Tư Lực bộ dạng tả tơi, mặt mày tái mét trở về báo cáo tình hình dũng mãnh của Đường Thái Tông, thì trong lòng đã run sợ, ngay lúc đó lại có người vào cấp báo: "Đường Thái Tông đến rồi". Hiệt Lợi sợ hãi nhảy lên mình ngựa ra khỏi doanh trại nghênh chiến.
Trước mặt Hiệt Lợi là 6 kỵ binh, người đi tiên phong đội mũ vàng quả nhiên là hoàng đế Đại Đường. Đang lúc hoang mang bất định thì hoàng đế Đại Đường hét to: "Hiệt Lợi Khả hãn, trẫm và khanh đã từng hẹn ước, thề không xâm phạm lẫn nhau, mấy năm gần đây khanh nhiều lần bội ước, trẫm đang muốn hỏi tội, nay lại còn dẫn binh xâm lược, muốn chuốc lấy cái chết ư?” .
Nói đến đây, ông vung roi quất vào không trung: "Hoàng thiên tại thượng , triều đình ta không hề phụ Khả hãn, chỉ có Khả hãn phụ ta, phụ ta tức là phụ trời, thử hỏi hành vi đó đúng hay sai?".
Nghe vậy, Hiệt Lợi kinh hãi trong lòng. Lại thấy những chiến binh đi theo Lý Thế Dân rất hiên ngang dũng mãnh, bóng dáng Lý Thế Dân lồng lộng.
Lúc đó lại nghe tiếng rầm rầm, cờ xí rợp trời, quân Đường đông đúc, các tướng lĩnh chuẩn bị tư thế đánh trận, xếp hàng dài như rắn. Hiệt Lợi mặt mày biến sắc, vội vàng quất ngựa chạy về doanh trại đóng cửa trấn thủ.
Đường Thái Tông ngồi yên trên ngựa chờ đợi. Đại thần Tiêu Vũ sợ ông khinh địch tiến đánh liền vội cầu xin ông quay về triều. Ông quay lại nói vào tai anh ta: “Trẫm trù bị đã lâu điều này khanh không biết. Tộc Đột Quyết khinh thường triều ta nên mới tiến đánh, cho rằng chúng ta có khó khăn, trẫm mới lên đăng cơ không chống lại được bọn họ. Nếu trẫm tỏ ra nhu nhược ông ta tất lấn tới, lúc đó không cách gì hạn chế bọn họ. Vì thế trẫm phẫn nộ mắng sứ, rồi dẫn kỵ binh ra đây là muốn tỏ rõ uy phong của mình. Huống hồ bọn họ xâm nhập vào đất đai của trẫm muốn chiếm đoạt của cải. Nếu như chế phục được tộc Đột Quyết, tất sẽ trừ họa vĩnh viễn. Do đó trẫm mới làm như vậy đấy, khanh xem, hổ đã nhụt chí rồi!".
Tiêu Vũ thoái lui. Đợi một hồi, quả nhiên sứ thần của tộc Đột Quyết lội qua sông hướng về Đường Thái Tông xin cầu hòa. Đường Thái Tông nghiêm khắc mắng mỏ, viên sứ thần cúi đầu cam chịu, lúc đó ông mới cho phép nghị hòa, ký hiệp ước liên minh.
Ngày hôm sau, đôi bên uống máu ăn thề cả hai đều lui quân. Về sau, tộc Đột Quyết sợ oai phong của Lý Thế Dân và thanh thế của triều Đường nên không dám tiến công bừa bãi. Đến năm 630, Lý Thế Dân đã quen thuộc các điều kiện, nhất cử tiêu diệt tộc Đột Quyết ở phía đông, quét sạch căn nguyên gây họa cho vùng biên cương triều Đường.
Triều Đường kiến lập không lâu, quốc lực vẫn còn yếu ớt, nhưng tộc Đột Quyết chưa hoàn toàn bị diệt. Đường Thái Tông lợi dụng thanh uy và danh tiếng oai phong của triều Đường, phô trương thanh thế, khiến cho binh lính hung hãn của tộc Đột Quyết phải lui binh, nhờ đó triều Đường tránh được tai họa lớn, cũng dựa vào đó trong vũ đài chính trị của niên giám Trinh Quán có được cục diện hòa bình yên ổn. Có thể thấy rằng, ông dùng kế "phô trương thanh thế" vô cùng thành công. Trong cạnh tranh thương nghiệp cũng tồn tại tình trạng "kẻ yếu và kẻ mạnh ăn thịt nhau” . Vì vậy, ở một số phương diện chúng ta cố gắng tránh lộ ra sự yếu đuối nhu nhược của mình. Ở một phương diện khác, nếu như muốn "yếu không là thức ăn của kẻ mạnh" như thế phải giỏi về vận dụng những điều kiện có lợi cho mình, tiến hành "phô trương thanh thế” khiến kẻ mạnh bị ảo tưởng mà lui bước, "không đánh mà thắng . Ngài Gaidis đã từng áp dụng mưu kế "phô trương thanh thế” để chiến thắng một loạt đối thủ mạnh hơn mình.
Gaidis là con trai của một nhà dầu mỏ, tháng 10 năm 1915 ông tốt nghiệp trường đại học Harvard, Anh và quay về Mỹ, ông ta thành lập công ty dầu mỏ, ngoài tấm biển hiệu ra thì không hề có một cái gì. Đúng lúc đó châu Oklahoma, Mỹ phát hiện có một giếng dầu, do đó người tham dự đầu tư rất đông, trong số bọn họ đương nhiên không thể thiếu những người có thực lực mạnh và giàu có. Gaidis muốn lấy yếu thắng mạnh. Vậy làm cách gì đây?
Đành dựa vào mưu trí của mình thôi. Ngày đấu thầu, ông thuê một bộ quần áo cực kỳ sang trọng và hẹn một ông chủ ngân hàng danh tiếng cùng đi. Hai bọn họ người trước người sau, tự cao tự đại tiến vào hội trường.
Trong hội trường, mọi hành động của Gaidis đều tỏ ra phi phàm, làm bất cứ cái gì cũng phải tính toán tới cùng. Bên cạnh ông ta còn có một ông chủ ngân hàng danh tiếng. Các ông chủ dầu mỏ đều đổ dồn con mắt vào Gaidis.
Trong đấu thầu sẽ có người thắng kẻ bại, mà đương nhiên kẻ mạnh sẽ thắng, do đó tâm lý bọn họ tự dưng xao động. Họ nghĩ, Gaidis là con trai của một nhà dầu mỏ giàu có, thực lực kinh tế của ông ta nhất định sẽ dồi dào. Bây giờ lại có một nhà "tham mưu" là một ông chủ ngân hàng đứng sau lưng giật dây, đương nhiên bọn họ không phải là đối thủ của ông ta rồi.
Chẳng bao lâu, tại hội trường cuộc đấu thầu xảy ra một chuyện kỳ lạ mang tính hóm hỉnh: các ông chủ lớn dần dần chuồn mất, chỉ còn lại vài ông chủ không có tên tuổi cho lắm, bọn họ cũng chỉ muốn nán lại xem phong thái Gaidis ra sao.
Kết quả, chỉ cần 500 đô la (một cái giá cực kỳ thấp làm người ta không ngờ), ông ta đã dành phần thắng. Bốn tháng sau tức tháng 2 năm 1916 giếng dầu mỏ đó được khai thác. Rất nhanh chóng ông ta đã thu được lợi nhuận gấp 10 lần.
Từ đó có thể thấy, Gaidis nhờ vào việc "phô trương thanh thế” , trở thành một nhà đầu tư danh tiếng và giàu có, đến tháng 6 năm 1917 ông ta trở thành một ông trùm dầu mỏ có trong tay 40 công ty con.
 
Chương 37
Sẵn sàng trả giá giữ lại núi xanh


Võ Tắc Thiên 14 đã vô cùng xinh đẹp, được Đường Thái Tông triệu vào cung, không lâu sau phong làm tài nhân (quan nữ trong cung), tính tình nhu mì mềm dẻo nên Đường Thái Tông gọi là "Mị nương” . Hồi đó đại thần đoán quẻ trong cung đã cảnh báo cho Đường Thái Tông biết là triều đình nhà Đường sẽ gặp phải "họa nữ nhi", một người phụ nữ nào đó sẽ thay thế họ Lý làm hoàng đế nhà Đường. Phần lớn các dấu vết đều chứng tỏ người phụ nữ này mang họ Võ mà còn vào trong cung rồi. Đường Thái Tông vì lo cho con cháu đời sau nên sắp đặt những người họ Võ vào vị trí không đáng tin cậy, nhưng đối với Võ Mị nương do quá yêu chiều nên không nỡ sắp đặt.
Đường Thái Tông bị các phương sĩ bịt mắt, uống rất nhiều kinh đơn, mới đầu rất khỏe mạnh nhưng không lâu sau thân thể khô quắt trông như khúc gỗ già. Lúc ấy Võ Tắc Thiên đang tràn trề sung mãn, một khi Đường Thái Tông mất đi bà ta sẽ chết già trong thâm cung cho nên luôn tìm cơ hội dựa dẫm vào cây mới. Thái tử Lý Trị thấy Võ Tắc Thiên dung mạo phi phàm, đem lòng đắm đuối. Hai người quấn quýt bên nhau không rời, chỉ đợi Đường Thái Tông lỏng tay là lại xoắn xuýt.
Không ngờ Đường Thái Tông nhạy bén hơn người, khi biết mình sắp chết, ông nghĩ tới việc bảo vệ vị trí hoàng đế cho con cháu, liền bảo Võ Tắc Thiên cùng đi tới La Vương. Trước khi lâm chung, ông hỏi Võ Mị nương trước mặt thái tử Lý Trị:
- Bệnh tình của trẫm lúc này không thể chữa khỏi được nữa, ngày càng nặng thêm, mắt mở cũng khó. Ngươi ở bên trẫm cũng đã lâu rồi nên trẫm không muốn bỏ ngươi mà đi. Ngươi hãy nghĩ đi, sau khi trẫm chết ngươi làm thế nào?
Võ Mị nương rất thông minh, bà ta biết mình đang ở vào tình thế nguy hiểm. Làm cách gì đây? Võ Mị nương hiểu rằng lúc này giữ được tính mạng thì sợ gì không có ngày xuất đầu lộ diện. Tuy nhiên giữ được mạng cũng chẳng dễ dàng gì, phải rũ bỏ mọi thứ thì mới có tia hy vọng. Thế là bà ta vội vàng quỳ xuống tâu:
- Thiếp được Thánh thượng quan tâm, đáng lẽ phải lấy cái chết để đền đáp. Nhưng bệnh tình của Thánh thượng vẫn kéo dài cho nên thiếp mới không dám chết. Thiếp chỉ mong được cắt tóc vào chùa lễ Phật, đến am ni cô để ngày ngày xin Phật tổ phù hộ độ trì kéo dài tuổi thọ cho Thánh thượng, đó cũng chính là cách đền ơn tốt nhất.
Đường Thái Tông nghe xong khen là tốt rồi lệnh cho bà ta xuất cung, "để trẫm không phải lo lắng cho ngươi". Hóa ra Đường Thái Tông muốn xử chết Mị nương nhưng trong lòng không đành, giờ Võ Mị nương lại dám giũ bỏ tất cả, rời xa hồng trần đi làm ni cô, vậy thì đối với ngôi vị hoàng đế mà nói Võ Mị nương còn sống cũng như là chết rồi, không gây được họa cho triều Đường nữa.
Võ Mị nương bái tạ rồi quay ra, thái tử Lý Trị ở bên cạnh như sét đánh ngang tai, đứng im. Đường Thái Tông lẩm bẩm:
- Thiên hạ không có ni cô làm hoàng đế, ta chết cũng yên lòng.
Lý Trị nghe thấy thế rất ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi. ông ta đi đến phòng Mị nương, thấy bà ta đang kiểm tra lại đồ đạc liền hỏi:
- Nàng không quan tâm gì đến ta sao?
Mị nương đáp:
- Giữ được mạng là tốt lắm rồi, thiếp đành phải đi.
Chưa nói dứt lời, nước mắt đã tuôn như mưa nói không thành tiếng. Thái tử nói:
- Việc gì nàng phải cam chịu làm ni cô chứ?
Võ Mị nương trấn tĩnh một lát rồi nói kế hoạch của mình cho Lý Trị nghe:
- Nếu thiếp không chủ động nói là đi làm ni cô thì chỉ có con đường chết mà thôi. Giữ được núi xanh, sợ gì không có củi đốt. Chỉ cần sau khi lên ngôi, điện hạ không quên tình cũ, không đắm chìm trong bọn phi tần cung nữ thì mình sẽ có ngày gặp lại...
Thái tử Lý Trị khâm phục tính thông minh của Võ Mị nương, liền cởi chiếc ngọc tỉ Cửu Long tặng cho Mị nương làm tín vật rồi thề thốt:
- Có trời đất chứng giám, ta không bao giờ phụ nàng...
Thái tử lên ngôi không lâu, Võ Mị nương quả nhiên được quay về cung và về sau trở thành một nữ hoàng đế danh tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Trong câu chuyện này, ta thấy Võ Mị nương rất giỏi ứng phó, nguy cơ trước mắt có thể nhanh chóng hóa giải được, đồng thời rất quyết đoán vứt bỏ lợi ích không cần thiết mà chỉ giữ lại lợi ích chủ yếu, đó là tính mạng. Chỉ cần núi xanh còn thì củi vẫn còn. Trong buôn bán cũng vậy, có lúc thất bại hết sạch vốn liếng, nhưng chỉ cần danh dự lan xa, việc gì phải buồn? Chỉ cần con người giỏi giang thông minh, thì lo gì xí nghiệp không thịnh vượng phát đạt.
Năm 1923, công ty Ford của Mỹ có một cỗ máy phát điện loại lớn không thể chạy theo cách bình thường được, mấy kỹ sư kỹ thuật trong công ty suy nghĩ nhiều cách để máy hoạt động nhưng không hiệu quả, rất ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất. Ford trong lòng rất lo lắng, đành phải đến một xưởng sản xuất nhỏ để mời một chuyên gia quốc tịch Đức rất giỏi về máy điện, tuy nhiên anh ta rất kiêu ngạo.
Người này tên là Stermasi, sau khi đến công ty Ford, anh ta chỉ cần một cái thang và một viên phấn, sau đó trèo lên trèo xuống, gõ gõ vào máy để nghe. Không lâu sau, anh ta kẻ hai đường song song vào bên trái cỗ máy và nói với Ford:
- Bệnh của nó ở chỗ này, nhiều hơn 6 cuộn dây, chỉ cần gỡ những cuộn thừa ra là được.
Nhân viên kỹ thuật nửa tin nửa ngờ, nhưng cứ làm theo lời anh ta xem sao. Quả nhiên máy chạy rất tốt. Mọi người tỏ lòng cám ơn Stermasi, anh ta kiêu ngạo nói không phải cảm ơn chỉ cần trả 10.000 đô la tiền công thôi, anh ta nói với những người đang há hốc mồm vì kinh ngạc.
- Kẻ một đường bằng phấn không đáng 1 đô la nhưng biết được nên kẻ ở chỗ nào thì giá 9.999 đô la.
Ford hiểu rõ, Stermasi kiêu ngạo đã khiến ông mất mặt, nhưng anh ta lại là một nhân tài thực sự, sẽ là cái gốc để xí nghiệp đi đến sự phát đạt, nên ông không những vui vẻ trả cho anh ta 10.000 đô la mà còn có nhã ý mời anh ta làm việc cho công ty với tiền lương cao.
Nào ngờ anh chàng đó chẳng mảy may động lòng. Anh ta nói, công ty hiện giờ của anh đã từng cứu anh trong lúc khốn khó nhất, anh không thể thấy lợi mà quên đi ân tình của công ty.
Ford nghe xong, thấy Stermasi rất giữ chữ tín, trọng tình nghĩa, người tài như vậy càng cần thiết cho xí nghiệp nên ông không một chút do dự bỏ ra một khoản tiền mua lại toàn bộ công ty mà Stermasi đang làm. Hành động này của ông đã chứng tỏ tính quý và rất tôn trọng nhân tài, công ty Ford vì thế mà tập trung rất nhiều người giỏi, càng trở nên hưng thịnh, phát đạt hơn. Với địa vị và tài sản nhiều như Ford mà phải bị mất mặt và chịu nhịn tính khí châm chọc cạnh khóe của Stermasi vì ông hiểu rất rõ người làm đại sự cần phải lấy người làm gốc. Stermasi chính là "quả núi" vô giá kiếm nhiều tiền cho ông. Ông và Võ Tắc Thiên có cùng một trí tuệ, cho nên ông không tiếc cái gì để giữ cho được "quả núi" Stermasi.
 
Chương 38
Mượn đề phát huy tiện tay gán ghép


Năm 643, thái tử Lý Thừa Càn âm mưu tạo phản, Đường Thái Tông phế Thừa Càn làm thứ dân, lập Tấn Vương Lý Trị làm hoàng thái tử. Đường Thái Tông Lý Thế Dân cho rằng Lý Trị yếu đuối, thiếu quyết đoán, khó trị vì được, do vậy lúc đầu ông định lập Nguy Vương Lý Thái. Nhưng vì Trưởng Tôn Vô Kỵ phản đối ông lại muốn truyền cho Ngô Vương Lý Khắc, không ngờ lại vấp phải sự can ngăn của Trưởng Tôn Vô Kỵ.
Trưởng Tôn Vô Kỵ là anh em vợ của Lý Thế Dân, đứng đầu trong 24 công thần khai quốc của nhà Đường, Lý Thế Dân vô cùng tín nhiệm ông ta. Dưới sự cầu xin kiên quyết của Trưởng Tôn Vô Kỵ, cuối cùng Đường Thái Tông quyết tâm lập Tấn Vương Lý Trị. Năm 649, Đường Thái Tông Lý Thế Dân băng hà, Đường Cao Tông Lý Trị nối ngôi cha.
Ngụy Vương Lý Thái vì Trưởng Tôn Vô Kỵ chê bai nên bị Lý Thế Dân chuyển đi Trường An, về sau mới được tấn phong làm Bộc Vương. Đường Cao Tông hạ lệnh cho anh ta có thể được khai phủ, lập quan nhưng không lâu sau anh ta mất. Duy chỉ có Ngô Vương Lý Khắc, văn võ song toàn, yêu nước thương dân, Cao Tông liền phong cho anh ta làm Tư Không kiêm Đô đốc Lương Châu. Điều này làm cho Trưởng Tôn Vô Kỵ buồn lòng. Ông sợ Lý Khắc một ngày nào đó phát huy thanh thế sẽ đem lòng ghen ghét vì anh ta không được làm thái tử. Trưởng Tôn Vô Kỵ không muốn để cho Lý Khắc có chức to, nhưng vì Lý Khắc không có động tĩnh gì mà Đường Cao Tông lại là người rộng lòng nhân từ nên ông cũng không dám nói chuyện này lên Đường Cao Tông, ông đành âm thầm chờ đợi cơ hội.
Lúc này, con trai danh tướng Phòng Huyền Linh là Phòng Di ái âm mưu tạo phản bị bại lộ. Vốn là trước đây Lý Thế Dân thấy Phòng Huyền Linh trung thành và có nhiều công lao to lớn nên đem công chúa Cao Dương mà mình sủng ái nhất gả cho Phòng Di ái. Không ngờ công chúa Cao Dương cậy được vua cha yêu quý nên rất kiêu ngạo, chơi bời hoang dâm vô độ. Trước hết là quan hệ lằng nhằng với Phòng Di ái và các anh em của anh ta, tiếp đó liều mình chơi Phật, kết thành vợ chồng với hòa thượng, bà ta bị Đường Thái Tông mắng cho một trận nên hai vợ chồng cũng bị chia cắt. Cao Dương công chúa oán Thái Tông vô cùng vì ông xen vào chuyện riêng của bà ta. Thái Tông băng hà thì bà ta càng trở nên ngang ngược, ngày đêm truy hoan hết hòa thượng rồi đến trai tráng trẻ khỏe. Lúc này bà ta sợ mọi chuyện sẽ gây họa nên khuyên Phòng Di ái cấu kết với Liên Khâm Tiết Vạn Triệt (chồng của Đan Dương công chúa), Sài Lệnh Vũ (chồng của Ba Lăng công chúa) và hoàng thúc Lý Nguyên Cảnh, cùng âm mưu tạo phản. Không ngờ sự việc chỉ mới bắt đầu thì anh của Phòng Di ái là Phòng Di Trực âm thầm mật báo cho Trưởng Tôn Vô Kỵ và Đường Cao Tông. Đường Cao Tông lập tức hạ lệnh bắt giữ Phòng Di ái và sai Trưởng Tôn Vô Kỵ điều tra thực hư.
Trưởng Tôn Vô Kỵ tiếp nhận vụ án này trong lòng vui mừng vô hạn. Không phải vì dựa vào tài trí của ông ta kiểm tra vụ án nhỏ này, không tốn chút sức lực mà do các nhân vật tạo phản lần này đều là hoàng thân quốc thích.
Phòng Di ái không lắm mưu nhiều kế như Phòng Huyền Linh. Vừa mới chịu cực hình là hắn phun hết tên tuổi đồng bọn. Nhưng Trương Tôn Vô Kỵ cười lạnh lùng nói:
- Ta nghĩ đồng bọn của ngươi không chỉ có mấy người đó đâu.
- Tôi nghĩ kỹ rồi, thật không sót ai cả.
- Lý Nguyên Cảnh không thân với Cao Tông mà còn muốn làm hoàng đế, lẽ nào Ngô Vương Lý Khắc trọng tình thân đến thế lại không muốn? Ta khuyên ngươi hãy thật thà khai ra thì còn được giảm nhẹ tội, việc gì phải khổ vì người khác?
Phòng Di ái nghe thấy vậy, nghĩ rằng nếu mình giúp ông ta, khai ra Ngô Vương Lý Khắc thì sẽ thoát khỏi tội chết. Thế là hắn thừa nhận Ngô Vương Lý Khắc đã sai hắn làm.
Trưởng Tôn Vô Kỵ ghi chép khẩu cung rồi báo lên Đường Cao Tông là bọn Phòng Di ái, Tiết Vạn Triệt, Sài Lệnh Vũ, Lý Nguyên Cảnh, Lý Khắc và mấy công chúa đều đáng tội chết.
Đường Cao Tông thấy vụ án này nhiều người có liên quan đều là anh em thân thích với mình thì trong lòng rất buồn. ông liền hỏi các quần thần:
- Phòng Di ái thì đáng tội chết rồi nhưng liệu Nguyên Cảnh và Lý Khắc có thể miễn được tội chết không?
Trưởng Tôn Vô Kỵ vội thưa:
- Tuy bệ hạ có lòng nhân từ, nhưng không vì thế mà bẻ cong pháp luật được. Nếu không diệt trừ bọn mưu phản thì làm thế nào trừng phạt được ai đây?
Đường Cao Tông thở dài, hạ chiếu y án. Ngô Vương Lý Khắc cũng vô duyên vô cớ bị ban tội chết, mọi người đều bị Trưởng Tôn Vô Kỵ che mắt, nhưng Lý Khắc hiểu được tại sao. Trước khi chết, anh ta hô to:
- Trưởng Tôn Vô Kỵ, cậy có quyền lực mưu hại trung thần, ta chết rồi cũng không tha cho ngươi đâu!
Bất chấp Ngô Vương Lý Khắc chửi thế nào, Trưởng Tôn Vô Kỵ lờ đi như không nghe thấy, gộp hết bọn người thân tín với Ngô Vương như Giang Hạ Vương Đạo Tông, Chấp Thất Tư Lực, Vũ Văn Tiết... gán vào vụ án của Phòng Di ái. Từ đó, Trưởng Tôn Vô Kỵ càng củng cố được địa vị của mình.
Làm được chuyện này cần có thời gian, địa điểm và cơ hội. Tuy nhiên trên đời này làm gì có chuyện may mắn như vậy. Nhưng giỏi cách tưởng tượng, giỏi mượn thời gian, địa điểm, cơ hội để phát huy thêm, tiện tay gán ghép các việc có liên quan thì cho dù giờ nào, địa điểm nào, hoặc thời cơ gì cũng có thể làm xong chuyện.
Tháng 6 năm 1986, công ty điện thoại Thái Bình Dương của Mỹ cho đăng một mẩu tin quảng cáo trên tờ "Nhật Báo phố Wall" như sau:
“Hình tượng chủ đề là Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc, trên hình tượng tuyên truyền công trạng của Đặng Tiểu Bình: Đặng Tiểu Bình là một nhà cải cách thành công, kinh nghiệm chủ yếu của ông là khuyến khích phân quyền, tiến hành nhiều loại hình kinh doanh, làm đấu thầu ở nông thôn, nới lỏng chủ quyền trong thành phố..."
Tờ quảng cáo còn phong Đặng Tiểu Bình là chủ tịch quản trị “tổng công ty kinh doanh phân tán hóa" của Trung Quốc. Đến dòng cuối cùng mới có một câu: Công ty điện thoại Thái Bình Dương của Mỹ là công ty mới tách ra từ công ty điện thoại, điện báo của Mỹ. Mong mọi người tín nhiệm và hợp tác.
Lúc đó công ty này khai trương chưa lâu, các cổ đông và khách hàng rất ít, một số khách hàng quen biết cũng rút ra. Một trong những nguyên nhân đó là ở các nước phương Tây như Mỹ, một công ty nào đó khi kinh doanh không có hiệu quả lại tách ra thành một số công ty con và gọi đó là công ty độc lập để giảm bớt việc bồi thường cho các chủ nợ. Công ty này dĩ nhiên cũng có kiểu bịp này gây nghi ngờ cho mọi người.
Công ty điện thoại Thái Bình Dương tách ra làm độc lập cũng chẳng phải là trò bịp bợm gì. Nhưng tuyên truyền cho viễn cảnh huy hoàng của công ty cũng chẳng được, làm không tốt sẽ càng gây nghi ngờ lớn cho khách hàng. Làm gì đây. Đợi chờ cơ hội ư? Cũng không được. Cứ chờ đợi như vậy sẽ bị sập tiệm mà thôi.
Mục quảng cáo như nói ở trên của công ty Thái Bình Dương đã vận dụng mưu kế "mượn đề phát huy, tiện tay liên kết lại", vô hình trung nó lại là cách làm thông minh nhất. Hồi đó, công cuộc mở cửa cải cách của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn khiến cả thế giới đều biết. Đặng Tiểu Bình cũng trở thành nhân vật nổi tiếng, ông từng được tờ tạp chí "tuần san Thời Đại" có số lượng phát hành lớn nhất ở Mỹ gọi là "Nhân vật kiệt xuất của thế giới". Vậy thì Đặng Tiểu Bình có liên quan gì đến công ty Thái Bình Dương không? Đây chính là mưu "dựa vào phát huy, liên kết lại" của họ. Mục quảng cáo đã ngầm bày tỏ rằng:
“Việc thành lập và tôn chỉ kinh doanh của công ty Thái Bình Dương cũng giống như phương châm cải cách khuyến khích phân quyền đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại của Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nổi tiếng toàn thế giới và nước Trung Hoa phồn thịnh ngày hôm qua, hôm nay cũng chính là viễn cảnh xán lạn của công ty Thái Bình Dương ngày nay và mai sau”.
Gán ghép khiên cưỡng liệu có thể trở thành uyên ương được không vậy? Có thể được. Rốt cuộc công ty Thái Bình Dương nổi lên như cồn, thu hút được khách hàng, trở thành một trong những công ty lớn của Mỹ.
 
Chương 39
Mượn sức nhỏ để phá ngàn cân


Hoàng hậu của Đường Cao Tông họ Vương. Vương hoàng hậu vào cung đã lâu mà chưa sinh được con trai. Không có con trai để lập làm thái tử trong một xã hội trọng nam khinh nữ như vậy thì ngay đến hoàng hậu là mẫu nghi thiên hạ cũng không tránh khỏi lo lắng. Cậu của hoàng hậu là Liễu Thích đã nghĩ cách giúp Vương hoàng hậu, lập con trai của Lưu Thị ở hậu cung vốn xuất thân từ tầng lớp bình dân Lý Trung làm thái tử. Làm như vậy thì thái tử và mẹ của mình đương nhiên là rất biết ơn hoàng hậu và không lo gặp phải tai họa. Đường Cao Tông cũng đồng ý và cho làm lễ lập người kế vị đồng thời giao cho Vương hoàng hậu nuôi dưỡng.
Vương hoàng hậu vì chuyện này rất vui mừng nhưng không may lại có chuyện bất ngờ xảy ra. Trong cung xuất hiện một người con gái tên Tiêu Lương Đệ, xinh đẹp hơn người, rất được Cao Tông yêu chiều, sắc phong làm Thục phi. Nay Thục phi lại sinh được con trai, đặt tên là Lý Tố Tiết, vì mẹ mình được sủng ái nên được phong làm Ung Vương. Thục phi được voi đòi tiên, suốt ngày nghĩ đến việc làm thế nào để Tố Tiết được lập làm thái tử, không ngờ Vương hoàng hậu lại tìm được Lý Trung vốn là lý lịch không rõ ràng cướp mất ngôi vị đó nên rất hận. Vương hoàng hậu cũng tỏ ra ghen ghét, đố kỵ Tiêu Thục phi nên nhiều lần gièm pha mẹ con Tiêu Thị trước mặt Đường Cao Tông. Tiêu Thục phi cũng không ngừng nói xấu hoàng hậu. Đường Cao Tông vốn nhu nhược hèn yếu, chẳng tỏ ra bênh vực ai cũng không nghe lời gièm pha của ai. Cứ vậy một bên là hoàng hậu, người đã nuôi dưỡng thái tử, một bên là ái phi, người sinh được con trai là Ung Vương. Hai bên đối lập nhau, kẻ tám lạng người nữa cân, khó mà phân được cao thấp.
Về địa vị thì Tiêu Thục phi không thể so với Vương hoàng hậu nhưng trong cuộc giao chiến đó thì lại ngang phân nên cũng không phải động não nhiều. Vương hoàng hậu cũng không chịu thua, luôn tìm cách để lật Tiêu Thục phi. Nhưng nếu chỉ dứa vào sức mình thì không thể làm được nên đành mượn tay người ngoài giúp.
Lúc đó Đường Cao Tông cũng chẳng có thời gian đâu để phân biệt xem giữa hoàng hậu và Thục phi ai đúng ai sai, vì lúc đó người còn đang tơ tưởng đến một đại mĩ nhân khác – Võ Tắc Thiên, nữ hoàng đế tiếng tăm lẫy lừng trong lịch sử Trung Quốc sau này đã xuất hiện.
Võ Tắc Thiên vốn dĩ trước đây được Đường Thái Tông Lý Thế Dân triệu vào cung làm tài nhân (tên gọi cung nữ trong cung). Nhưng vì Võ Tắc Thiên bị quy là "Nữ hoàng Võ Thị sẽ cướp ngôi nhà Đường" nên trước khỉ Đường Thái Tông chết đã bị bắt rời khỏi cung đến làm ni cô ở chùa Cảm Nghiệp. Võ Tắc Thiên là người có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành nên Lý Trị lúc đó là thái tử đã hồn vía điên đảo. Trước khi Võ Tắc Thiên rời cung, hai người đã thề non hẹn biển. Sau khi mãn tang cha, Đường Cao Tông đã thân chinh đến chùa Cảm Nghiệp thăm Võ Tắc Thiên. Không ngờ Võ Tắc Thiên dung nhan vẫn như xưa nên càng thêm si mê. Vì vậy, Đường Cao Tông tuy người đã hồi cung mà hồn thì ở trong am ni cô.
Thấy Đường Cao Tông mất ăn mất ngủ như vậy người tinh nhanh như hoàng hậu biết ngay rằng có việc gì đó nên vừa khéo léo hỏi thăm lại vừa bí mật truy hỏi và cuối cùng cũng hỏi được ra vấn đề.
Đường Cao Tông sau khi nói rõ sự tình không ngờ hoàng hậu không những không trách móc, cản trở mà ngược lại còn khuyến khích Đường Cao Tông nhanh chóng triệu Võ Tắc Thiên vào cung để khỏi phải ngày đêm khổ sở mất hết tinh thần.
Đường Cao Tông vừa mới sủng ái Tiêu Thục phi thì hoàng hậu đã suốt ngày ghen tuông, vậy mà sao bây giờ lại đồng ý cho triệu vào cung một ni cô xinh đẹp như vậy? Hóa ra là Vương hoàng hậu đều có dụng ý cả. Khi ở trong tình thế người tám lạng người nửa cân như vậy thì cần nhất là phải biết "tá tứ lưỡng bạt thiên cân". Tùy rằng Võ Tắc Thiên lúc đó vẫn còn người bé tiếng nhẹ nhưng lại là cái "tứ lưỡng" tốt nhất, cầm cũng dễ mà ném đi cũng tiện. Chỉ cần Võ Tắc Thiên vào cung thì Tiêu Thục phi sẽ có thêm một địch thủ, mà mình thì lại có thêm kẻ giúp sức, Đường Cao Tông cũng sẽ cảm kích tấm lòng đại lượng của mình, như thế còn lo không lật được Tiêu Thục phi sao?
Đường Cao Tông rất đỗi vui mừng, vội sai người truyền lời cho Võ Tắc Thiên nhanh chóng để lại tóc. Chẳng lâu sau, Võ Tắc Thiên lại bước vào cung điện nhà Đường lần thứ hai. Cũng không lâu sau đó, Võ Tắc Thiên đã có thể dễ dàng làm cho Đường Cao Tông lạnh nhạt với Tiêu Thục phi.
Việc Vương hoàng hậu dùng kế mượn sức mạnh của Võ Tắc Thiên để đấu với Tiêu Phục phi rõ ràng đã thành công và rất khéo léo tài tình. Nhưng Vương hoàng hậu không thể ngờ được rằng tuy lúc đó còn là người bé tiếng nhẹ nhưng Võ Tắc Thiên tuyệt nhiên không phải là "tứ lưỡng" cũng không chi “thiên cân" mà ngược lại là một quả "bom nguyên tử" không những lật được chính hoàng hậu mà cả thiên hạ của Lý Đường. Như vậy xem ra, ngay khi Vương hoàng hậu mới bắt đầu sử Dụng kế "tá tứ lưỡng bạt thiên cân" thì đã tiềm ẩn mầm mống của một cái họa lớn. Võ Tắc Thiên mới là người mượn tay hoàng hậu cướp giang sơn Lý Đường, đó mới chính là mưu lược gia đã sử dụng tài tình kế "tá tứ lưỡng bạt thiên cân".
Sau sự kiện "13 tháng 8", Thượng Hải trở thành ốc đảo cô độc giới buôn bán bất động sản vô cùng nhanh nhạy, Đồ Vĩnh Nhẫm là kế toán đã thuê đất xây nhà, phân lẻ ra để bán, làm ăn vô cùng khấm khá. Trần Tiểu Điền thấy vậy cũng muốn chuyển sang kinh doanh nhà đất, thật đúng lúc giám đốc ngân hàng Khẩn Nghiệp của Trung Quốc là Vương Bá Nguyên có 3 mẫu đất trống ở đường Ngu Viên đang chuẩn bị cho thuê, Trần Tiểu Điền vội đến thuê một khu và xây lên 7 ngôi nhà.
Nhà đã được xây xong, làm thế nào để mời chào khách đây? Trần Tiểu Điền suy nghĩ: nhà của mình xây nên, kết cấu tương đương như nhà của kế toán Đồ Vĩnh Nhẫm, giá cả cũng ngang nhau, mỗi ngôi nhà giá 5500 đồng. Nếu không có điều kiện đãi ngộ thì chắc chắn mọi người sẽ lựa chọn nhà của anh ta hơn, còn nhà của mình không dễ bán được. Vậy phải có ưu đãi, nhưng ưu đãi đến mức độ nào? Trần Tiểu Điền suy nghĩ: Nếu đem một phần mười số tiền bán ra, tức là 550 đồng gửi vào ngân hàng, 20 năm sau lãi mẹ đẻ lãi con, vừa vặn đúng 5500 đồng. Thế thì, người mua thanh toán một lần hết 5500 đồng, sau 20 năm sẽ hoàn trả số tiền đó cho họ. Với biện pháp ưu đãi này đối với Trần Tiểu Điền mà nói, trên thực tế chỉ giảm 10% còn về người mua gần như là ở không mất tiền.
Người thông minh cũng chỉ có thể thấy lãi của 5500 đồng được trả cho tiền thuê phòng, vì vậy điều kiện ưu đãi này hơn đứt Đồ Vĩnh Nhẫm.
Trần Tiểu Điền đăng cách của anh ta lên mục "bán nhà", nhưng kết quả lại không như ý muốn. Qua điều tra thì mới biết, người mua tuy thấy Trần Tiểu Điền có ưu đãi nhưng thời gian lại dài 20 năm, ai biết được lúc đó Trần Tiểu Điền sẽ thế nào, nhỡ không trả được món tiền đó thì sao? Cho nên mua nhà của Đỗ Vĩnh Nhẫm đáng tin hơn.
Đỗ Vĩnh Nhẫm có bao nhiêu năm tín nhiệm, còn Trần Tiểu Điền có đãi ngộ tốt, hai bên ngang ngửa nhau rất khó phân cao thấp. Kinh doanh đã nhiều năm nên Đỗ Vĩnh Nhẫm không coi 7 ngôi nhà của Trần Tiểu Điền ra gì, mà Trần Tiểu Điền rất cần đè bẹp Đỗ Vĩnh Nhẫm. Thế là anh ta nghĩ đến việc dựa vào Vương Bá Nguyên để phá vỡ cục diện.
Thấy Trần Tiểu Điền nói anh ta muốn gửi tài khoản cố định lâu dài vào ngân hàng Khẩn Nghiệp của mình, Vương Bá Nguyên rất vui mừng, đồng thời cũng chấp nhận một yêu cầu nho nhỏ của anh ta là ngân hàng Khẩn Nghiệp bảo đảm mở cho mỗi khách hàng mua nhà một sổ tiết kiệm để dành trong 20 năm hứa chắc chắn đến thời hạn sẽ trả tiền gốc.
Vương Bá Nguyên lấy thân phận giám đốc ngân hàng để lộ diện, dĩ nhiên người mua rất yên tâm, 7 ngôi nhà của Trần Tiểu Điền bán hết sạch. Anh ta vội vàng mua lại tất cả chỗ đất của Vương Bá Nguyên.
Mở sổ tiết kiệm cho khách hàng, đối với Vương Bá Nguyên mà nói, đó chỉ có thể là làm thay đổi "sức nhỏ", nhưng còn Trần Tiểu Điền vì dựa vào "sức nhỏ" này mà đè bẹp được Đỗ Vĩnh Nhẫm quả là dùng kế rất tuyệt diệu. Còn Vương Bá Nguyên thì sao? Nếu không nhờ vào diệu kế của Trần Tiểu Điền thì liệu có bán được chỗ đất đó, kiếm thêm nhiều khách hàng mở tài khoản cố định lâu dài đồng thời còn tăng thêm danh tiếng cho mình không? Bởi vậy, trên thực tế, Vương Bá Nguyên cũng là tay cao thủ về dùng kế "mượn sức nhỏ để phá ngàn cân".
 
Chương 40
Để anh ta tự suy đoán


Võ Tắc Thiên vốn là tài nhân của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, vì có nhan sắc nên thái tử Lý Trị rất say mê. Lúc Đường Thái Tông lâm chung, ông đã kịp thời hạ chiếu bắt bà ta vào chùa làm ni cô. Đường Thái Tông chết được 3 năm, Vương hoàng hậu ghen ghét Tiêu Thục phi nên muốn mượn tay Võ Tắc Thiên đạp đổ Thục phi, bà ta khuyên Đường Cao Tông Lý Trị đưa Võ Tắc Thiên hồi cung.
Võ Tắc Thiên thông minh lanh lẹ, đối với Vương hoàng hậu tỏ ra lễ độ khiêm nhường, đối với Đường Cao Tông nghênh đón đon đã, không bao lâu được phong làm Chiêu Nghi. Mưu đồ gạt bỏ Tiêu Thục phi của Vương hậu được thực hiện nhanh chóng. Nhưng Võ Chiêu Nghi mới chỉ loại bỏ được Tiêu phi, tiếp theo là phải "xử lý" hoàng hậu.
Hoàng hậu tính tình kiêu ngạo, đối xử với các cung nữ rất nghiêm ngặt, ngay cả mẹ đẻ của hoàng hậu, ra vào hậu cung cũng không tuân thủ phép tắc, cho nên các cung nữ có nhiều dị nghị. Võ Chiêu Nghi nhân đà ly gián, đối với những người ghét hoàng hậu, bà càng thêm lung lạc họ, khi được ban thưởng, bà đều chia cho mọi người, bởi vậy đã gây được cảm tình trong lòng mọi cung nữ. Cung nữ cam tâm làm tai mắt cho Võ Thị, từng cử chỉ của hoàng hậu, đều bị Võ Nghi nắm bắt hết. Mặc dầu miệng lưỡi khéo léo của Võ Tắc Thiên nói xấu hoàng hậu, khuyên Cao Tông phế bỏ hoàng hậu, nhưng Đường Cao Tông không hề dao động. Bởi vì, trong lòng Cao Tông dù không thích hoàng hậu nhưng cũng không có ý định phế bỏ. Võ Tắc Thiên hiểu rõ, đối với kẻ không quyết đoán, nhu nhược và mềm yếu như Đường Cao Tông, dựa vào miệng lưỡi khuyên bảo thì khó mà thành công. Chỉ còn một biện pháp duy nhất là đưa sự việc vào tròng rồi tự ông ta quyết đoán, tác động bên ngoài cũng chỉ là thứ yếu.
Năm 654 sau Công nguyên, Võ Chiêu Nghi mang thai mười tháng, ước mong sinh được quý tử để nối dõi tông đường, nào ngờ chỉ sinh con gái. Đang lúc thất vọng, bà nghĩ ra một kế, quyết tâm để Đường Cao Tông tự tay phế bỏ Vương hoàng hậu.
Một hôm, Võ Chiêu Nghi đang ngồi chơi trong cung, chợt có tin hoàng hậu tới thăm. Võ Thị bèn nói với cung nữ rồi trốn vào phòng trong, hoàng hậu không thấy Võ Thị, bèn ngồi chờ lúc đó trong giường có tiếng trẻ khóc, vội chạy lại bế lên, ru trẻ ngủ rồi rời cung.
Võ Tắc Thiên nhìn thấy hoàng hậu ra về, từ phòng trong đi ra phía bên giường, lật chăn ra, cắn răng bấm bụng, rắp tâm trong lúc con trẻ ngủ say bóp chết, rồi kéo chăn đắp lại đợi Đường Cao Tông tới thăm.
Mỗi khi tan triều, Đường Cao Tông thường đến cùng Võ Thị nói chuyện. Một lúc sau, sứ giả báo xuống. "Hoàng đế giá lâm". Cũng như mọi ngày, Võ Thị tiếp đón cung kính tươi cười vui vẻ. Một lúc sau, Đường Cao Tông nhìn ra giường mà hỏi "Con gái vẫn ngủ say à?" Võ Thị cố ý trả lời: "Nó ngủ đã lâu rồi, bây giờ đánh thức dậy thôi". Nói rồi lệnh cho tỳ nữ bế con gái lên.
Cô tỳ nữ vừa lật chăn ra, hốt hoảng nói không nên lời. Võ Thị cố ý quát mắng "Lẽ nào còn ngủ say thế, bế nó ngay lên, tự khắc sẽ tỉnh ngủ thôi!". Cô tỳ nữ chỉ thốt lên được câu “không". Võ Thị cố tình giả vờ tự mình xông ra bế lấy con, tay chưa kịp sờ vào con gái, miệng đã lu loa ầm lên. Đường Cao Tông không hiểu làm sao cả, vội đi đến giường xem xét rõ tình hình, lúc đó ông mới biết rằng đứa con gái yêu quý đã chết tự bao giờ, ông đau khổ khóc nức lên. Võ Thị khóc rồi cố tình hỏi đứa hầu gái: "Ta ra vườn hái hoa, quá lắm cũng chỉ mất vài phút, một đứa trẻ đáng yêu như vậy tại sao lại chết ngạt đây? Trừ phi các ngươi muốn báo thù ta, kẻ nào giết chết con gái ta?”.
Bọn nữ hầu cuống quýt quỳ lạy, nhất loạt nói không dám làm chuyện đó.
Võ Thị lại hỏi "Các ngươi đều là những người tốt, lẽ nào có quỷ đến đòi mạng ư?" . Bọn người hầu dần dà tỉnh ngộ, nhất loạt đồng thanh: "Chỉ có chính cung nương nương qua đây, hài nhi khóc nên bà ta bế nó dỗ nín. Nó ngủ rồi bà ta mới về cung".
Võ Thị nghe xong, cố ý giậm chân, vừa khóc vừa kể lể, giọng ai oán nói số mình khổ không có con cái. Đường Cao Tông quả quyết cho rằng hoàng hậu bóp chết đứa trẻ, ông ta quyết định phế bỏ hoàng hậu. Lúc này Võ Thị cố ý nói. "Phế bỏ hoàng hậu là chuyện lớn, xin bệ hạ quyết định anh minh, nếu không bàn bạc với các đại thần, thì Vương hoàng hậu sẽ không phục và không hài lòng với thiếp. Thà rằng đuổi thiếp đi chứ không thể phế hậu được".
Nhưng mà Đường Cao Tông tự mình suy lý quyết đoán mọi việc. Lời nói của người ngoài có thể dễ dàng "khuyên" quay đầu không ? Ông ta nói với Võ Thị: "Ý trẫm đã quyết, khanh đừng cản trẫm".
Ngoài mặt thì Võ Tắc Thiên tỏ vẻ đau khổ nhưng thực ra trong lòng lại vô cùng vui mừng.
Mỗi cá nhân bắt ép, khuyên ông ta làm chuyện gì ông đều cảm thấy không vui, thêm vào đó là sự cự tuyệt, ông chỉ căn cứ vào ý nguyện, vào lôgic của mình mà làm việc. Võ Tắc Thiên có thể nhìn rõ điểm này, bà ta còn khéo léo xây dựng tình hình, khiến Đường Cao Tông chiều theo tâm ý bà ta mà xử lý mọi chuyện đưa ra các quyết sách, đó gọi là có mưu trí thâm sâu. Tuy nhiên thủ đoạn của Võ Tắc Thiên rất tàn nhẫn, quay lưng vào lẽ đời. Nhưng chỉ nhìn từ góc độ xây dựng kế sách thì bà ta không hổ thẹn là một cao thủ mưu sâu trí lớn, biết nhìn xa trông rộng. Trong vũ đài chính trị cần loại trí mưu này, huống hồ còn muốn giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm giành được thành công, đương nhiên phải áp dụng xuất sắc mưu kế này.
Jonh là ông chủ cửa hàng xe hơi cũ ở Chasda. Một hôm, có đôi vợ chồng trẻ đến cửa hàng. ông giới thiệu cho vợ chồng họ rất nhiều xe, nói đến cạn khô cả cổ, nhưng mỗi một chiếc xe họ đều tìm ra một căn bệnh, một lỗi. Nói như vậy, họ xem xét hết tất cả những chiếc xe cũ, cuối cùng tay không đi khỏi cửa hàng. Jonh không hổ danh là một thương nhân xuất sắc, ông không tỏ vẻ gì là khó chịu mà còn xin số điện thoại của đôi vợ chồng đó, nói rõ bao giờ có chiếc xe nào mới hơn thì sẽ gọi điện cho bọn họ.
Jonh phân tích tâm lý của hai người, quyết định thay đổi quyết sách, không thể giống như lần trước cứ ra sức mà giới thiệu xe, mà phải làm sao cho bọn họ hạ quyết tâm mua xe.
Vài ngày sau, có một người muốn bán chiếc xe hơi cũ của anh ta, Jonh thử quyết định đưa ra kế sách. Ông gọi điện thoại cho đôi vợ chồng đó đến và nói rõ để cho bọn họ nêu kiến nghị.
Sau khi hai vợ chồng nọ đến, ông nói: "Tôi hiểu các bạn, các bạn đều là những người am hiểu về xe hơi. Các bạn có thể xem giúp tôi chiếc xe này đáng giá bao nhiêu tiền không?".
Đôi vợ chồng đó vô cùng kinh ngạc, chủ cửa hàng xe hơi ngẫu nhiên lại thỉnh giáo bọn họ đến. Người chồng xem qua một lượt, rồi lái thử năm phút, sau đó nói: "Khoảng 300 đô la là có thể mua được, điều này không còn do dự .
“Nếu tôi dùng số tiền đó lấy lại chiếc xe này, thì anh có mua nó không. " Jonh hỏi. “Đương nhiên, tôi sẽ mua lại nó".
Cuộc mua bán rất nhanh chóng đã thành công. Cửa hàng xe hơi tiêu thụ xe rất tốt, họ sửa đi rồi bán, đôi vợ chồng đó đều tìm ra lý do cự tuyệt. Hiện nay, giá cả của xe đều thông qua nguyên tắc xử lý của mình để bán ra, nếu như "giá cả hợp lý”, vậy thì còn tìm đâu ra lý do cự tuyệt đây? Đôi vợ chồng này có chung tâm lý của những người bình thường. Huống hồ, ông chủ cửa hàng biết nắm bắt tâm lý khách hàng điều này là do tóm tắt được mưu trí sở tại để rồi dễ dàng kiếm sống từ những chiếc xe hơi cũ kỹ đó.
 
Chương 41
Lừa lấy mất thời gian của đối thủ


Vào thời Đường Cao Tông, Thổ Phồn rất hùng mạnh nên Tây Đột Quyết phải quy phục và có ý định thôn tính cả Thổ Cổ Hỗn. Nhà Đường cũng tham dự vào hoạt động thôn tính Thổ Phồn, nên quan hệ hòa hiếu giữa Thổ Phồn với nhà Đường bị phá vỡ. Nhà Đường vì muốn đối phó với Thổ Phồn nên đã trao cho tù trưởng Tây Đột Quyết là A Sử Na Đô Chi làm tả kiêu vệ tướng quân để ông chấm dứt quan hệ với Thổ Phồn.
A Sử Na Đô Chi bề ngoài thì tỏ vẻ theo ý của nhà Đường nhưng sau lưng vẫn liên kết với Thổ Phồn để cùng chiếm An Tây của nhà Đường (tức Cao Xương, Tân Cương bây giờ). Nhà Đường muốn xuất quân đánh dẹp Tây Đột Quyết. Quan thị lang Bùi Hành Kiệm khởi tấu Đường Cao Tông: "Bây giờ Thổ Phồn đang mạnh, Tây Đột Quyết cũng có ý hòa hiếu với nhà Đường nên chúng ta không thể công khai dùng binh hai phía được Bây giờ cũng đúng lúc Ba Tư vương vừa qua đời, con ông ta Nê Niết Tư làm con tin thì vẫn ở trong kinh đô của ta, ta có thể sẵn sàng để cho Nê Niết Tư về nước kế vị. Trên đường qua Tây Đột Quyết thì nhân tiện hành sự luôn, chắc chắn là không cần đánh mà Tây Đột Quyết vẫn phải quy hàng". Đường Cao Tông nghe nói có lý bèn hạ lệnh cho quân do Bùi Hành Kiệm dẫn đầu đưa vương tử Ba Tư về nước, cũng là để làm yên lòng các nước láng giềng của Ba Tư. Trên thực tế thì chỉ là mượn cớ để công kích Tây Đột Quyết.
A Sử Na Đô Chi cũng biết ngay kế sách giả dối bề ngoài một kiểu, bên trong một kiểu của nhà Đường nên phái rất nhiều trinh thám để kịp thời tìm hiểu hành trình của Bùi Hành Kiệm.
Năm Điều Lộ thứ nhất (năm 627 sau Công nguyên) vào một ngày nắng to, Bùi Hành Kiệm đến Tứ Châu (bây giờ là Thổ Lộ Phồn, Tân Cương), các quan lại ở Tứ Châu đều ra ngoài thành nghênh tiếp. Bùi Hành Kiệm triệu tập hơn 1000 con cháu hào kiệt đi theo, rêu rao khắp nơi rằng thời tiết nóng quá, không muốn vội vàng đi xa, đợi đến khi thời tiết mát mẻ hơn sẽ lên đường đi về phía tây.
A Sử Na Đô Chi vốn đang lo Bùi Hành Kiệm sẽ đánh gấp nay lại nghe nói Bùi Hành Kiệm muốn lưu lại Tây Châu đợi khi trời mát mới đến Đột Quyết nên rất yên tâm, chỉ lo vui vẻ, tránh nóng mà không hề lo bố trí phòng vệ.
Bùi Hành Kiệm lại cho triệu tập tù trưởng bốn trấn An Tây và nói với họ: "Trước đây ở Tây Châu, ta thích nhất là đi săn. Nhân tiện lúc này đang rỗi rãi ta muốn thăm lại chốn cũ, vừa là đi săn vừa du ngoạn khắp nơi. Ai muốn đi cùng ta?". Người dân nơi đó vốn sống dựa vào việc săn bắn nên vừa nghe vậy, tất cả mọi người không ai là không muốn đi theo. Bùi Hành Kiệm lại nói: "Nếu mọi người muốn đi cùng thì phải theo lệnh của ta". Mọi người đều đồng thanh đáp ứng.
Bùi Hành Kiệm tuyển chọn được hàng vạn người ngựa, tổ chức thành đội ngũ. Dưới danh nghĩa là đi săn, Bùi Hành Kiệm đã ngấm ngầm cho thao luyện đồng thời còn ra lệnh liên tiếp trong mấy ngày từ đường nhỏ tiến về phía tây, chỉ mấy ngày sau đã đến chỗ bộ lạc của A Sử Na Đô Chi. Khi còn cách chỗ của bộ lạc đó 10 dặm, Bùi Hành Kiệm phái sứ giả đến vấn an.
Bỗng nhiên nhìn thấy sứ giả nhà Đường đến nên A Sử Na Đô Chi rất đỗi kinh hoàng. Nhưng thấy sứ giả có thái độ khoan thai, ôn hòa, không trách mắng chuyện ông ta đã ngấm ngầm liên kết với Thổ Phồn, cũng không có ý muốn đánh nên mới yên tâm. A Sử Na Đô Chi vốn cũng đã bàn bạc với người trong bộ lạc dự định đến mùa thu trời mát mẻ sẽ chống cự lại quân Đường. Bây giờ chưa kịp phòng bị thì quân Đường đã đến, nếu gắng gượng để chống cự thì rõ ràng là lấy trứng chọi đá, vả lại xem thái độ của sứ giả nhà Đường thì chắc nhà Đường cũng sẽ không dùng quân ngay tức khắc nên cũng giả vờ tỏ ra tôn trọng nhà Đường, dẫn trên 500 quân đến chào Bùi Hành Kiệm.
Bùi Hành Kiệm cũng giả vờ tỏ ra hoan nghênh, nhưng thực ra đã ngấm ngầm bố trí mai phục. Vừa đợi A Sử Na Đô Chi bước vào lều trại bèn ra hiệu lệnh cho quân mai phục xông ra, lập tức hơn 500 người bị bắt giam lại.
Lúc đó, phó tướng của A Sử Na Đô Chi là Lý Già Bặc trấn giữ ở biên giới phía tây. Bùi Hành Kiệm dẫn đầu kỵ binh, thừa thắng đánh về phía tây đó. Già Bặc còn chưa biết việc gì xảy ra thì đã bị tấn công bất ngờ nên không chống cự lại được đành giơ tay xin hàng.
Bùi Hành Kiệm không cần đổ máu mà vẫn bắt được hai tù trưởng của Tây Đột Quyết và thắng lớn. Sau đó lệnh cho hoàng tử Ba Tư tự về Ba Tư, để người lưu lại An Tây, đồng thời cho xây thành Toái Diệp, củng cố biên phòng. Còn mình thì áp giải tù binh về phía đông, chiến thắng trở về. Trong buổi tiệc mừng chiến thắng, Đường Cao Tông nói với ông rằng: "Khanh dẫn một đội quân tác chiến đơn độc, đi sâu vạn dặm, không cần đổ máu mà vẫn bắt được tù binh về, có thể nói là văn võ song toàn".
Làm bất cứ việc gì cũng phải có thời gian, một khi không có thời gian thì tự nhiên mọi việc đều không có kết quả. Bùi Hành Kiệm không mất một quân lính nào, không để cho Thổ Phồn kịp trở tay nên dễ dàng bắt được thủ lĩnh của Tây Đột Quyết, điểm mấu chốt của vấn đề là ở chỗ đã không cho A Sử Na Đô Chi kịp có thời gian để chuẩn bị chống cự. Đương nhiên thời gian thì không thể lấy trộm hay cướp đi được, cái gọi là làm cho đối thủ mất đi thời gian không có nghĩa là rút đi thời gian một vài giờ, một vài ngày hay vài tháng trong cuộc đời của đối thủ, mà chỉ là thông qua các thủ đoạn lừa dối làm cho thời gian mà đối thủ vốn định dùng để chống cự thành của mình dùng. Như vậy thì riêng chuyện chống cự, đối thủ cũng đã không đủ thời gian rồi. Cạnh tranh trong kinh doanh cũng vậy, kế "lừa lấy thời gian của đối thủ” luôn là kế tốt nhất để không cần đánh mà vẫn thắng.
Một lần, một thương nhân người Mỹ là người rất thích phân tích tâm lý và tinh thần người Nhật Bản vì chuyện làm ăn phải đến Nhật đàm phán. Khi máy bay hạ cánh ở Tokyo, ông ta được nhân viên do phía Nhật cử đến đón tiếp với một thái độ rất lịch sự, lại còn giúp ông làm các thủ tục.
“Thưa ngài, ngài có biết nói tiếng Nhật không ?", người Nhật đó hỏi ông ta.
“ồ! không, nhưng tôi có đem theo một quyển từ điển rất hay, hy vọng sẽ nhanh chóng học được", ông người Mỹ trả lời.
“Thế lúc về ngài cũng sẽ đi máy bay chứ? Đến lúc đó chúng tôi sẽ tiễn ngài ra sân bay", người Nhật đó lại hỏi.
Ông người Mỹ không cảnh giới gì nữa, cảm thấy người Nhật thật chu đáo, quan tâm nên vội rút vé máy bay lúc về ra nói cho anh ta cụ thể là lúc nào rời Nhật Bản.
Người Nhật đó biết rằng thương nhân người Mỹ này chỉ ở Nhật 4 ngày. Thế là đầu tiên thì sắp xếp cho ông ta đi du lịch một tuần. Không chỉ đi thăm các thắng cảnh mà còn dựa vào sở thích của ông ta để sắp xếp cho ông ta tham gia một lớp “Thiền cơ" ngắn hạn giảng bằng tiếng Anh, nói rằng để thương gia người Mỹ tìm hiểu về tôn giáo tín ngưỡng Nhật Bản.
Mỗi tối, người Nhật đều để cho người Mỹ quỳ trên nền đất cứng, tham dự các buổi tiệc khoản đãi ân cần hiếu khách kiểu Nhật, mỗi lần là 4 giờ 30 phút, làm cho thương gia người Mỹ chán đến tận cổ mà vẫn phải luôn miệng cám ơn. Nhưng cứ mỗi lần nhắc đến chuyện làm ăn thì người Nhật lại thư thái nói "Thời gian còn nhiều, không vội, không vội?".
Đến ngày thứ 12 thì buổi đàm phán cũng bắt đầu, nhưng đến chiều lại chơi gôn. Đến ngày thứ 13 lại đàm phán, nhưng vì còn phải tham dự buổi tiệc tiễn đưa rất long trọng nên phải kết thúc đàm phán sớm. Buổi tối hôm đó, người Mỹ đã sốt ruột lắm rồi nhưng vẫn phải tỏ ra tươi cười vui vẻ nghe theo sự sắp xếp khách sáo của người Nhật để tham gia các cuộc vui tiếp.
Đến ngày thứ 14, đàm phán lại bắt đầu, nhưng lúc bàn đến vấn đề quan trọng thì xe ô tô đến giục vì đã đến giờ ra sân bay. Thế là hai bên chủ khách đành phải cùng nhau lên xe. Trên đường ra sân bay bàn về điều kiện mấu chốt. Xe đến sân bay, mọi người bước xuống xe thì cũng vừa lúc hai bên ký xong vào bản thỏa thuận. Hai bên nói lời tạm biệt, người Mỹ thì mỉm cười lên máy bay. Song chỉ sau một thời gian thực hiện thỏa thuận thương gia người Mỹ mới phát hiện ra mình toàn bị lỗ. Lúc đó ông mới tỉnh ngộ ra rằng người Nhật đã lừa lấy gần hết thời gian mà lẽ ra dùng để đàm phán, ký thỏa thuận, trong tình cảnh như vậy thì làm gì mà chả thua?
 
 
Chương 42
Lấy cái này thay cái kia


Năm Điều Lộ nguyên niên thời Đường Cao Tông (năm 679), Bùi Hành Kiệm vừa mới dùng kế để bình định tộc Đột Quyết ở phía tây, không ngờ tộc Đột Quyết ở phía đông cũng phát sinh bạo loạn làm phản, ngang nhiên chống đối triều Đường. 24 tù trưởng ở biên giới phía bắc đều nhất loạt hưởng ứng, cả phương Bắc náo loạn. Đường Cao Tông ra lệnh cho trưởng sử phủ Thiền Vu là Tiêu Tự Nghiệp dẫn binh chinh phạt, nào ngờ bị đánh cho tan tác, thương vong nhiều không kể xiết. Thế là, Đường Cao Tông lại hạ lệnh cho Bùi Hành Kiệm làm đại tổng quản quân đội cùng với đô đốc tỉnh Phong Châu là Trình Vụ Diên, đô đốc tỉnh U Châu là Lý Văn Gián... thống lĩnh đại quân tiêu diệt bọn phản nghịch, dẹp yên tộc Đột Quyết ở phía đông.
Đoàn quân đi đến Sóc Châu (nay thuộc huyện Sóc tỉnh Sơn Đông) thì Bùi Hành Kiệm nói với các chư tướng: "Trong đạo dụng binh, đối với nội bộ thì coi trọng sự trung thành còn đối địch phải gian trá. Trước đây không lâu thống sư Tiêu Tự Nghiệp chỉ huy quân đội, ông ta tuy dũng cảm nhưng không có mưu trí, không biết dùng sự gian trá đối xử với địch, thậm chí lương thảo còn bị tộc Đột Quyết cướp đoạt, vì thế quân ta lâm vào cảnh đói khát, gặp cảnh thất bại. Lần này tộc Đột Quyết nhất định ngựa theo đường cũ đến cướp đoạt lương thảo của quân ta, chúng ta sẽ cho quân tinh nhuệ ẩn nấp trên xe chở lương thực, tất dẫn dụ được kẻ địch, giết chết bọn chúng khi địch chưa kịp trở tay”.
Theo kế hoạch đã định, Bùi Hành Kiệm cho bố trí 300 xe chở lương, mỗi xe có 5 chiến binh tinh nhuệ ẩn náu, bọn họ đều đeo dao lớn và cung tên rắn chắc. Bên ngoài chỉ có một chiến binh già yếu đánh xe, đoàn xe chậm rãi tiến về phía trước. Ngoài ra, ông còn phái một ngàn quân tinh nhuệ, từ các ngả đường vượt qua đoàn quân lương, mai phục yểm trợ trước mặt để tùy cơ ứng biến.
Trước đây quân đội tộc Đột Quyết đã vài lần cướp được lương thảo, nay lại thấy đoàn xe lương tiến đến, chắc mẩm sẽ trót lọt như mọi lần, do đó không đề phòng đều nhất loạt xông ra cướp bóc. Những lão binh già yếu hộ tống xe lương nhìn thấy quân lính Đột Quyết dũng mãnh kéo đến, bọn họ vội vàng bỏ xe lương chạy trốn. Quân Đột Quyết không cần phung phí sức lực đã cướp đoạt được lương thảo, tự nhiên chúng sinh ra dương dương tự đắc, kiêu ngạo liền kéo đoàn xe lương đến vùng cỏ phì nhiêu nước chảy róc rách, bọn họ cho ngựa ăn cỏ uống nước và nghỉ ngơi, sau đó mở thùng xe định dỡ lương thực xuống.
Điều họ không ngờ đã xảy ra, lương thực đâu không thấy, chỉ toàn quân lính dũng cảm triều Đường. Quân Đột Quyết bị tập kích ngoài ý muốn, nên chống đỡ không kịp bị quân Đường đánh cho tan tác, thi thể chất thành đống, số còn lại tháo chạy tán loạn. Ai biết được rằng họa vô đơn chí, cẩn mật phòng bị chặt chẽ ở cửa ải thì lại mọc ra cánh quân ở cạnh sườn, quân Đột Quyết hoặc đầu hàng, hoặc bị giết, không còn sót một mống.
Từ đó về sau, quân Đột Quyết sợ hãi không dám hó hé và cũng không dám đến cướp đoạt lương thảo của Bùi Hành Kiệm. Bùi Hành Kiệm có một hậu phương an toàn phụ giúp, ông mạnh dạn tiến về phương Bắc, không lâu sau đã diệt được bọn phản loạn Đột Quyết chiến thắng quay về triều.
Có rất nhiều cách làm gian trá. Bùi Hành Kiệm đã tráo lương bằng quân lính, một kế sách cực kỳ tuyệt hảo, ý tưởng đó quả làm người ta không ngờ, ai biết được cũng vỗ tay tán thưởng. Trong kinh doanh thương nghiệp chúng ta cũng luôn giương cao biển hiệu lấy sự trung thực làm đầu, nhưng đối với những kẻ gian trá, cũng nên để "gậy ông đập lưng ông", chúng ta nên áp dụng kế sách "tình hình phát sinh sự thay đổi không bình thường, lấy cái này thay cái kia". Vạn nhất không thể để bị mắc lừa, bị mê muội. Ngài Mike đã áp dụng thành công kế sách này, thoát khỏi sự kiểm soát về thuế của hải quan nước Mỹ. Tìm hiểu cách làm của ông, giúp chúng ta có thể tiến thêm một bước trong việc tìm hiểu kế sách "lấy cái này thay cái kia".
Mike đặt mua 10.000 đôi găng tay phụ nữ tại Pháp, theo quy định nước Mỹ thì ông ta phải đóng thuế hải quan tương đối cao. Vì muốn giảm bớt thuế nên ông ta đã chia đôi số găng tay, sau đó lần lượt vận chuyển về Mỹ.
Chuyến đầu tiên chuyển về Mỹ, Mike cố ý không đi lấy hàng. Chiếu theo thủ tục hải quan. hàng hóa vô chủ quá thời hạn quy định thì sẽ tiến hành bán đấu giá. Số găng tay này của ông ta đương nhiên cũng không nằm ngoài lệ.
Ngày bán đấu giá số găng tay đó có không ít thương gia đến tham gia, Mike cũng nằm trong số đó, ông không nói năng gì, đợi chờ sự thay đổi mang tính hài kịch. Mọi người mở hòm ra xem: họ bị một trận kinh ngạc, về chất lượng của số găng tay đó đều đạt yêu cầu chỉ có điều toàn bộ đều là găng tay trái. Với số hàng đó, ai dám mua cơ chứ! Thế là cuộc bán đấu giá chỉ còn mình Mike, theo cái lý thông thường, ông ta đứng ra mua số găng tay đó và với giá cực thấp.
Theo quy luật, găng tay thường là hai chiếc trái, phải mới thành đôi, vậy mà ông ta lại lấy hai tay trái làm thành một đôi, kỳ lạ quá, nhân viên hải quan đã bị che mắt rồi.
Chuyến găng tay thứ hai lại đến, lần này ông ta không dám dùng chiêu bài "bán đấu giá" như lần trước, nhưng ông ta lại đem 10.000 chiếc găng tay phải gộp vào từng đôi một. Kết quả nhân viên hải quan lại bị mắc kế "lấy cái này thay cái kia", họ chỉ dám thu thuế 5000 đôi. Như vậy, ông ta đã trốn được một một phần hai thuế hải quan, ngoài ra còn mua được số găng tay trái với giá một hào một chiếc và rốt cuộc đã nhập cảnh an toàn cho 10.000 đôi găng tay.
Kế sách "lấy cái này thay cái kia" không nhất định đều phải gian trá, cũng có thể coi đó là một phương pháp kinh doanh chính đáng, đáng được đề cao.
Ở nước Mỹ, các thương gia Nhật cũng làm như vậy. Công ty xe hơi của Nhật quyết định đưa sang thị trường nước Mỹ một loại xe hơi Infiniti. Vài năm trước, với ý đồ thay đổi quảng cáo quan niệm tiêu phí xe hơi của người Mỹ. Trên tranh quảng cáo chỉ thấy tầng nham thạch, đàn ngựa mà không hề có cảnh tượng xe hơi, nhưng nhìn toàn bộ bức tranh có thể thấy được không khí yên tĩnh theo hình thức Nhật Bản.
Basi nói: "ở Nhật Bản cái gọi là hào hoa là chỉ một cảm giác tự nhiên dư thừa, cái gọi là vẻ đẹp tức chỉ quan hệ cá nhân mật thiết. Một loại quan niệm mới của hào hoa xuất hiện đó là Infiniti".
Hình thức quảng cáo này làm chấn động nước Mỹ, người Mỹ tìm kiếm quan niệm tiêu phí hào hoa mới mẻ. Họ theo đuổi xu hướng mãnh liệt hình thức Infiniti.
Sau vài năm, công ty xe hơi này nhận được rất nhiều điện thoại hỏi về xe hào hoa tại sao chưa thấy xe bán trên thị trường mà chỉ thấy biển quảng cáo. Mãi đến ngày 8 tháng 11 năm 1989 loại xe này mới xuất hiện tại Nhật Bản.
Trải qua sự khống chế, sự nhẫn nại, xe Infiniti mới được đăng cơ trên thị trường nước Mỹ, chiếm một số lượng lớn trong các cửa hàng xe hơi của Mỹ.
 
Chương 43
Đánh vào dư luận.


Năm 683 sau Công nguyên, Đường Cao Tông vì bệnh đau đầu tái phát nên đã chết. Đường Trung Tông Lý Hiển lên kế vị vốn là kẻ bất tài, xưa nay đều nhất nhất nghe theo lời mẹ và đương nhiên chính quyền đã hoàn toàn rơi vào tay Võ Tắc Thiên. Đến năm thứ hai vì một lý do nào đó Đường Trung Tông bị phế làm Lô Lăng Vương, Võ Tắc Thiên bất giác nghĩ đến một chuyện từ hồi mình còn nhỏ.
Viên Thiên Cương, người Tây Thục rất tinh thông tướng thuật, đã nói tất sẽ nghiệm. Lúc đó cha của Võ Tắc Thiên là Võ Sĩ Ược mời đến nhà để ông ta gặp mọi người trong gia đình. Sau cùng khi xem cho Võ Tắc Thiên lúc đó còn đang quấn tã, Viên Thiên Cương kinh ngạc buột miệng nói: "Nó là con trai à? Nếu là con gái thì không thể nói trước được". Cha Võ Tắc Thiên cười trả lời: “Nếu nó là con gái thì sau này sẽ như thế nào?". Viên Thiên Cương nói: "Tướng mạo khác thường, rất sang". Cha của Võ Tắc Thiên nói: "Hay là nó có thể làm hoàng hậu” . Viên Thiên Chương nói: "Làm hoàng hậu là chuyện đương nhiên rồi nhưng xem ra không chỉ dừng ở đó!". Cha của Võ Tắc Thiên lại hỏi: "Thế liệu có làm được nữ hoàng đế không?". Thiên Cương trả lời: "Con gái mà có tướng như vậy thì đương nhiên là sẽ làm nữ hoàng đế!"
Cho đến khi Võ Tắc Thiên lớn lên, các anh chị em vẫn thường kêu là nữ hoàng đế. Võ Tắc Thiên biết rằng trong lịch sử các triều đại chưa có ai được làm nữ hoàng đế nên cũng không mơ mộng gì. Không ngờ thời thế thay đổi, phúc chí tâm linh, từ tài nhân lên Chiêu Nghi, từ Chiêu Nghi lên hoàng hậu, từ hoàng hậu lên thái hậu, cứ từng bước từng bước một, mọi việc đều như ý. Khi Đường Cao Tông còn sống, vì bệnh đau đầu nên từ năm 660 sau Công nguyên phần lớn chuyện chính sự đều ủy thác cho mình, bây giờ con trai là hoàng đế, việc chính sự đều do một mình mình nắm, muốn phế muốn lập ai chỉ cần một câu nói của mình. Vậy là Võ Tắc Thiên không thể tránh khỏi lời tiên đoán của Viên Thiên Cương, đã được thử cái ý nghĩ làm nữ hoàng đế.
Song quan niệm truyền thống vẫn còn thâm căn cố đế, sau khi Đường Trung Tông bị phế, Võ Tắc Thiên cố ý thăm dò quần thần mới hỏi: "Sau này nên lập ai làm hoàng đế?” Tể tướng bèn tâu nên lập người con út của Võ Tắc Thiên và Đường Cao Tông là Dự Vương Lý Đán. Những người khác cũng đồng ý như vậy chứ không một ai nghĩ đến việc một người đàn bà làm hoàng đế cả.
Võ Tắc Thiên đành phải tạm thời lập Lý Đán làm hoàng đế trên danh nghĩa. Song không ít đại thần nhiều lần đứng ra khuyên gián, đòi Võ Tắc Thiên phải sớm trao lại chính quyền cho hoàng đế, đàn bà không được tham dự vào chuyện chính sự. Cháu của quan đại thần nổi tiếng nhà Đường Lý Tích là Lý Kính Nghiệp thậm chí còn tập trung hơn 100.000 binh mã, thề giết người đàn bà muốn cướp giang sơn Đại Đường. Đại văn hào Lạc Tân Vương đã viết bản "Thảo Võ Chiếu hịch văn" nổi tiếng. Sau đó còn hàng loạt các bài phê phán đả kích Võ Tắc Thiên như Giáng Châu, Biểu Châu, Dự Châu...
Đối mặt với các thế lực truyền thống lớn mạnh như vậy, Võ Tắc Thiên hiểu rằng chỉ cần một câu nói của mình thì có thể ngồi lên ngai vàng, nhưng như vậy thì lòng người không phục, lòng dân bất ổn, ngôi vị nữ hoàng đế sẽ không bền chắc, cũng không thể lưu danh sử xanh được. Vì thế bà đã quyết định áp dụng kế sách dư luận tiến hành để tìm cách thay đổi quan niệm của mọi người, thay đổi thái độ thù địch của dân chúng đối với phụ nữ, đặc biệt là với bà.
Võ Tắc Thiên giả vờ nói rằng muốn trả lại chính quyền cho Lý Đán nhưng lại ngấm ngầm buộc Lý Đán viết biểu từ chối, làm như mình bị buộc phải lâm triều, nắm quyền của hoàng đế.
Tiếp đó lại cho cháu mình là Võ Thừa Tự sai người khắc lên đá 8 chữ "Thánh mẫu lâm nhân, vĩnh xướng đế nghiệp" và sơn màu đỏ rồi ném vào Lạc Thủy. Sau đó lại cho người nhặt lên dâng triều đình. Võ Tắc Thiên tự mình làm lễ cảm tạ trời đất, gọi hòn đá đó là Thiên thụ thánh đồ, đổi tên Lạc Thủy thành Vĩnh Xương Thủy, phong cho thần Lạc Thủy là Hiển thánh hậu, tự thêm cho mình hiệu là Thánh mẫu thần hoàng, phong cho Đường Đồng Thái làm Du Kích tướng quân. Đồng thời còn tổ chức nghi lễ trọng đại bái lạc thụ thụy, làm người khác nghĩ rằng việc bà làm hoàng đế là ý trời.
Lại cho một pháp minh cao tăng bịa đặt ra rằng có một đám mây cuộn thành bốn vòng bay khắp trong ngoài triều đình và cho rằng Võ Tắc Thiên là hiện thân của Phật Di Lặc ở trần thế, lẽ ra phải là người đứng đầu nhà Đường. Thêm nữa lại lệnh cho thị ngự sử Phó Du Nghệ dẫn hơn 900 người dân đến triều đình dâng biểu khẩn thiết mời Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng đế. Võ Tắc Thiên giả bộ không đồng ý nhưng lại thăng quan cho Phó Du Nghệ. Thế là các quan lại, dân chúng, đạo sĩ khắp nơi đều bắt chước Phó Du Nghệ dâng biểu mời Võ Tắc Thiên ra làm hoàng đế. Có lần số người dâng biểu lên tới- 60 ngàn người.
Với cách tạo ra dư luận như vậy đã làm cho mọi người đều cảm thấy rằng việc Võ Tắc Thiên làm hoàng đế là hợp ý trời và hợp lòng người. Các quan lại, dân chúng được thể còn nói việc lập nữ hoàng đế là hợp ý trời đất, Võ Tắc Thiên nên sớm lên ngôi. Ngay cả vị hoàng đế hữu danh vô thực Lý Đán cũng cho rằng Võ Thị nên làm hoàng đế, tự mình cũng dâng biểu thỉnh cầu Võ Thị.
Võ Tắc Thiên thấy rằng quan niệm của mọi người đã thay đổi, thời cơ chín muồi nên đến năm 690 sau Công nguyên đã giáng hoàng đế Lý Đán làm hoàng tự và ban cho họ Võ. Sau đó đổi quốc hiệu thành Chu, thêm tôn hiệu cho mình là Thần thánh hoàng đế, đường đường chính chính ngồi lên ngai vàng, làm nên một cuộc cải cách, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc một nữ hoàng đế thống trị thiên hạ.
Sử sách gọi Võ Tắc Thiên là "Tố đa trí kế” . Nếu xét về tài trí theo quan điểm hiện nay thì so với con trai mình, Võ Tắc Thiên xứng đáng nắm quyền hành hơn. Nếu tính từ khi Võ Tắc Thiên làm hoàng hậu và tham gia chính sự thì trên thực tế là đã chấp chính được nửa thế kỷ và phải nói rằng bà đã có công rất lớn, đã cống hiến rất nhiều vì sự văn minh, tiến bộ. Nhưng vì bà là phụ nữ nên việc ngồi lên ngôi vị hoàng đế là một cuộc cải cách làm kinh thiên động địa trong xã hội phong kiến, nếu như không có dư luận dọn đường trước để tranh thủ lòng người, thay đổi quan niệm thì điều đó rất khó thực hiện.
Trong kinh doanh, có lợi nhuận nhiều nhất, cống hiến nhiều nhất cho sự tiến bộ của xã hội luôn là sự khai phá của sản phẩm mới. Nhưng mọi người cũng đều biết rằng, đã từng có biết bao sản phẩm mới ra đời mà không có người hỏi han tới, từng có bao nhiêu nhà máy chỉ vì sáng tạo ra sản phẩm mới mà bị phá sản. Nguyên nhân là do đâu? Người tiêu dùng quan niệm về giá trị tiêu dùng, có cách tiêu dùng truyền thống, đó là những thành trì kiên cố để họ cự tuyệt một sản phẩm mới.
Một sản phẩm mới chỉ có thể thông qua cách dư luận tiến hành phương thức, quan niệm về tiêu dùng, phá vỡ những lô cốt thì mới có thể được người tiêu dùng ưa thích, mới có được thị trường, thay thế được sản phẩm cũ. Chính vì thế mà trong kinh doanh, kế "dư luận tiên hành" rất hay được dùng. Việc vận dụng kế "dư luận tiên hành" của các thương nhân người Nhật rất đáng làm tấm gương cho chúng ta. Các doanh nghiệp Nhật Bản khi muốn thúc đẩy sản phẩm mới hoặc khai thác thị trường nước ngoài luôn dựa vào quảng cáo để tạo ra dư luận từ trước, và nghĩ đến thị trường trong tương lai 5 năm thậm chí 10 năm sau. Như công ty Sony chẳng hạn, trước khi sản phẩm của họ được bán ở các cửa hàng thì đã xuất hiện nhiều lần trên đài truyền hình Trung Quốc. Cho đến khi sản phẩm của họ xuất hiện trên thị trường Trung Quốc thì người tiêu dùng đã có ấn tượng sâu sắc về các tính năng, công dụng mới mẻ độc đáo của chúng, thậm chí là đã được mọi người trông đợi từ lâu. Việc các sản phẩm của Nhật hơn hẳn sản phẩm của các nước khác hiển nhiên là có quan hệ mật thiết với việc vận dụng kế sách này.
Các sản phẩm của Nhật ở Mỹ cũng vậy. Một số công ty ôtô của Nhật quyết định đưa vào thị trường Mỹ loại xe Infiniti hào hoa. Trước đó mấy năm, quảng cáo nhằm thay đổi quan niệm sử dụng xe Ô tô của người Mỹ đã bắt đầu. Trong áp phích quảng cáo, chỉ thấy có những bầy ngựa hay tầng nhũ đá chứ không hề có hình ảnh thân xe hoặc một chiếc xe đang băng nhanh nhưng rõ ràng là đã hiện ra một cảm giác yên tĩnh kiểu Nhật. Chỗ trống bên cạnh thì viết. "Ở Nhật, cái gọi là hào hoa tức là để chỉ cảm giác tự nhiên về sự dư thừa, còn cái gọi là đẹp là để chỉ quan hệ cá nhân mật thiết. Một quan niệm mới về sự hào hoa đã xuất hiện - Infiniti".
Cách quảng cáo linh hoạt kỳ ảo mà lại có sức ngấm sâu này ngay lập tức làm rung động quan niệm tiêu dùng hào hoa muốn tìm cái mới lạ của người Mỹ, hình thành nên một xu hướng từ bỏ quan niệm gò bó vốn chỉ nhấn mạnh về chất lượng của xe và sự hào hoa theo kiểu cũ để đuổi theo sự hào hoa theo kiểu Infiniti.
Vài năm sau đó, kể cả khi công ty Nhật Bản nhận được rất nhiều cú điện thoại hỏi về kiểu xe hào hoa mới thì họ vẫn chưa đưa sản phẩm ra thị trường mà chỉ cung cấp một vài bức ảnh về kiểu xe mới cho giới báo chí. Mãi cho đến ngày 8 tháng 11 năm 1989, loại xe đó mới được trưng bày trong phòng triển lãm các loại xe của Nhật.
Sau khi đã thăm dò, khống chế dư luận một cách tỉ mỉ, kiên nhẫn, Infiniti mới bắt đầu được đưa vào Mỹ và ngay lập tức chiếm lĩnh các cửa hàng bán xe ôtô lớn.
 
Chương 44
Dụ địch vào tròng


Võ Tắc Thiên tuy đã ngồi lên ngai vàng một cách thuận lợi, nhưng vẫn lo các đại thần trong triều không phục nên cho đặt ở cổng thành một cái "tráp đồng" và truyền lệnh bất kỳ ai cũng có thể mật báo, bỏ những bức thư mật báo vào "tráp đồng", sau đó sẽ có người chuyên đến lấy ra và dựa vào đó để trừng phạt các quan đại thần có hành vi làm loạn hoặc không phục bà ta. Nếu những bản mật tấu đó chính xác thì sẽ được phong quan. Sách Nguyên Lễ người Hồ nhờ mật báo được phong chức Du kích tướng quân. Thế là mọi người nhao nhao lên bắt chước. Thậm chí còn dựng chuyện kết tội cho các quan lớn bé để được lên thẳng một mạch làm quan.
Trong số đó quan Thượng thư Chu Hưng là người nhạy bén, giảo hoạt nhất. Chẳng bao lâu sau đã làm đến chức Thu quan thị lang. Dưới tay ông ta còn chuyên nuôi hàng trăm tên vô lại chuyên làm việc mật báo. Mỗi lần muốn mưu hại một người nào đó thì lập tức khắp nơi đều có mật báo, do nội dung giống nhau nên mọi người đều tin là thật. Ông ta còn dựa vào kinh nghiệm nhiều năm đó tổng kết ra những bức thư mật báo khoảng 1000 chữ để làm tài liệu quý hiếm truyền dạy cho các đệ tử. Chu Hưng còn đề ra hàng loạt các hình phạt, các công cụ để trừng phạt rất khác người như "phượng hoàng sái sí", “tiên nhân hiến quả", "ngọc nữ đăng thê"... Mỗi lần xét hỏi phạm nhân, cứ một tiếng mõ vang lên là các hình cụ được bày ra, phạm nhân chỉ mới nhìn thấy thì hồn vía đã lên mây, tội sống còn khổ hơn tội chết, không giống như tội vu khống mà ngược lại nếu được chết càng nhanh thì càng đỡ phải chịu những hình phạt tàn khốc.
Không ngờ ông trời có mắt, việc mật báo và dùng hình đó cũng bị người khác mật báo lại rằng bọn họ thông đồng với nhau mưu phản. Võ Tắc Thiên bèn ra sắc chỉ cho Lai Tuấn Thần nhanh chóng đi điều tra.
Lai Tuấn Thần thừa biết thủ đoạn của "lão đại". Muốn cho ông ta khai ra không phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy đã nghĩ ra một kế, mời Chu Hưng đến uống rượu nói chuyện. Trong bữa tiệc, Lai Tuấn Thần hết lời khen ngợi Chu Hưng, nói rằng ông ta là bậc cao thủ trong việc phá án. Sau đó thỉnh giáo ông ta với một thái độ rất thành khẩn: "Hiện nay tôi đang gặp phải một tên tù phạm rất giảo hoạt, mọi hình phạt đều đã được áp dụng vậy mà hắn vẫn không chịu khai, không biết ông anh có kế gì hay thì chỉ giáo cho tôi?". Chu Hưng đang dương dương tự đắc lại có men rượu thêm vào nên chẳng nghĩ ngợi gì nói với Lai Tuấn Thần: "Việc này quá dễ, ta bảo cho ngươi một cách tốt nhất: Kiếm lấy một cái hũ lớn, bỏ tên tù phạm vào trong, sau đó cho than đốt xung quanh, từ từ thiêu đốt. Trước khi tên tù đó bị nướng chín, chắc chắn ngươi sẽ lấy được khẩu cung".
Lai Tuấn Thần nghe xong sướng quá vỗ tay khen hay, đồng thời cho người mang đến một cái hũ lớn, xung quanh đốt than. Chu Hưng không hiểu ra sao: "Lẽ nào ngươi định xét hỏi tên tội phạm đó ở đây?". Lai Tuấn Thần lúc này mới rút ra sắc chỉ của Võ Tắc Thiên, sau đó nói với Chu Hưng: “Thỉnh quân nhập ung".
Kết quả còn đến nhanh hơn so với dự liệu của Chu Hưng: Trước khi bị bỏ vào trong hũ, Chu Hưng đã khai rất cụ thể những điều mà Lai Tuấn Thần yêu cầu.
Cái cách mà Lai Tuấn Thần dùng để khuất phục Chu Hưng quả là rất tuyệt diệu. Trong kinh doanh, đối với những kẻ gian hiểm, những gian thương gian trá vô lại đó, nếu có thể áp dụng kế "thỉnh quân nhập ung" thì đó là cách rất có hiệu quả kinh tế. Nguyên nhân rất đơn giản, lấy độc trị độc, lấy gian trị gian, lấy vô lại trị vô lại. Vậy cái độc đó từ đâu ra? Gian ở chỗ nào? Tìm cách để trị sự vô lại ở đâu? Chính là ở bản thân của kẻ gian trá đó?
Những năm 30, thương nhân người Anh tên Willi, đặt mua 3000 chiếc vali da của Melong Hồng Kông với giá là 200.000 đô la Hồng Kông. Trong hợp đồng quy định thời hạn giao hàng là trong vòng một tháng nếu vượt quá thời hạn đó thì không chỉ dựa vào chất lượng để giao hàng nữa mà bên bán phải bồi thường 50% tổn thất.
Trong vòng một tháng Phùng Xán giám đốc công ty sản xuất vali da Melong đã căn cứ theo hợp đồng để giao hàng cho phía Anh. Willi thì lại không ngại ngùng gì lớn tiếng nói rằng, tầng phía trong va li sử dụng nguyên liệu là gỗ và như vậy đợt hàng này không phải là va li da. Đương nhiên nếu làm lại "va li da thật sự" thì sẽ muộn, số va li da trước đó sẽ bị tồn đọng và khoản bồi thường 50% chắc chắn sẽ phải nộp. Giám đốc Phùng Xán không thể kìm nén được cơn giận, nhưng khi đối mặt với tên vô lại đó ông không nghĩ ra lời nào để phản bác được hai bên bèn đưa nhau ra tòa đối chất.
Khi mở phiên toà xét xử, không ngờ tòa án cũng có ý thiên vị và Phùng Xán có thể bị kết tội "lừa đảo". Phải làm thế nào khi đối mặt với một kẻ gian thương mạnh mồm, với một quan tòa bề ngoài thì tỏ ra công bằng nhưng thực ra là có ý tư lợi?
Nhưng vị luật sư Lawir mà ông Phùng Xán ủy quyền không hề tỏ ra lo lắng, vội vàng đứng dậy, tiện tay rút ra chiếc đồng hồ vàng nhập khẩu từ London và hỏi quan tòa: “Thưa quan tòa, xin hỏi đây là loại đồng hồ gì?". Quan tòa nói một cách rất oai: "Đó là chiếc đồng hồ vàng nổi tiếng của Anh. Nhưng chiếc đồng hồ đó thì chẳng liên quan gì đến vụ án này cả!”
“Có liên quan” La Cẩm Văn giơ cao chiếc đồng hồ vàng, tiếp tục hướng về những người tham dự phiên tòa nói: "Chiếc đồng hồ này là đồng hồ vàng, quan tòa đã có kết luận, không ai có ý kiến gì sao. Nhưng tôi muốn hỏi, chiếc đồng hồ vàng này ngoài vàng ra còn có thành phần nào khác không? Ngoài mặt đồng hồ được mạ một lớp vàng với một lượng vàng nhỏ ra thì những bộ phận bên trong cũng được làm từ vàng sao?".
Willi và quan tòa lúc này mới phát giác ra rằng trong đó có “mai phục", cái cớ của mình đã trở thành chứng cứ tốt nhất của đối phương. Song đã quá muộn, Lawir tiếp tục nói: "Nếu các bộ phận trong chiếc đồng hồ vàng không nhất thiết phải bằng vàng thì các phần phía trong chiếc va li da cũng không bắt buộc phải toàn bằng da. Vậy thì trong vụ án va li da thật hay giả này nguyên đơn là kẻ cố ý lừa gạt, gây sự một cách vô lý!".
Dưới những con mắt dõi theo, Willi bị đuối lý cứng lưỡi. Quan tòa đành xử ông ta tội vu khống và kết thúc vụ án sau khi phạt ông ta 5000 đô la Hồng Kông.
Kế "thỉnh quân nhập ung" quả thực rất kỳ diệu. Nếu Lawir không dùng kế này mà trực tiếp bác bỏ sự hoang đường trong cách lập luận của quan tòa và Willi thì quan tòa có thể dựa vào địa vị cao của mình, lấy cái thế đó để ép người khác thì trong thế biện luận bất bình đẳng như vậy khó có cơ hội thắng. Mặt khác sẽ làm cho cuộc tranh cãi rơi vào mớ bòng bong, Lawir đã dựa vào cách suy nghĩ của đối thủ để bác bỏ quan điểm của đối thủ, cũng giống như việc dùng súng của đối thủ để đối thủ tự mình nhằm bắn vào ngực mình một phát, làm cho những lời lẽ sai trái của đối thủ ngay lập tức rơi vào đường chết mà không thể chạy đi đâu được, làm cho người khác có cảm giác rất vui sướng, hể hả khi được nghe chuyện cười.
 
Chương 45
Mượn áo gữi thư


Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng đế nên những người họ hàng mà đứng đầu là Võ Thừa Tự cũng được nắm quyền lực trong tay. Trong triều đình bọn họ nói một là một, nói hai là hai, ai thuận theo thì sống mà ai nghịch thì chết là điều chắc chắn. Địch Nhân Kiệt, người vừa được bổ nhiệm chức Tể tướng vì không chịu ở dưới trướng của Võ Thừa Tự, kiên cường chính trực, không chịu nịnh bợ. Nhà họ Võ hận ông ta đến tận xương tủy, luôn muốn tìm cách trừ bỏ cái gai đó. Chẳng bao lâu sau họ đã dựa vào tội "làm phản" để tống Địch Nhân Kiệt vào nhà lao.
Địch Nhân Kiệt hiểu rằng, Võ Tắc Thiên vì muốn củng cố, mở rộng cơ sở để thống trị nên càng chú trọng việc lung lạc, lôi kéo những nhân tài thân tín, nên mới mở rộng, cải tiến chế độ khoa cử, phá cách dùng các địa chủ dòng dõi thấp và một số quan nhỏ có tài cán để làm giảm số lượng quý tộc họ Đường vốn bất mãn với việc nữ hoàng đế lên nắm quyền. Một kẻ vốn xuất thân từ tầng lớp thấp bé như mình chỉ qua con đường khoa cử mà được thăng đến chức Tể tướng cũng đủ để thấy rằng Võ Tắc Thiên đã rất tín nhiệm. Do vậy nếu nghĩ ra cách để dâng biểu lên Võ Tắc Thiên nói rõ một cách tường tận, tỉ mỉ nội tâm của mình, thì việc ra khỏi chốn lao tù này không phải là đã hết hy vọng. Vì thế, ông bí mật dùng máu của mình viết một tờ biểu ở trong nhà lao.
Sự việc đúng như Địch Nhân Kiệt nghĩ. Vì Võ Tắc Thiên là nữ mà lại xưng đế nên số quan lại triều thần tỏ ý bất mãn muốn chống đối quả là đếm không xuể, phòng cũng không hết. Do đó đối với những kẻ hiềm nghi là có ý "làm phản" thì Võ Tắc Thiên cho giết ngay chứ tuyệt không nể nang gì. Trong số các vị vua đời Đường, người sát hại nhiều đại thần nhất phải kể đến Võ Tắc Thiên. Vì muốn sát hại những người trái ý mình, Võ Tắc Thiên không thể không giao quyền tự chủ tho cháu mình là Võ Thừa Tự hay những kẻ chuyên mật báo, thẩm án như Lai Tuấn Thần. Nhưng đối với những người mà do Võ Tắc Thiên tự cất nhắc lên địa vị cao như Địch Nhân Kiệt thì trong sâu kín đáy lòng cũng không nỡ tùy tiện xuống tay. Lý do mà Võ Tắc Thiên giao Địch Nhân Kiệt cho Võ Thừa Tự xử lý chẳng qua bà là hoàng đế, không thể tự mình nghe phạm nhân biện hộ và cũng chính vì vậy mà chỉ có thể nhắc nhở thuộc hạ thường xuyên chú ý xử lý vụ án này.
Vấn đề là ở chỗ Võ Tắc Thiên không muốn giết Địch Nhân Kiệt nhưng Võ Thừa Tự và vị quan được chỉ định xét xử vụ án này lại hận tới mức chỉ muốn giết ngay ông ta. Dưới sự quản chế nghiêm ngặt như vậy thì làm cách nào để Địch Nhân Kiệt có thể dâng biểu lên Võ Tắc Thiên đây?
Cuối cùng thì Địch Nhân Kiệt cũng nghĩ ra cách.
Ông lấy tờ biểu viết bằng máu của mình nhét một cách khéo léo vào trong áo bông, sau đó nói với viên cai tù: "Thời tiết bây giờ nóng lên rồi, tôi có một chiếc áo bông nhưng bây giờ không mặc được nữa rồi, phiền ông sai người chuyển hộ cho người nhà tôi để họ giặt sạch cho tôi rồi lại mang đến".
Viên cai ngục không biết trò gì trong chiếc áo bông nên đã sai lính đưa đến nhà Địch Nhân Kiệt. Con trai Địch Nhân Kiệt là Địch Quang Viễn khi xem chiếc áo bông đã nhìn thấy bức huyết thư vội vàng tự mình dâng lên Võ Tắc Thiên.
Võ Tắc Thiên vì thế đã có lý do để can dự vào vụ án này, không lâu sau đó đã cho người đưa Địch Nhân Kiệt đến để tự mình thẩm vấn. Địch Nhân Kiệt nhân cơ hội đó đã kể lại những hình phạt dã man mà Lai Tuấn Thần dùng để bức cung và cuối cùng ông được phóng thích, phục hồi chức quan.
Địch Nhân Kiệt tìm ra đường sống trong cái chết nhờ biết dựa vào kế "Tá y truyền văn". Trong kinh doanh cũng có những người vì biết dùng kế "Tá y truyền văn" mà phát tài.
Ở Mỹ có rất nhiều cửa hàng giặt quần áo, để phục vụ khách hàng tốt hơn, làm cho quần áo như mới, các cửa tiệm giặt quần áo đều ủi gấp lại trong đó còn cho thêm một miếng bìa cứng để giữ độ cứng và tạo dáng đẹp cho những bộ quần áo đã giặt xong. Khi khách đến lấy về thì trông giống như vừa mới mua từ cửa hàng về.
Paker vốn là công nhân của một công ty may mặc. Công việc của anh ta là ủi những chiếc áo đã may xong, sau đó gấp chúng ra ngoài những tấm bìa cứng dài 28cm, rộng 20cm và cho vào trong những chiếc túi ni lông trong suốt. Nhưng lương của loại công việc này không thể làm cho người ta vừa lòng. Anh ta muốn phát tài nhưng không tìm ra cách nào. Một ngày kia, anh ta cũng tìm ra một ý hay từ công đoạn đóng bao bì những chiếc áo sơ mi của mình.
Anh ta biết giá mua những miếng bìa cho vào áo sơ mi mà các công ty may mặc và cửa hàng giặt quần áo thường mua là 1 đô la Mỹ được 200 miếng. Thế là anh ta đã ký hợp đồng bán những miếng bìa đó cho các công ty may mặc với giá một đô la được 300 miếng. Có người nói anh ta bị điên vì với cái giá đó thì chỉ đủ vốn. Anh ta đang toan tính gì? Song, không lâu sau Paker đã phát tài và mọi người đã phải thán phục sự cao minh trong kế sách của anh ta.
Hóa ra anh ta nghĩ rằng nếu in thêm tranh chữ trên miếng bìa đó thì cũng không ảnh hưởng gì đến công năng mà lại có thể truyền bá quảng cáo một cách rộng rãi. Và thế là anh ta đã in thêm quảng cáo lên trên mỗi tấm bìa, mỗi chiếc áo sơ mi sẽ đem quảng cáo đến từng nhà. Chi phí quảng cáo lớn như vậy thì làm gì mà anh ta chả giàu?
Áo sơ mi thì mọi người đều mặc, quảng cáo trên tấm bìa của áo sơ mi thì chắc chắn là có hiệu quả. Nhưng vạn sự khởi đầu nan, rất nhiều nhà máy đã trả một số tiền quảng cáo lớn cho anh ta vì cách làm mới lạ đó nhưng sau một thời gian thì hiệu quả không mấy rõ rệt. Nguyên nhân là do rất nhiều người sau khi mua áo thậm chí cũng chẳng nhìn lấy một lần đã vứt đi như vứt rác vậy. Vì vậy anh ta cũng không dễ dàng lôi kéo được khách hàng làm quảng cáo.
Để làm cho những tấm bìa quảng cáo đó hấp dẫn lôi kéo được sự thu hút của những khách hàng mua áo mà đặc biệt là những bà chủ gia đình để họ lưu giữ những tấm bìa lâu hơn, anh ta đã chừa ra một khoảng trống trên mặt sau của tấm bìa và in lên đó những tri thức về y tế, thường thức cuộc sống... Chiêu này quả nhiên đã tái hiện sức sống của kế "Tá y truyền văn", rất nhiều nhà đã không còn tùy tiện ném những tấm bìa đó đi nữa mà cất giữ chúng, coi chúng như những cuốn sổ tay thường thức gia đình, thường xuyên mở ra xem.
Có lần, có người mới mặc áo một lần đã phải đưa đến tiệm giặt. Thực ra chiếc áo đó chưa đến lúc phải giặt, chỉ là vì vợ ông ta muốn sưu tập thêm những tấm bìa có in cách dạy nấu món ăn. Mà nội dung trên những tấm bìa đó thường xuyên thay đổi và nếu để lỡ thì sẽ không sưu tập đủ một bộ.
Từ đó, nghề quảng cáo trên bìa áo sơ mi đã mở ra cục diện mới, Paker từ 100 đô la lúc mới khởi nghiệp chỉ trong vòng chưa đến hai năm đã trở thành một triệu phú.
Mưu kế một khi được nói ra thì lại thấy bình thường chứ không có gì là độc đáo cả. Kế "Tá y truyền văn" mà Địch Nhân Kiệt dùng để thoát chết, Paker nhanh chóng phát tài cũng vậy. Nhưng sau khi chúng ta xem xong hai ví dụ về việc dùng kế đó thì một khi chúng ta gặp phải nguy hiểm hoặc không tìm ra cách nào để phát triển thì chúng ta có thể dùng cách “tá y truyền văn", tận dụng những cái bình thường chẳng có gì kỳ lạ, những bộ quần áo hoặc những đồ vật khác mà lúc nào cũng mang theo người để biến những cái tầm thường thành thần kỳ, chuyển nguy thành an không?
 
Chương 46
Gán ghép khiên cưỡng


Gán ép một cách khiên cưỡng tức là đem những sự việc hầu như hoặc hoàn toàn chẳng liên quan gì với nhau để bắt chúng phải liên quan thậm chí phụ thuộc nhau. Gán ép khiên cưỡng sẽ làm rối loạn mạch suy nghĩ, làm lẫn lộn quan điểm, xuyên tạc ý đồ và trong thực tế cuộc sống là hành vi phản lôgíc cần cố gắng tránh và phản đối nó. Nhưng trong một số trường hợp nhất định, việc cố ý gán ép một cách khiên cưỡng lại đem đến hiệu quả tốt trong dự liệu và là một thủ đoạn mưu trí hiếm có.
Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, dòng họ Võ mà đại diện là Võ Thừa Tự đã khống chế việc triều chính. Sau nhiều lần Võ Thừa Tự thỉnh cầu và làm mọi cách, Võ Tắc Thiên cũng đã phế ngôi vị thái tử theo ý của con trai mình là Lý Đán, để lập cháu làm thái tử theo ý của Võ Thừa Tự. Các quan đại thần thường xuyên khuyên gián mà chẳng có hiệu quả, Địch Nhân Kiệt cũng đã nhiều lần van nài mà không lay chuyển được ý của Võ Tắc Thiên. Sau đó Võ Tam Tư cũng có ý muốn làm thái tử, ngôi vị thái tử của họ Lý càng trở nên nguy ngập.
Một lần, Võ Tắc Thiên cũng nảy ra ý lập Võ Tam Tư nên mượn rượu để hỏi các quần thần có thể làm như thế không. Các đại thần nhiều lần khuyên can mà chẳng có tác dụng lại sợ vì lời nói mà mang họa vào thân nên chẳng ai dám lên tiếng. Địch Nhân Kiệt lại phải liều nói: "Trước đây hoàng đế Thái Tông đã phải dãi gió dầm mưa để thống trị thiên hạ, vất vả để truyền ngôi cho con cháu, tiên đế (tức Đường Cao Tông, phu quân của Võ Tắc Thiên ) đã gửi gắm hai con (chỉ Lý Hiển người đã bị phế ngôi thái tử xuống làm Lô Lăng Vương và thái tử Lý Đán) cho bệ hạ, nay bệ hạ lại muốn chuyển một vị trí quan trọng như vậy cho một tông tộc ngoài họ Lý thì sợ rằng vong hồn của tổ tiên sẽ không vui! Mà bệ hạ lập con trai làm thái tử thì trăm năm sau vẫn được lập miếu thờ, còn nếu lập cháu làm thái tử thì hạ thần xưa nay chưa thấy ai thờ cô cả. Giữa quan hệ mẹ con với quan hệ cô cháu cái nào thân thiết hơn thì thực tế đã chả rõ ràng quá sao?".
Võ Tắc Thiên nghe xong rất không vừa ý nói với Địch Nhân Kiệt: "Đây là chuyện gia đình trẫm, khanh hà tất cứ can dự vào?,, Địch Nhân Kiệt lại tâu: "Thiên tử lấy bốn bể làm nhà thì có chuyện gì mà không phải là chuyện gia đình bệ hạ đây. Hơn nữa hạ thần lại là quan Tể tướng thì sao có thể không khuyên can thẳng thắn?..."
Địch Nhân Kiệt đã cố gắng hết sức, trích dẫn kinh điển nhưng xem ra Võ Tắc Thiên tuy không thể phản bác mà thực ra vẫn chưa từ bỏ hoàn toàn ý định của mình. Địch Nhân Kiệt cũng biết rằng không thể thắng bằng lối đánh bất ngờ và ngôi vị thái tử của nhà Lý cũng khó mà giữ được. Nhưng dùng cách nào đây? Ông nghĩ đi nghĩ lại cuối cùng cũng nghĩ ra một cách.
Một đêm nọ, Võ Tắc Thiên mơ một giấc mơ rất lạ. Bà mơ thấy ngoài cửa sổ bỗng nhiên có một con vẹt rất to đang vỗ cánh phành phạch bay vào. Tư thế bay của nó rất đẹp, bà ta đang nhìn một cách say sưa thì bỗng nhiên không hiểu sao hai cánh của con vẹt bị gãy và rơi xuống. Bà ta sợ quá giật mình kêu lên và tỉnh giấc. Người xưa thường hay mê tín, cho rằng mỗi giấc mơ đều có một điềm báo nào đó, nhưng đối với giấc mơ kỳ lạ này, Võ Tắc Thiên nghĩ mãi cũng không ra là nó hàm nghĩa điều gì. Thế là ngay sáng hôm sau bèn hỏi Địch Nhân Kiệt: "Giấc mơ này điềm báo gì?".
Địch Nhân Kiệt đang nghĩ mãi không ra cách nào để bảo vệ cho hai người con của Võ Tắc Thiên và Đường Cao Tông mà không bị Võ Thừa làm hại. Nay lại nghe thấy giấc mơ vừa rồi của Võ Tắc Thiên, bỗng nhiên linh cảm rằng: Có thể dùng cách gán ép khiên cưỡng, mượn giấc mơ để trình bày cái lợi và hại.
Địch Nhân Kiệt nói với Võ Tắc Thiên một cách nghiêm túc rằng. "Ngu ý của giấc mơ này rất rõ ràng, e rằng ông trời có ý sắp đặt như vậy để khuyên bệ hạ. Bệ hạ họ Võ, anh vũ tức là chỉ bệ hạ. Do đó hai cánh của anh vũ chính là hai người con của bệ hạ. Hai cánh tại sao lại tự gãy? Chắc chắn bệ hạ vô tình hay cố ý hại chính hai con của mình. Ông trời muốn bệ hạ phải bảo toàn con mình, như vậy thì hai cánh mới có thể phục hồi lại được, anh vũ mới có thể mãi mãi bay lượn trên trời xanh!".
Cách giải thích của Địch Nhân Kiệt đương nhiên chỉ là nói bừa chứ không có căn cứ gì, nhưng Võ Tắc Thiên lại thấy rất có lý. Vì vậy nghe Địch Nhân Kiệt nói như thế, Võ Tắc Thiên bỗng động "lòng trắc ẩn" đối với con trai mình và cũng sợ bị trời trừng phạt, không dám tùy tiện nghĩ đến chuyện phế con để lập cháu nữa.
Năm 1977, hiệp hội giáo dục gia đình Đài Loan thiết lập một đường dây điện thoại riêng đầu tiên ở Cao Hùng, miền Nam mang tên "Bảo vệ bạn", chuyên cung cấp cho các bạn gái các dịch vụ phong phú, đa dạng như phòng chống các tội phạm về an toàn, bảo vệ pháp luật, thường thức y học, tư vấn tâm lý, tư vấn tìm việc làm. Hiệu quả đem lại rất lớn và đã nhận được sự hoan nghênh của mọi người. Người tổ chức đã phải tuyên bố cũng sẽ thiết lập một đường dây riêng "bảo vệ bạn" ở thành phố Đài Bắc. Thông qua việc tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng như vô tuyến, báo chí... Hai đường dây này rất nổi tiếng và trở thành một nội dung mà các quý bà, quý cô hàng ngày đều phải xem, phải nghe.
Đúng lúc đó, trên báo chí bỗng xuất hiện một con "ngựa đen" vốn chẳng liên quan gì. Kẻ đầu tiên đã dùng kế "Gán ép khiên cưỡng", mượn sự nổi tiếng và tâm lý trông chờ của người dân Đài Bắc với đường dây "Bảo vệ bạn" để tuyên truyền đẩy mạnh sản phẩm của mình.
Ngày đầu tiên họ cho đăng một quảng cáo kiểu lửng lơ, chưa có câu trả lời, trên một khoảng trống, họ viết một dòng chữ lớn: "Ai là người bảo vệ bạn?" rất nhiều độc giả chờ đợi đáp án ở lần quảng cáo sau.
Hôm sau, quảng cáo lại xuất hiện, lần này là một bài quảng cáo lớn chiếm trọn một trang báo. Trên đó viết: "Thuốc cảm Bách Phú Ninh luôn bảo vệ bạn". Những dòng chữ lớn và những hình ảnh hấp dẫn đó đương nhiên là đã đạt được hiệu quả rất lớn.
Quan trọng là ở chỗ lúc đó mọi người đang rất trông đợi việc khai thông đường dây "Bảo vệ bạn". Bình thường khi nói chuyện mọi người cũng đều nói đến "Bảo vệ bạn". Trong tiếng Hán, thuốc "Bách Phục Ninh" vốn là âm đọc gần giống với “Bảo vệ bạn" lại có cách quảng cáo ngầm gài kế "khiên cưỡng phụ hội" nên mọi người tự dưng tham gia vào trò chơi đầy hứng thú "khiên cưỡng phụ hội" đó. Mỗi khi nói đến đường dây "bảo vệ bạn" đều không tránh được phải nói đến thuốc “Bách Phục Ninh", "bảo vệ bạn". Qua việc "gán ghép khiên cưỡng" đó sự nổi tiếng của "Bách Phục Ninh" cũng đồng hành với đường dây "bảo vệ bạn". Sau này, mỗi ngày khi mà truyền hình phát đường dây "bảo vệ bạn" thì mọi người chỉ nghe hoặc nhớ tới đường dây đó thì tự nhiên cũng nghĩ đến tác dụng "bảo vệ bạn" của "Bách Phục Ninh", tăng thêm ấn tượng đối với loại thuốc này. Và như vậy là đồng nghĩa với việc mỗi ngày đường dây "bảo vệ bạn" đều làm quảng cáo miễn phí cho loại thuốc đó. Lượng tiêu thụ của "Bách Phục Ninh" vì thế mà không ngừng tăng lên.
Tác dụng "Bảo vệ bạn" của "Bách Phục Ninh" từ đó đã hình thành nên sự phối hợp chặt chẽ với dịch vụ đường dây "bảo vệ bạn" và hiệu ứng tuyệt diệu dìu dắt nhau. Cũng chẳng ai có ý chê trách trò "gán ghép khiên cưỡng” này mà ngược lại đều nghĩ đã đâm lao phải theo lao và giữ nguyên cách "gán ghép khiên cưỡng". "Bảo vệ bạn" hàng ngày vẫn quảng cáo miễn phí cho "Bách Phục Ninh" mà chẳng một lời oán trách. Và Bách Phục Ninh cũng luôn tận dụng những quảng cáo thích hợp để tuyên truyền số điện thoại của đường dây "bảo vệ bạn". Họ còn quảng cáo trên báo chí, vô tuyến, sân ga, trên các biển chỉ đường rằng: "Bảo vệ bạn" giới thiệu số điện thoại của đường dây " Bảo vệ bạn". Sau đó ghi số điện thoại đó ra. Đương nhiên không quên nói hoặc viết ở phía dưới hàng chữ nhỏ “Thuốc cảm Bách Phục Ninh luôn bảo vệ bạn".
Sáng kiến quảng cáo của "Bách Phục Ninh" quả là rất tuyệt diệu. Song khi bạn biết Địch Nhân Kiệt đã từng dùng kế "gán ghép khiên cưỡng" như vậy thì bạn đã lĩnh ngộ ra rằng trong việc kinh doanh của mình nên dùng diệu kế đó hay không?
 
Chương 47
Lấy cứng đối cứng, kết quả không ngờ


Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, bà ta đã dùng những biện pháp cứng rắn, nói một là một, hai là hai để bồi dưỡng những người thân tín, bài xích những kẻ trái ý mình. Trong số các hoàng đế đời Đường, Võ Tắc Thiên là người đã sát hại nhiều quan đại thần nhất, ngay cả với con đẻ của mình cũng không nương tay. Nhưng đối với họ hàng thân tín thì bà luôn luôn tạo điều kiện trọng dụng, cất nhắc. Đặc biệt là với hai anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông thì không chỉ rất tín nhiệm, thiên vị, muốn làm gì thì làm mà ngay cả khi phạm tội đáng chém đầu, Võ Tắc Thiên cũng chẳng nể nang gì thả họ ra từ công đường, từ nhà lao để ngày đêm ở bên mình.
Đối mặt với chính sách cứng rắn của Võ Tắc Thiên, họ tộc nhà Lý tỏ ra rất nhu nhược, không hề có ý chí và quyết tâm phản kháng. Con trai Võ Tắc Thiên là Lý Đán, Lý Hiển lại càng nhu nhược, dù đã lên ngôi hoàng đế mà vẫn cam chịu để Võ Tắc Thiên nắm hoàng quyền. Võ Tắc Thiên muốn phế họ, họ cũng chẳng dám biện bạch lấy một lời. Trong số các đại thần hết lòng vì nhà Lý Đường cũng có những người dám nói dám làm nhưng một thân một mình, không ai là không phải chết vì những mánh khóe cứng rắn của Võ Tắc Thiên và sự phản đối yếu ớt của các đại thần. Và cứ thế, một người chỉ muốn thử mùi vị của ngôi nữ hoàng như Võ Tắc Thiên, biết lấy cứng để trị mềm đã ngồi lên ngai vàng một cách ổn định suốt 15 năm. Vả lại cái quyền muốn làm gì thì làm, thì chủ yếu thuộc về các vị hoàng đế là nam.
Năm Tự Thánh Võ Tắc Thiên thứ 22 (năm 705 sau Công nguyên) phe cứng rắn do Tể tướng Trương Giản Chi đứng đầu đã quyết định lấy mạnh đối mạnh, dùng các thủ đoạn cứng rắn buộc Võ Tắc Thiên phải nhường ngôi cho thái tử Lý Hiển khôi phục lại thiên hạ của nhà Lý.
Trương Giản Chi là người mưu trí, sâu sắc, quyết đoán, dám nghĩ dám làm. Tuổi tuy đã ngoài 80 nhưng ông không hề muốn từ bỏ ý định khôi phục nhà Đường. Từ khi còn làm quan thứ sử ở Hà Châu, ông đã cùng với quan thường sử Dương Nguyên Diễm ở Kinh Châu hứa với nhau khi bơi thuyền du ngoạn rằng: "Nếu một ngày nào đó chúng ta có quyền hành thì sẽ cùng giúp nhau khôi phục nhà Lý". Không lâu sau khi Trương Giản Chi được vào triều làm Tể tướng đã lập tức tiến cử Dương Nguyên Diễm làm tả vũ lâm tướng quân. Đồng thời ông cũng ngầm câu kết với một số bộ phận quan trọng, chờ thời cơ để hành động.
Lúc đó Võ Tắc Thiên đang bệnh nặng, anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông sợ rằng nếu Võ Tắc Thiên tạ thế thì họ cũng không còn đường sống nên cũng đã âm thầm chuẩn bị. Trương Giản Chi cho rằng thời cơ đã đến, không thể trì hoãn thêm nên cố tình gài những người cùng hội cùng thuyền với mình vào vũ lâm quân làm tướng quân để trực tiếp khống chế cấm quân bảo vệ hoàng cung.
Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, ông dẫn đầu hơn 500 quân tả hữu vũ lâm xông thẳng vào cửa Huyền Vũ, đồng thời sai người áp tải thái tử Lý Hiển lúc đó đang run rẩy để cùng đạp cửa xông vào nội cung. Anh em họ Trương nghe tiếng ồn ào vội vàng chạy ra ngoài phòng Võ Tắc Thiên để thám thính tình hình thì đúng lúc gặp phải Trương Giản Chi. Trương Giản Chi không do dự hạ lệnh chém đầu tại chỗ. Sau đó xông vào điện Trường Sinh nơi ngủ của Võ Tắc Thiên. Thị vệ ở trước điện vội xông ra ngăn cản nhưng Trương Giản Chi một mặt thét "lui quân" một mặt dẫn quân vào gõ cửa phòng ngủ của Võ Tắc Thiên.
Võ Tắc Thiên nghe thấy tiếng lộn xộn bên ngoài đoán ngay là có biến bèn cố gắng ngồi dậy, nghiêm giọng hỏi: "Kẻ nào dám to gan làm loạn?” . Trương Giản Chi lúc này đưa thái tử có quân lính vây xung quanh đến trước giường Võ Tắc Thiên tâu rằng "Anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông mưu phản, thần được lệnh của thái tử trừng phạt hai kẻ phản nghịch, nhưng sợ lộ thiên cơ nên không dám báo trước..."
Võ Tắc Thiên vẫn giữ nguyên thái độ cứng rắn, trừng mắt nhìn thái tử "Con dám làm thế sao? Nhưng dù sao tên đó cũng chém rồi, lập tức trở về Đông cung ngay!".
Trương Giản Chi cũng vẫn cương quyết nói: "Thái tứ không thể lại trở về Đông cung, trước đây Thiên hoàng Đường Cao Tông đã gửi gắm con trai cho bệ hạ, nay tuổi đã lớn mà làm thái tử cũng đã lâu, hạ thần không quên được ơn sâu của Thái Tông, Thiên hoàng nên đã tâu với thái tử trừ gian, mong bệ hạ lập tức truyền ngôi cho thái tử, trên hợp ý trời, dưới đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân".
Võ Tắc Thiên không đời nào để cho uy phong của một nữ hoàng đế bị dập tắt như vậy nên đương nhiên không chịu nhường ngôi ngay, nhưng không ngờ mình đã cứng rắn như vậy mà đối thủ lại còn cứng rắn hơn, lại có ý không thành công cũng thành nhân. Hơn nữa lại thấy lòng người náo loạn, gươm đao loang loáng, Võ Tắc Thiên đành phải buông xuôi, lẩm bẩm nói: "Được rồi, được rồi!", sau đó lại chui vào phía trong giường.
Hôm sau, Trương Giản Chi đã bắt tay ngay vào việc giết những kẻ trái ý mình, giải quyết gọn gàng để trừ bỏ hậu họa, sau đó để Thái Bình công chúa trực tiếp đi khuyên Võ Tắc Thiên truyền ngôi. Chẳng bao lâu, Đường Trung Tông Lý Hiển được phục ngôi, thực sự nắm hoàng quyền.
Đương nhiên là với những người dám nghĩ dám làm, nói một là một hai là hai, nhất là trong suốt 5 năm đó luôn giữ thái độ cứng rắn để khống chế việc triều chính và lại rất thành thạo như Võ Tắc Thiên, nếu dùng những cách thức mềm yếu để buộc bà ta nhượng bộ thì chỉ có thể làm cho Võ Tắc Thiên càng thêm cứng rắn, càng muốn gì được nấy. Trong cuộc chiến quyền lực tranh giành ngôi vị hoàng đế này, nhóm do Trương Giản Chi đứng đầu đã chọn cách làm quyết đoán, mạnh mẽ, không chịu thỏa hiệp, nhượng bộ, quyết không nương tay, không nể nang nên đã thành công trong việc khôi phục nhà Đường. Có thể nói cách làm đó của Trương Giản Chi là cách làm sáng suốt nhất vào thời điểm đó.
Tháng 7 năm 1984, Trung Quốc đã có cuộc tiếp xúc với phía công ty STAP của Tunizi về việc thành lập nhà máy sản xuất phân hóa học, hai bên đã ra những hạng mục trên cơ sở tận dụng những điều kiện ưu việt của đảo Tần Hoàng. Đến tháng 10, Kuwait cũng tham gia vào việc hợp tác thành lập nhà máy phân hóa học. Trong lần đàm phán đầu tiên giữa ba bên, chủ tịch hội đồng quản trị công ty hóa dầu Kuwait với một thái độ võ đoán cứng rắn vừa mới bắt đầu đã lớn tiếng nói rằng: "Tất cả những việc mà các ông làm trước đây chẳng có tác dụng gì, cần phải làm lại từ đầu” .
Lúc đó, không chỉ phía Trung Quốc mà cả phía bạn Tunizi đều ngớ người ra. Cần phải biết rằng, chỉ riêng việc lập ra báo cáo nghiên cứu có tính khả thi hai bên đã phải cần đến hơn 10 chuyên gia, tốn hơn 200.000 đô la và khoảng thời gian hơn ba tháng mới hoàn thành xong. Việc phủ nhận hoàn toàn để làm lại từ đầu đương nhiên là rất vô lý, là cách làm cứng rắn rõ ràng muốn ỷ thế của mình để buộc người khác phải làm theo. Song không ai dám bác bỏ ý kiến của người đó. Bởi vì danh vọng của ông ta quá cao, ở Kuwait, vị trí của ông ta chỉ đứng sau người đứng đầu ngành dầu khí và lại là chủ tịch của tổ chức công nghiệp phân hóa học.
Bầu không khí nặng nề bao trùm buổi đàm phán. Ai nắm quyền chủ động trong cuộc đàm phán sẽ là người quyết định khi mà bầu không khí nặng nề đó tiêu tan hết. Nhưng nếu nói về cách mà ông chủ tịch hội đồng quản trị tại Kuwait đã tạo ra thì mọi người đều hiểu rằng nếu hai bên còn lại có hành động tỏ ra nhượng bộ thì sẽ càng thúc đẩy cái kế cứng rắn mà ông ta đã sử dụng đi đến thành công và ông ta sẽ khống chế xu hướng của phần đàm phán tiếp theo.
Một vị thị trưởng tham gia đàm phán của phía Trung Quốc trong khi đang cố gắng làm thế nào phá vỡ bầu không khí nặng nề đó đã nghĩ ra cách để giành lại quyền lợi và khí thế mà mình đáng phải có.
Ngài thị trưởng đột nhiên đứng dậy nói: "Để xây dựng nhà máy phân hóa học này, chúng tôi đã bố trí một nhà xưởng có vị trí địa lý rất tốt, gần cảng. Cũng là tôn trọng tình hữu nghị giữa chúng ta, chúng tôi đã từ chối rất nhiều doanh nghiệp liên doanh khi họ muốn giành quyền sử dụng mảnh đất đó. Nếu theo như ý của ngài Đổng sở trưởng đây thì không biết là việc này sẽ còn kéo dài đến bao giờ nên tôi chỉ có thể nhanh chóng để miếng đất này cho người khác. Rất xin lỗi các ngài nhưng bây giờ tôi còn phải đi lo việc khác, xin phép rời khỏi cuộc họp. Chiều nay tôi lại xin được đến để nghe cao kiến”.
Ngài thị trưởng nói xong thì cầm cặp đi ngay. Nửa tiếng sau, một người trợ lý chạy đến tìm thị trưởng, vui mừng nói: “Quả là kỳ diệu! Ngài vừa ném quả pháo ra thì tình hình đã thay đổi ngay, vị Đổng sở trưởng đó bảo rằng phải nhanh chóng mời thị trưởng quay lại, chúng tôi cần nhanh chóng trưng dụng mảnh đất ở đảo Thái Hoàng đó".
Thông qua hai ví dụ cổ kim, có thể thấy đối với những đối thủ cứng rắn, chẳng có gì trở ngại mà không dùng cách cứng rắn, ngược lại còn thu được kết quả kỳ diệu.
 
Chương 48
Bề ngoài tôn trọng, bên trong đoạt quyền


Các quan đại thần mà đứng đầu là: Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Kinh Huy, Viên Thứ Kỷ, Ngụy Huyền Vĩ đã dùng thủ đoạn cứng rắn buộc Võ Tắc Thiên nhường ngôi để Đường Trung Tông Lý Hiển lại có thể nắm hoàng quyền. Nhưng thế lực của cháu Võ Tắc Thiên là Võ Tam Tư trong triều không những không hề suy yếu mà ngược lại càng lớn mạnh hơn. Trước tiên là Đường Trung Tông gả ái nữ của mình Lý Quả Nhi cho con trai Võ Tam Tư là Võ Sùng Huấn, tiếp đó từ Vi hoàng hậu đến ái phi của Đường Trung Tông, thượng quan Uyển Nhi chuyên viết chiếu thư đều cấu kết với Võ Tam Tư. Những người họ hàng khác của Võ Tắc Thiên cũng lần lượt nhập cung khôi phục lại uy thế trước kia. Trương Giản Chi lúc này mới hối hận là lúc đó đã không ra tay kiên quyết với nhà họ Võ, diệt cỏ phải diệt tận gốc. Thế là mất bò mới lo làm chuồng, Trương Giản Chi không ngừng dâng bản tấu thỉnh cầu Đường Trung Tông tước bỏ chức quan của những người nhà họ Võ đặc biệt là Võ Tam Tư. Song Đường Trung Tông đã vô cùng tín nhiệm Võ Tam Tư lại được sự bao che của Vi hoàng hậu, thượng quan Uyển Nhi thì địa vị của Võ Tam Tư chẳng thể lại bị lung lay lần nữa. Võ Tam Tư lúc đó đương nhiên rất vui vì đã khôi phục lại được địa vị cũ vốn có trước đây.
Một hôm, tham quân Tuyên Châu là Trịnh âm vì ăn hối lội làm sai pháp luật nên bị truy nã. Trịnh âm trốn vào nhà Võ Tam Tư ở Đông Đô. Trịnh âm đã từng làm quan trong triều, có mối giao tình với Võ Tam Tư. Sau một hồi hàn huyên với nhau, bỗng dưng Trịnh âm khóc to lên, khóc một hồi rồi lại cười mãi không thôi làm Võ Tam Tư kinh ngạc nghi ngờ, vội vàng hỏi rõ nguyên nhân.
Trịnh âm trả lời rằng: "Lúc vừa gặp đại vương tôi không thể không khóc vì sợ rằng đại vương sắp bị giết hại, sau đó lại không thể không cười vì người đã may mắn gặp được tôi thì có thể chuyển họa thành phúc rồi".
Võ Tam Tư lại hỏi: "Họa ở đâu? Phúc từ đâu đến?".
Trịnh âm nói: "Đại vương tuy đã giành được sự tín nhiệm của Đường Trung Tông, nhưng bọn Trương Giản Chi đều là những kẻ quyền thế, chỉ trong một ngày buộc Võ Tắc Thiên nhường ngôi dễ như trở bàn tay. Đại vương hãy nhìn lại thế lực của mình, nếu so với Võ Tắc Thiên ngày đó thì vẫn còn ít hơn rất nhiều lần. Bọn đó bây giờ đang ngày đêm nghiến răng nghiến lợi, hận là không thể ăn tươi nuốt sống đại vương ngay, tru đi tam tộc. Nếu người không trừ bỏ bọn chúng đi thì nguy cơ sẽ rất lớn. Đại nạn đã đến gần như vậy mà người chẳng lo lắng gì thì bảo sao mà tôi chẳng đau lòng, không khóc cho được cơ chứ?”.
Võ Tam Tư nghe nói vậy, dường như toàn thân run bắn lên vội vàng dẫn ông ta lên lầu vào phòng kín để hỏi cách chuyển họa thành phúc.
Trịnh âm cười rằng: "Chuyện này chỉ cần đại vương nhận thức được là có thể dễ dàng giải quyết. Bọn Trương Giản Chi là những đại thần có công lớn giúp Trung Tông phục vị. Đường Trung Tông đương nhiên rất kính trọng họ, không thể chỉ vì một câu nói của đại vương mà không nể nang gì họ nữa hay giáng chức để đoạt quyền. Đại vương sẽ tùy tình hình mà ứng nhân, khuyên Trung Tống phải kính trọng họ hơn, phong cho bọn họ được làm vương. Như thế thì bề ngoài là phong vương thụ tôn nhưng thực ra lại cướp quyền binh của họ. Lúc bọn họ mất đi đại quyền cũng là lúc đại vương có thêm phần đại quyền đó. Đến lúc đó thì bọn họ há chẳng phải là miếng thịt trên thớt của đại vương sao?".
Võ Tam Tư nghe xong liền khen "diệu kế". Một mặt thì rửa sạch tội hối lộ cho Trịnh âm, đồng thời tiến cử làm trung thư xả nhân. Mặt khác nhanh chóng liên lạc với Vi hoàng hậu, thượng quan Uyển Nhi để bọn họ cùng khuyên Đường Trung Tông: Nhóm người Trương Giản Chi nếu cứ sủng ái họ mãi chỉ vì họ có công lao thì sẽ bất lợi với nước nhà. Đường Trung Tông vì còn vướng chuyện tình cảm, khó có thể ngay lập tức vuốt mặt không nể mũi như vậy bèn bàn bạc với Võ Tam Tư. Võ Tam Tư vội vàng truyền đạt lại kế "Minh tôn trọng, ám đoạt quyền" của Trịnh âm. Đường Trung Tông nghe xong kế đó cảm thấy bề ngoài thì có vẻ như tôn sùng nhóm Trương Giản Chi hơn, tránh được miệng lưỡi thế gian bảo rằng ăn cháo đá bát mà trên thực tế thì lại ngăn ngừa được cái họa công thần chuyên quyền nên đồng ý ngay.
Không lâu sau, Trương Giản Chi bị phong làm Hán Dương Vương, Hoàn Ngạn Phạm làm Phù Dương Vương, Kính Huy làm Bình Dương Vương, Viên Thứ Kỷ làm Nam Dương Vương, Ngụy Huyền Vĩ làm Bác Lăng Vương. Để "miễn trừ" những vất vả của họ nên họ không phải lo phụ trách bất kỳ chuyện chính sự nào, hàng tháng cứ vào ngày mùng một và mười lăm vào triều hai lần để tấu là được rồi.
Không lâu sau đó trong số ngũ vương người thì bị tội chém, người thì chết oan uổng, chẳng ai thoát được khỏi tay Võ Tam Tư.
“Minh phong vương, ám đoạt quyền" thực ra là cách dùng dao mềm giết người. Dùng dao cứng giết một cách công khai thường khó có hiệu quả. Nhưng dùng dao mềm để bề ngoài một kiểu, trong lòng một kiểu thì lại khác, vừa có thể làm cho đối thủ và "dư luận" ngỡ rằng mình rất trọng tình cảm, trọng đại nghĩa lại vừa làm đối thủ hoàn toàn mất cảnh giác, vì thế mà có thể hành động một cách dễ dàng. Trong tranh giành quyền lực chính trị và trong đàm phán kinh doanh cũng thế.
Chuyên gia quản lý xung đột nổi tiếng của Mỹ, giáo sư trường đại học Masachuset, ông Phuder Sute đã từng đại diện cho một công ty tiến hành đàm phán với chủ tịch công đoàn. Trong cuộc đàm phán, giáo sư được biết rằng giám đốc công ty đã có những lời không nên nói trong lần đàm phán đầu tiên với chủ tịch công đoàn và các phóng viên cũng đã đưa tin rộng rãi những lời nói đó. Vì vậy ông chủ tịch công đoàn rất phẫn nộ, một mực yêu cầu giám đốc công ty phải có lời xin lỗi, nếu không...
Tình hình rất nghiêm trọng. Tuy rằng trong đàm phán việc lỡ lời là khó tránh khỏi, nhưng khi đã dẫn đến mâu thuẫn về lòng tự tôn thì rất có khả năng cuộc đàm phán sẽ đi đến kết quả tồi tệ Nếu như lúc này mà lại dĩ cường đối cường, vì giám đốc đã đuối lý trước mà phía công đoàn lại lấy cớ đó để đối lại thì rõ ràng là hạ sách. Ông cũng biết rằng để tránh rơi vào tình trạng bế tắc thì giám đốc phải chuẩn bị để công khai xin lỗi ngay. Nhưng ông cho rằng xin lỗi một cách bị động dưới sự yêu cầu tức giận của đối phương thì khác nào chưa đánh mà đã mất hết nhuệ khí, vì thế đó chỉ là trung sách để tránh làm cho cuộc đàm phán chấm dứt nửa chừng. Ông nghĩ ra việc áp dụng thượng sách "Minh tôn trọng, ám đoạt quyền”.
Ngay khi tiếp xúc với chủ tịch công đoàn ông liền nói "Tôi rất hiểu tâm trạng của ngài, tôi nhất định sẽ cố gắng giúp ngài. Tuy tôi không thể bảo đảm một cách chắc chắn về kết quả nhưng dù là trong trường hợp công khai hay không công khai tôi cũng sẽ kiên trì việc buộc giám đốc phải có lời xin lỗi với công đoàn. Có điều nếu các ngài cũng hy vọng tôi làm được việc này thì nên chăng các ngài sẽ hợp tác một cách có hiệu quả với tôi trong các vấn đề khác?".
Chủ tịch công đoàn thấy rằng mình đã nhận được sự tôn trọng một cách "thấu tình đạt lý" của giáo sư nên đồng ý ngay với yêu cầu "thấu tình đạt lý" của ông.
Sau đó, giáo sư đưa ra đề nghị nghiêm túc để kết thúc việc này là: giám đốc công ty phải công khai xin lỗi, bày tỏ sự tôn trọng cần phải có với công đoàn, tạo dựng lại địa vị của công đoàn trong dư luận xã hội... Chủ tịch công đoàn rất hài lòng với tuyên ngôn "công bằng" của giáo sư nên nhanh chóng đáp ứng các điều kiện về yêu cầu hợp tác mà giáo sư đã đưa ra.
Sau đó, về phía công ty, giám đốc đã công khai xin lỗi công đoàn, còn phía công đoàn cũng rất tín nhiệm và ủng hộ giáo sư mà không biết rằng mình đã có sự nhượng bộ về phương diện lương, phúc lợi của công nhân.
Nếu trực tiếp yêu cầu công đoàn có sự nhượng bộ về mặt quyền lợi thì khác nào vuốt râu hùm bởi vì nguyên nhân phát sinh cuộc đàm phán này là do tranh giành quyền lợi. Giáo sư đã bề ngoài thì buộc giám đốc phải công khai xin lỗi, bày tỏ sự tôn trọng cần có đối với công đoàn để ngấm ngầm đạt được mục đích đó.
 
Chương 49
Dựa vào công lao để tranh giành thiên hạ.


Quyền lợi đi liền với trách nhiệm, nghĩa vụ; muốn giành được những quyền lực và lợi ích nhất định luôn phải thông qua những nỗ lực để lập được những công lao, sự nghiệp đem lại hạnh phúc cho mọi người, hay dựa vào việc làm của mình để làm cho mọi người có thể chuyển nguy thành an. Khi bàn luận về sự mưu trí người ta thường hiểu nhầm sự mưu trí chằng qua là vận dụng một chút thông minh, đầu cơ mưu lợi mà không phải hao phí tâm trí, sức lực. Trên thực tế những mưu lược gia vĩ đại, thật sự có những thành tựu to lớn không ai là không dựa vào công lao to lớn để nổi tiếng khắp trên thiên hạ cả. Vì thế, "dĩ công nghiệp mưu thiên hạ" trên thực tế là cái căn bản của sự mưu trí, là sự mưu trí phổ biến nhất và cũng vĩ đại nhất. Trong mưu trí tranh giành chính quyền cần chuyển hóa mưu trí thành năng lực sáng tạo với một đoàn thể lợi ích nào đó, trong cạnh tranh thương mại, nếu dùng mưu trí trong một mức hạn định lớn nhất để tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng thì mới sẽ có được thị trường rộng lớn nhất. Đương nhiên nếu coi việc "dĩ công nghiệp mưu thiên hạ" là một mưu kế cụ thể thì điều quan trọng là vào lúc dường như không có cơ hội để “giành thiên hạ" thì nên hết sức cố gắng để làm được những công lao và sự nghiệp để có thể biến những hy vọng mong manh trở thành hiện thực.
Võ Tắc Thiên có bốn người con trai: Lý Hoàng, Lý Hiền, Lý Hiển và Lý Đán. Bốn người đó đều lần lượt làm thái tử. Lý Hoàng, Lý Hiền tính tình cương trực nên không được Võ Tắc Thiên yêu quý. Sau đó Lý Hoàng bị hạ độc chết, Lý Hiền cũng suýt bị giết may được Đường Cao Tông ra sức khuyên can mới được miễn tội chết nhưng bị giáng làm thứ dân. Lý Hiển, Lý Đán tính tình nhu nhược nhưng khi hai anh em họ lần lượt làm thái tử thì Đường Cao Tông đã chết, Võ Tắc Thiên lại có dã tâm làm nữ hoàng nên họ cũng phạm phải nhiều điều kiêng kỵ của Võ Tắc Thiên. Năm 683 sau Công nguyên, Lý Hiển được lập làm Đường Trung Tông nhưng đến năm 684 thì bị giam lỏng, sau đó bị giáng làm Lô Lăng Vương. Cũng trong năm đó lập Lý Đán làm hoàng đế trên danh nghĩa tức Đường Duệ Tông. Đến năm 690 Lý Đán lại bị giáng làm Hoàng Tự và Võ Tắc Thiên công khai tự mình xưng đế.
Hành vi "đại nghịch bất đạo" của Võ Tắc Thiên đã kích động sự bất bình của tộc họ Lý Đường và những người có truyền thống trung quân. Dưới sự cố gắng của họ, cuối cùng đến năm 705 sau Công nguyên cũng buộc được Võ Tắc Thiên lúc đó đang bệnh nặng phải nhường ngôi, Đường Trung Tông nắm hoàng quyền trở lại. Lý Đán cũng bị giáng làm An quốc tướng vương.
Ở đây điều đáng nói là sự mưu trí mà con trai của An quốc tướng vương là Lý Long Cơ đã dùng để giành lấy thiên hạ. Trong quá trình biến thiên hoàng quyền kể trên có thể thấy địa vị của Lý Long Cơ chẳng liên quan gì đến ngôi báu cả. Hoàng đế lúc đó là bác của anh ta, theo truyền thống thì hoàng đế kế vị chỉ có thể là anh họ của anh ta. Vả lại An quốc tướng vương sinh được năm người con trai, Lý Long Cơ thứ ba, cho dù hoàng đế đương triều là Lý Đán chăng nữa thì người kế vị cũng còn phải tính đến anh cả, anh hai của anh ta trước chứ khó mà đến lượt anh ta.
Song với một người tuy trẻ tuổi mà chí lớn như Lý Long Cơ thì đương nhiên không chịu đứng dưới những anh em cùng thế hệ với mình. Sau khi cân nhắc từ nhiều phía anh ta đã chọn cách lập công trạng để tiến tới ngôi vị hoàng đế.
Muốn làm nên công trạng thì điều đầu tiên là phải có thực lực, thứ hai là phải có hoàn cảnh và cơ hội. Để làm được điều đó trước tiên là anh ta ngầm liên kết với các hào kiệt, đồng thời bí mật liên lạc với vũ lâm quân để chuẩn bị lực lượng ứng phó cho mình lúc cấp bách. Tiếp đó anh ta rất chú ý tới các động thái triều chính để quyết không bỏ qua bất cứ cơ hội nào.
Có một danh nhân đã từng nói rằng: cơ hội đối với mỗi người là như nhau, chỉ cần lưu tâm một chút thì ai cũng có thể nắm bắt được những cơ hội tốt. Lý Long Cơ đã rất nhanh chóng tìm được cho mình một cơ hội. Vốn là khi Đường Trung Tông bị Võ Tắc Thiên biếm trích, suốt ngày chỉ lo mình sẽ giẫm phải con đường giống của anh mình bị Võ Tắc Thiên hạ độc chết nên luôn có ý nghĩ coi nhẹ mạng sống của mình. May được Vi hoàng hậu thường xuyên khuyên nhủ, hết lòng chăm sóc nên mới không tự sát. Mà sau khi nắm được quyền hành đương nhiên là phải báo đền ân nghĩa, nhất nhất nghe theo Vi Thị, ban cho rất nhiều ân sủng. Nào ngờ, Vi hoàng hậu lại hạ độc Đường Trung Tông, bắt chước cách làm của Võ Tắc Thiên lập con trai là Trọng Mậu làm hoàng thái tử, Vi Thị tự mình lâm triều, nắm hoàng quyền. Đồng thời cũng chuẩn bị mưu hại Trọng Mậu, tướng vương Lý Đán và con gái Võ Tắc Thiên lúc đó cũng rất có uy quyền là Thái Bình công chúa để cuối cùng là cướp giang sơn nhà Đường. Trong tình hình đó, ai có thể giết những kẻ thù như Vi hoàng hậu, ai có thể vì Lý Đường trừ hại lập công thì người đó lẽ đương nhiên sẽ là người có quyền thế rồi.
Thế là Lý Long Cơ liên lạc với Thái Bình công chúa và con trai công chúa là Tiết Sủng Giản chuẩn bị hành động trước để kiềm chế, đánh dẹp Vi Thị. Có người khuyên Lý Long Cơ nên bẩm báo chuyện đại sự này với cha mình là tướng vương Lý Đán. Lý Long Cơ nghĩ rằng nếu nói cho cha mình biết trước chuyện này thì công lao đó đâu đến lượt mình. Vì thế cố ý lớn tiếng rằng: "Việc dấy binh lần này tôi làm chẳng qua chỉ vì xã tắc. Việc thành thì cái phúc ấy thuộc về phụ vương tôi, mà việc không thành thì mình tôi chịu, cái họa ấy không liên quan đến phụ vương. Nếu bẩm báo trước mà cha tôi không nghe, việc lại không thành thì thà không nói còn hơn". Thế là anh ta dẫn vũ lâm quân từ nhiều phía nhân lúc nửa đêm xông thắng vào cung giết chết Vi Thị, thượng quan Uyển Nhi và các đồ đảng của chúng.
Sau đó Lý Long Cơ, Thái Bình công chúa suy tôn Lý Đán lên ngôi hoàng đế. Không lâu sau có người đề ra việc "có thể trừ bỏ cái họa cho thiên hạ thì phải được hưởng cái phúc của thiên hạ", thỉnh cầu Đường Duệ Tông Lý Đán bỏ thông lệ "lập trưởng" mà phải lập con trai thứ ba, người có công lớn nhất là Lý Long Cơ làm thái tử. Lý Đán biết rằng lòng dân trong thiên hạ đã phục Lý Long Cơ rồi nên đồng ý lời thỉnh cầu ngay và đến năm 712 sau Công nguyên ông chủ động nhường ngôi. Lý Long Cơ đã bước lên ngai vàng một cách thuận lợi, thống trị thiên hạ suốt 44 năm.
Lý Long Cơ dựa vào hành động thực tế để lập nên công trạng, thể hiện thực lực, tài năng của mình để giành lấy sự tín nhiệm của bàn dân thiên hạ, giành lấy ngôi báu. Xe Toyota cũng từ trong nghịch cảnh đó, thông qua cách cải thiện tính năng, hiện thân để xây dựng hình tượng, giành lấy thị trường.
Trong những năm 60, công ty ôtô Toyota Nhật Bản đã từng thất bại thảm hại ở Mỹ và ngay cả ở thị trường trong nước cũng đã mất đi vị trí hàng đầu. Vì việc này mà công ty đã đặt ra chiến lược dốc sức cải tiến "xe Quahua", dự định dựa vào chất lượng hàng đầu để giành lại vinh quang đã mất.
Loại xe Quahua mới với tính năng được cải tiến rõ rệt đã ra đời. Nhưng ấn tượng về "xe Toyota không bền" vẫn là trở ngại lớn đối với việc khai thác thị trường. Thế là họ quyết định chụp hàng loạt những bức ảnh thử nghiệm có tính phá hoại “xe hơi cho bạn xem" như "Hổ của biển-quahua", "xe bay- Quahua", "đâm thẳng vào thùng xăng-quahua", "lao xe từ sườn núi cao-Quahua".
Trong bức ảnh "xe bay trong không trung", xe Quahua chạy với tốc độ cao chỉ trong nháy mắt bay cao tới 3 mét, xa 25 mét và sau khi chạm đất vẫn có thể đi với tốc độ cao. Lúc đó vận động viên đua xe chuyên nghiệp được mời đến lại nhát gan không dám biểu diễn điều khiển xe. Đúng lúc mọi người đang bó tay hết cách thì một nhân viên vốn vô danh tiểu tốt ở bộ phận quảng cáo của công ty là Sabugita đã đứng ra vì sự nghiệp của công ty sẵn sàng vào nơi dầu sôi lửa bỏng. Anh đi xe với tốc độ 120 km/h lên bục để bay và chỉ trong chớp mắt xe Quahua đã bay vào thiên không như một tia chớp cách mặt đất 2 mét với chiều dài 30 mét. Các nhiếp ảnh gia đã chụp được những bức ảnh quý giá từ nhiều góc độ khác nhau.
Xe Toyota đã thông qua hàng loạt những thí nghiệm mang tính phá hoại, dựa vào sự thực không thể bác bỏ để chứng minh phẩm chất ưu việt của mình, thể hiện khả năng đáp ứng lợi ích lớn nhất cho người tiêu dùng để giành được thành công to lớn. Không lâu sau đó, công ty Toyota trở lại vị trí hàng đầu trong việc xuất khẩu và ngày nay khẩu hiệu quảng cáo "xe đến trước ngọn núi tất sẽ có đường, có đường đi tất sẽ có xe Toyota" đã có mặt khắp toàn cầu.
Ở đây ngoài việc công ty Toyota vận dụng kế "dĩ công nghiệp mưu thiên hạ" còn phải nhắc đến Sabugita, chẳng bao lâu sau anh cũng được đề bạt làm giám đốc công ty Toyota ở Thái Lan, trở thành một đại doanh gia trong thị trường tiêu thụ xe quốc tế một anh hùng vĩ đại nhất của vương quốc Toyota. Có thể nói anh là người vận dụng và đạt được lợi ích từ kế "dĩ công nghiệp mưu thiên hạ".
 
Chương 50
Bỏ con săn sắt, bắt con cá rô


Theo quan điểm phép biện chứng duy vật, hai mặt của một vấn đề vừa đối lập lại vừa thống nhất với nhau. Ví dụ hiếu thuận và vi nghịch, có lợi và có hại, trước tiên là chúng đối lập nhau, nhưng trong những điều kiện nhất định, hiếu thuận sẽ dẫn đến vi nghịch, có lợi sẽ biến thành có hại. Là một người mưu trí thì trước hết phải xem xét kỹ khả năng chuyển hóa thành mặt đối lập của một sự vật, khi cần thiết phải không do dự vứt bỏ "tiểu hiếu” , "tiểu lợi" thông qua những hành động "vi nghịch" nhỏ, có hại nhỏ để đạt được kết quả là những cái "đại hiếu” , "đại lợi", đó chính là mưu trí "tư đại hiếu bất ngôn tiểu hiếu, đồ đại lợi cảm khí tiểu lợi".
Những chuyện xấu xa trong cung đình triều Đường không ngừng diễn ra nên người ta thường gọi là "Đường điểu quy”. Trong các cuộc chiến tranh giành chính quyền đó luôn có liên quan đến đàn bà. Trên thực tế thì những người đàn bà dám nghĩ dám làm trong cung đình nhà Đường đều là những người tài giỏi. Nếu như họ thật sự có khả năng làm chính trị thì đều giống như sự nghiệp rất rầm rộ của Võ Tắc Thiên. Song dưới áp lực mạnh mẽ của tư tưởng phong kiến, những người phụ nữ tài ba ấy đa phần chỉ có đường chết. Điều đáng nói ở đây là Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đã dùng mưu kế với con gái Võ Tắc Thiên là Thái Bình công chúa.
Năm 710 sau Công nguyên, Vi hoàng hậu cùng con gái là An Lạc công chúa, thượng quan Uyển Nhi và những kẻ đồng đảng đã hạ độc Đường Trung Tông, lập con trai của Trung Tông là Lý Trọng Mậu làm hoàng đế, Vi hoàng hậu cũng bắt chước cách Võ Tắc Thiên lâm triều. Con trai Lý Đán - em trai Đường Trung Tông là Lý Long Cơ cùng cô là Thái Bình công chúa đã thừa cơ khởi sự, thanh toán nhóm người Vi Thị. Dưới sự chủ trì của Thái Bình công chúa, phụ vương Lý Long Cơ lên ngôi hoàng đế. Lý Long Cơ vì có công nên cũng vượt qua anh cả và anh hai của mình, được lập làm hoàng thái tử, và đến năm 712 sau Công nguyên thì được kế vị ngai vàng.
Trong cuộc chính biến này phải nói là công lao của Thái Bình công chúa cũng chẳng kém cháu mình Lý Long Cơ là bao nhiêu, nhưng bà cũng chỉ có cơ hội được tham gia bàn luận chuyện triều chính ở đằng sau mà thôi. Trước khi Lý Long Cơ đăng cơ bà cũng bị buộc dời đến Bồ Châu để đề phòng sự can dự vào việc triều chính. Thái Bình công chúa lúc đó đã 40 tuổi, bà cũng đã tìm đủ cách mà không thoát được, chỉ có thể sống trong sự sung túc đó mà lôi kéo những kẻ đồng đảng, tìm cách đưa chúng vào những vị trí quan trọng trong triều để chuẩn bị cho cuộc cách mạng thứ hai.
Đây là nói từ góc độ của Thái Bình công chúa còn nếu theo cách nghĩ của Đường Huyền Tông thì ông ta đã dựa vào công lao để giành lấy xã tắc lại là "dương mưu” thiên kinh đại nghĩa, tiêu diệt thực lực của Thái Bình công chúa cũng là điều tất yếu để phòng cái họa "gà gáy gở, chó lê trôn". Do đó khi thấy Thái Bình công chúa có hành vi "phản nghịch" thì đương nhiên là sẽ không nghe, không tin bà nữa. Nhưng có một điều mà ông ta không thể không lo lắng là: Thái Bình công chúa là em gái ruột duy nhất của phụ thân ông ta, việc có những hành vi vượt quá giới hạn với công chúa đương nhiên sẽ trái ý của thái thượng hoàng và có thể trở thành hành vi "bất hiếu” trong quan niệm đạo đức phong kiến, do đó ông ta không thể có những hành động kiên quyết.
Thế là Vương Cư nhân cơ hội này đi cầu kiến Lý Long Cơ lúc này chưa làm hoàng đế. Vương Cư cố ý chậm bước ở Đông cung, thăm dò xung quanh. Thị vệ Đông Cung thấy vậy lớn tiếng quát. "Điện hạ đang ở đây sao dám như vậy!". Vương Cư nói. "Làm gì có điện hạ nào, chỉ có Thái Bình công chúa mà thôi!". Thái tử vội vàng đến cầu xin dạy bảo. Vương Cư nói: “Ngày đó Vi Thị giết chồng đoạt quyền, lòng người không phục nên thái tử mới được ủng hộ, việc trừ họa không khó. Nhưng nay Thái Bình công chúa ỷ thế có công lại xảo trá đa kế, các đại thần trong triều đa số là tử sĩ của bà ta, lại thêm có quan hệ anh em ruột hoàng thượng, nếu không quyết đoán sẽ khó tránh được đại họa".
Thái tử nói: "Người nói chí phải. Chỉ tiếc rằng hoàng thượng có mỗi người em gái, nếu có điều gì xảy ra thì sẽ phạm vào đạo hiếu nghĩa nên ta không dám hành động tùy tiện".
Vương Cư lại nói. "Tiểu hiếu không đáng bàn, điện hạ nên nghĩ đến đại hiếu. Yên tông miếu, định xã tắc mới là đại hiếu. Thử nghĩ xem công chúa vì mưu lợi riêng đã lôi kéo đồng đảng, muốn phế điện hạ, một khi xảy ra biến chẳng phải là còn mệt hơn việc tông miếu xã tắc sao? Tông miếu xã tắc không yên, thì cho dù điện hạ muốn tận hiếu sợ rằng cũng khó mà làm được".
Thế là Lý Long Cơ quyết định dùng những hành động kiên quyết để trừ bỏ Thái Bình công chúa. Không ngờ công chúa lại nhanh nhạy hơn người, sớm nhìn ra tâm ý của Lý Long Cơ, nên đã nói trước với Đường Duệ Tông rằng Lý Long Cơ đại nghịch bất đạo, có ý vô cớ mưu sát cô ruột của mình. Lý Long Cơ sợ làm trái ý chỉ của phụ thân nên đành phải đổ tội cho thuộc hạ đồng thời nghiêm khắc xử phạt để giữ "hiếu danh".
Sau này, khi Đường Duệ Tông càng ngày càng trao nhiều quyền lực cho Lý Long Cơ, Thái Bình công chúa cũng dự cảm được sự nguy hiểm của mình nên đã nhanh chóng hành động, thậm chí còn muốn hạ độc Lý Long Cơ.
Vương Cư nói với Lý Long Cơ rằng "Cái hoạ đã đến gần không thể chần chừ được nữa!". Lý Long Cơ đáp rằng: "Ta cũng rất muốn vậy nhưng chỉ sợ làm chấn động thượng hoàng, trái với đạo hiếu” . Vương Cư lại nói: "Thiên tử lấy việc giữ yên bốn bể làm hiếu chứ không thể quanh quẩn nơi góc nhỏ được, chẳng may kẻ gian đắc chí thì lúc đó hiếu ở đâu?!".
Vì thế Lý Long Cơ đã sai lính đi tiêu diệt Thái Bình công chúa cùng bè lũ vây cánh. Thái thượng hoàng biết tin chỉ thở dài nhưng lại ra cáo lệnh ngay lập tức: "Từ nay trở đi việc triều chính, quân đội sẽ do Lý Long Cơ đảm trách. Ta chỉ muốn ở trong điện để dưỡng tuổi trời".
Lý Long Cơ tiêu diệt được phe phái Thái Bình công chúa, mở rộng con đường để xây dựng một chế độ khai nguyên phồn vinh thịnh vượng, những người đương thời cũng không ai nghi ngờ việc ông ta là người con hiếu thuận dũng cảm có công cao cả.
Mưu trí giành lấy danh dự đạo đức thể hiện trong cạnh tranh kinh tế là sự mưu trí đạt được lợi ích kinh tế. Muốn có tiếng tăm phải "tư đại hiếu bất ngôn tiểu hiếu” , muốn có lợi ích thì cần kiên quyết dùng kế “đồ đại lợi cảm khí tiểu lợi".
Một năm nọ, Sở thủy lợi thành phố Hiroshima, Nhật Bản dự định vẽ một sơ đồ có thể điều khiển bằng máy tính điện tử về vị trí van, loại đường ống, hẹn giờ... của đường dây điện, đường dẫn khí ga, đường ống nước ngầm trong thành phố. Bộ thủy lợi dự toán giá là 11 triệu yên Nhật. Lúc đó có tất cả là 8 công ty tham gia đấu thầu với giá lần rượt là 27 triệu; 9,8 triệu; 550 ngàn; 450 ngàn và 350 ngàn yên Nhật.
Báo giá cuối cùng của công ty Fujitor chuyên sản xuất máy tính cỡ lớn lại chỉ có 1 yên Nhật mang tính tượng trưng, đã dựa vào ưu thế tuyệt đối của việc miễn phí gần như hoàn toàn để buộc các công ty khác rút lui và được trúng thầu.
Tại sao công ty đổ lại làm như vậy? Sản xuất cho người ta một sản phẩm trị giá 11 triệu yên mà chỉ thu 1 yên thù lao? Không nên nghĩ rằng Fujitor là kẻ ngốc không nghĩ đến cái lợi. Họ đang vận dụng mưu kế cao siêu "đồ đại lợi cảm khí tiểu lợi” bỏ qua cái lợi nhỏ 11 triệu đó để kiếm cái lợi gấp mấy chục thậm chí hàng trăm lần.
Thì ra Bộ xây dựng của Nhật Bản đã ra thông báo rằng 11 thành phố lớn trong đó có Tokyo phải vẽ được sơ đồ có thể dùng máy tính điện tử điều khiển về đường ống lắp đặt dưới mặt đất Hiroshima chẳng qua chỉ là thành phố đầu tiên thực thi mà thôi.
Nếu Fujitor trúng thầu ở Hiroshima và vẽ thành công thì cũng có khả năng tất thắng trong cuộc cạnh tranh đấu thầu cho 10 thành phố còn lại. Điều quan trọng hơn nữa là kế hoạch cuối cùng của chính phủ Nhật Bản là căn cứ vào bản sơ đồ được vẽ ra đó để thiết kế và lắp đặt máy tính điện tử. Công ty này bỏ qua khoản tiền 11triệu yên đó nên đã dễ dàng trúng thầu và giành được quyền thiết kế sơ đồ, vì thế cũng có thể thiết kế bản đồ phù hợp với đặc điểm máy tính của mình và cũng đồng nghĩa với việc bài xích các sản phẩm phần cứng, phần mềm máy tính không mang nhãn hiệu Fujitor, còn mình thì trở thành nhà sản xuất máy tính duy nhất cho 11 thành phố lớn sử dụng sơ đồ đó để điều khiển đường ống ngầm.
Thử nghĩ xem liệu với một tiềm lực thị trường, một khoản lợi nhuận lớn như vậy thì cái tổn thất 11 triệu yên đó có thể so sánh được không?
 
Chương 51
Khẳng khái giúp đỡ người gặp nạn


Có một câu tục ngữ là "Cách tốt nhất để đuổi ăn mày đi là bố thí rộng rãi". Nhưng con người ta có một nhược điểm rất nhẫn tâm "lạc tinh hạ thạch", coi khinh thậm chí ngang ngược chế diễu, thương hại người gặp khó khăn. Song cái hành vi thiếu đạo đức ấy lại rất có khả năng chịu sự phản kích liều mạng của "ăn mày" và còn dẫn tới sự công phẫn, tự đặt mình vào hoàn cảnh khó khăn. Có thể nói đó là cách làm thiếu sáng suốt. Để học được cái mưa trí thì cần phải nhận thức được rằng trong hoàn cảnh luôn biến đổi vận động không ngừng thì ăn mày có thể trở thành tỉ phú, quyền quý cũng có lúc gặp khó khăn. Mà người gặp khó khăn hôm nay có thể chính là vị cứu tinh duy nhất cứu chúng ta khỏi nguy nan ngày mai. Do đó, đối xử một cách rộng lượng, đại độ với người khác nhất là "khảng khái bố thí cho người gặp nạn" là một trong những mưu trí thường dùng hàng ngày.
Thời kỳ đầu mới lên ngôi, Đường Huyền Tông đã lần lượt dùng mấy Tể tướng tài giỏi, nhờ đó mà trên cơ sở của sự phát triển kinh tế thời kỳ đầu đã làm cho nhà Đường đạt đến giai đoạn toàn thịnh. Từ năm 713 đến năm 741 sau Công nguyên được coi là giai đoạn "thái bình khai nguyên" phồn vinh.
Lúc đầu Đường Huyền Tông có hai vị Tể tướng là Diêu Sùng và Trương Thuyết. Cả hai đều là người tài giỏi nhưng đều mắc phải căn bệnh hẹp hòi. Nhất là Trương Thuyết, tài trí thì có thừa nhưng lại không có sự độ lượng. Ở đây muốn nói tới chuyện một lần hiếm hoi Trương Thuyết dùng kế khảng khái cứu tính mạng của chính mình.
Diêu Sùng, Trương Thuyết tuy đều là Tể tướng nhưng lại không hợp nhau, nên luôn gạt bỏ nhau. Có lần Diêu Sùng bắt được thóp nên đã tố cáo Trương Thuyết. Đường Huyền Tông kinh ngạc thất sắc ra lệnh bí mật điều tra xử lý hành vi phạm tội của Trương Thuyết.
Trương Thuyết không biết gì nên vẫn ở trong nhà nhởn nhơ tự đắc. Bỗng nhiên lính gác cổng đưa vào một tấm danh thiếp nói có một người tên Cổ Toàn Hư muốn cầu kiến. Trương Thuyết không nén được tức giận hét lên: "Hắn đến gặp ta làm gì? Lính gác lại bảo rằng: "Cổ Toàn Hư nói có việc khẩn cấp liên quan đến toàn gia tướng công nên vội đến cấp báo". Trương Thuyết cố nén giận cho Cổ Toàn Hư vào. Hai người đã gặp mặt mà Trương Thuyết vẫn chưa hết tức giận.
Thì ra Trương Thuyết có một người thiếp tên Ninh Hoài Đường, dung mạo như tiên, tinh thông thi văn, rất được Trương Thuyết sủng ái, giao cho quản lý trông coi công văn giấy tờ mật. Tương truyền rằng mẹ của Ninh Hoài Đường nằm mơ gặp tiên đưa cho một cành hải đường rồi mang thai. Mới 5, 6 tuổi nhưng Hoài Đường đã có dung mạo đẹp đẽ thanh tú, nhỏ nhắn. Người nhà vẫn thường trêu là "hải đường thụy túc", còn mẹ nàng thì dựa vào nguyên cớ "danh hoa thích tỉnh không thích thụy" đặt cho tên chữ là Tỉnh Hoa.
Tỉnh Hoa được gả cho Trương Thuyết, quả là trai anh hùng gặp gái thuyền quyên, Tỉnh Hoa rất hài lòng mà Trương Thuyết thì vẫn thường cảm ơn thượng đế đã ban cho ông ta số đào hoa đến vậy nên rất coi trọng Tỉnh Hoa, xem như tính mạng của mình vậy.
Đúng lúc đó thì lại xuất hiện Cổ Toàn Hư. Cổ Toàn Hư là con trai một người bạn của Trương Thuyết, tuổi nhỏ tài cao nên được Trương Thuyết giữ lại làm ký thất. Cổ Toàn Hư ở trong nhà Trương Thuyết đã lâu nên cũng không bị hiềm nghi nữa, thường xuyên có cơ hội gặp Tỉnh Hoa. Tỉnh Hoa mới nhìn thấy Cổ Toàn Hư đã yêu ngay, thường xuyên nhớ nhung, nên đã viết ra những bài thơ tình. Cổ Toàn Hư vốn là một thiếu niên phong lưu, đương nhiên là không tránh khỏi việc tơ tưởng đến mỹ nhân, lại thấy những vần thơ ý tứ rõ ràng như vậy thì sao còn có thể giả câm giả điếc được? Thế là Tỉnh Hoa và Cổ Toàn Hư như đôi uyên ương ríu rít với nhau, nhanh chóng gắn bó với nhau. Lại đúng lúc Trương Thuyết phải vào cung thế là Tỉnh Hoa vì tình yêu quên hết cả tiết hạnh, lặng lẽ trốn ra sân nhà gặp gỡ với đức lang quân như ý. Cổ Toàn Hư lúc đó đang trong trai phòng bỗng thấy như tiên giáng trần nên bất giác vừa vui mừng vừa kinh ngạc ra tận nơi chào đón. Sau một hồi vui mừng vì gặp gỡ hai bên bàn tính chuyện làm thế nào để được bên nhau suốt đời và quyết định chọn "tẩu” làm thượng sách. Hai người bàn xong vội vàng thu dọn hành trang, nhân lúc trời chưa sáng nhanh chóng chạy trốn.
Nhưng cửa nhà Tể tướng dễ dàng ra vào vậy sao? Ngay sau hôm đó không bao lâu, đôi tình nhân đã bị bắt trói lại, giải đến trước mặt Trương Thuyết.
Cổ Toàn Hư thừa biết mình chỉ có đường chết nên mạnh mồm: "Tham sắc tham tài là bệnh thường gặp ở mỗi người, nam tử hán chết đi thì có gì đáng tiếc? Nhưng minh công sao nỡ vì một người con gái mà giết bỏ một người tài, lẽ nào bậc hiển quý như minh công lại không có lúc gặp nạn phải cầu cứu người khác sao? Trước đây Sở Trang Vương, Dương Tố độ lượng hơn người, xưa nay đều được khen ngợi thì sao lòng dạ minh công lại hẹp hòi đến vậy?..."
Không ngờ Trương Thuyết nghe xong bất giác nghĩ rằng Cổ Toàn Hư tuy là kẻ gặp nạn nhưng vẫn có tiếng là người tài; người đẹp tuy đáng yêu thật đấy nhưng đã một lòng dứt khoát đi theo người khác thì luyến tiếc để làm gì. Chi bằng một lần khẳng khái bố thí mỹ nhân cho người gặp nạn đó, có thể ban ơn để sau này được báo đền. Vì thế Trương Thuyết nguôi giận nói với Cổ Toàn Hư rằng: "Ngươi lẽ ra không nên cướp đi ái thiếp của ta, nhưng nay ván đã đóng thuyền, ta chỉ có thể trách mình đã không đề phòng, thôi thì coi như thưởng cô ta cho ngươi vậy".
Trương Thuyết nói xong lập tức lệnh cho Tỉnh Hoa theo Cổ Toàn Hư đồng thời còn tặng đồ cưới rất hậu hĩ. Cổ Toàn Hư cũng không khước từ, ung dung bước ra khỏi cửa, ở lại trong thành mấy hôm anh ta lại tìm được cách là vào chỗ quan trọng trong triều làm chân đưa bản tấu, chiếu thư. Những bản tấu gạt bỏ Trương Thuyết của Diêu Sùng, những bản phê chuẩn của Đường Huyền Tông, Cổ Toàn Hư đương nhiên là biết trước người khác. Thế nên Cổ Toàn Hư đã cấp báo cho Trương Thuyết, thuật lại tỉ mỉ bản tấu của Diêu Sùng và sắc chỉ mật của Đường Huyền Tông. Trương Thuyết nghe xong quên cả chuyện tức giận kẻ đã cướp ái thiếp của mình, lo lắng đến nỗi không biết làm thế nào. Cổ Toàn Hư lại hiến một kế: "Cổ Toàn Hư ghi nhớ ân sâu của minh công nay đến báo đền. Xin người đừng tiếc báu vật, hãy giao cho tôi để lo lót. Tuy không tránh khỏi việc bị điều tra nhưng không đến nỗi gặp phải điều ngoài ý muốn".
Trương Thuyết nghe theo quả nhiên tội nặng thành nhẹ, việc "điều tra xử lý" chỉ làm qua loa, Trương Thuyết chỉ bị mất chức, giáng xuống làm tướng Châu trường sử nhưng sau đó vẫn được phục chức Tể tướng.
Cách "khảng khái bố thí cho người gặp nạn" của Trương Thuyết đã tránh cho ông ta một cái họa lớn. Trong kinh doanh cũng có lúc gặp phải "người gặp nạn". Nếu cứ chọn cách cương quyết đuổi đi thì sẽ không thu được kết quả tốt, thậm chí còn dẫn đến mâu thuẫn, chỉ có hại mà không có lợi. Còn nếu “khảng khái bố thí" như Trương Thuyết thì sao?
Vào ngày lễ Giáng sinh năm 1992, ở Paris thủ đô của nước Pháp có một sự sắp đặt để yêu cầu cung cấp nhiều chỗ ở hơn nữa cho người nghèo, có khoảng hơn 200 người vô gia cư đã xông vào đại sảnh của một khách sạn hạng sang, nếu không sớm đuổi được số người đó đi thì sẽ là một trở ngại lớn cho việc kinh doanh trong ngày lễ một năm chi có một lần này.
Nhân viên khách sạn đã dùng mọi cách khuyên họ ra khỏi khách sạn nhưng chỉ làm họ hung hăng hơn trước, có ý chiếm cứ lâu dài. Vì thế giám đốc khách sạn vốn là một người rất giỏi việc giao tế phải ra mặt. Ông ta không hề tỏ thái độ cố ý mà hỏi thăm mọi người về ngày lễ với một thái độ rất thân thiện đồng thời còn lập tức phát cho họ sô cô la, lại tặng cả quà cho các con của họ. Làm như vậy không chỉ xóa đi cảm giác thù địch của họ mà việc tạo ra cái không khí gia đình ngày lễ bằng cách khẳng khái tặng quà đã lôi kéo được tình cảm giữa khách sạn với những người vô gia cư đó; và khi đám người đó nhận được món quà mà các con họ yêu thích thì họ cũng muốn nhanh chóng chuyển giao để con cái mình có cái lễ Giáng sinh vui vẻ. Thế là đám khách không mời mà đến đó đã bị đuổi đi. Giới báo chí coi đây là một tin tức và việc đó khác nào làm quảng cáo miễn phí cho khách sạn. Nhiều năm sau đó, những người phát tài trong số đám người đó trở thành bạn hợp tác hoặc khách lâu dài của khách sạn.
 
Chương 52
Nhanh chóng nắm lấy kẽ hở


Trong cuốn "Trần kỷ" của Hà Lương Thần đời Minh có nói: “Kẻ thiện chiến... tất dĩ tật nhi yểm trì". Trong các chiến dịch thông thường phải dĩ tật yểm trì, nghĩa là phải tìm ra kẽ hở của đối thủ nhanh chóng như sấm nổ không kịp bịt tai, quân đến nhanh không kịp đề phòng, cố gắng tìm ra kẽ hở trước khi đối thủ phát hiện và lấp kẻ hỡ đó.
Diêu Sùng bình sinh vốn không tin Phật, Lão nhưng lúc lâm chung vẫn lo lắng một chuyện. Lúc trước còn sống cùng Trương Thuyết cả hai đều là Tể tướng nhưng lại không hợp nhau. Lúc Trương Thuyết bị đày ra khỏi kinh thành cũng là do bản tấu của Diêu Sùng. Sau này khi mình chết đi, nếu một ngày kia Trương Thuyết được trở lại đương triều thì vấn tính hẹp hòi, Trương Thuyết chắc chắn sẽ trút hết nỗi oán hận lên đầu con cháu mình. Vì thế, Diêu Sùng gọi con cháu đến trước giường bệnh truyền cho một kế: "Ta làm Tể tướng đã nhiều năm, những gì để lại cho đời sau không ít nên sau khi ta chết trên bia mộ nên có một bài văn do người nổi tiếng viết. Trên văn đàn hiện nay Trương Thuyết là kẻ đứng đầu. Nhưng nếu trực tiếp đến xin ông ta viết thì nhất định sẽ bị từ chối. Các con hãy đặt trước linh cữu của ta một báu vật, lúc đến viếng nếu Trương Thuyết nhìn thấy mà không để ý gì thì nghĩa là vẫn còn hận ta và cái họa sắp đến, lúc đó cần phải nhanh chóng trốn về quê ngay. Còn nếu Trương Thuyết sờ vào, có ý ngưỡng mộ thì có thể thấy Trương Thuyết vì cái lợi mà quên hận thì có cơ hội đó. Lúc đó con hãy chuyển lời ta rằng báu vật đó tặng cho ông ta. Đồng thời xin ông ta viết cho một bản bài minh và xin ông ta viết nhanh cho, càng nhanh càng tốt. Cần phải nhớ là ngay khi cầm được bài minh thì phải khắc ngay lên đá, lập tức mời hoàng đế xem tận mắt. Nhớ là phải rất nhanh chóng, nếu không Trương Thuyết mà hối tiếc thì bao công lao đều đổ xuống sông xuống biển hết, đến lúc đó thì chết cũng không có chỗ chôn".
Diêu Sùng nói xong nhắm mắt qua đời. Các con trai của ông ta phát cáo phó đồng thời làm theo di ngôn của cha. Trương Thuyết có việc phải vào tấu với vua, nghe tin Diêu Sùng chết nên đến nhà để viếng. Nhìn thấy báu vật trên bàn thì mắt sáng rực, không ngừng xoa xoa lên báu vật.
Con trai Diêu Sùng thấy vậy vội bước lên phía trước nói “Tiên phụ có di ngôn rằng trong số các bạn đồng liêu ai viết bia văn cho ông thì sẽ tặng số báu vật này. Minh công là một đại văn hào đương đại đương nhiên là không coi trọng châu ngọc, nhưng anh em tôi sẽ không bao giờ quên, chút báu vật tạ ơn này quả là nhỏ bé không đáng kể gì".
Trương Thuyết thấy một bài văn bia đáng giá nhiều châu báu như vậy nên vui vẻ đồng ý ngay. Anh em nhà họ Diêu vội vàng bái lạy tạ ơn đồng thời xin Trương Thuyết nhanh chóng viết xong.
Trương Thuyết mừng quá đi như chạy, về đến nhà là bắt đầu viết ngay. Không ngờ vừa viết xong bia văn là nhà họ Diêu đã mang báu vật đến. Trương Thuyết nhìn thấy báu vật là mải mê ngắm nghía chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, nên đưa ngay văn bia cho gia nhân nhà họ Diêu bảo đem về.
Anh em họ Diêu vừa nhìn thấy văn bia, thấy trên đó toàn những từ ngữ ca ngợi công đức thì rất đỗi vui mừng vừa ý. Họ lập tức theo lời cha dặn, thuê người đến ngay trong đêm khắc văn bia đó lên đá, mặt khác dâng bản thảo do chính tay Trương Thuyết viết vào triều. Huyền Tông vừa nhìn thấy đã hết lời khen thưởng: "Hiền tướng như vậy, mỹ văn như vậy, quả có thể gọi là hào hoa phong nhã".
Trương Thuyết nghe tin Huyền Tông ca ngợi Diêu Sùng lập tức tỉnh ngộ ra rằng: Ta với Diêu Sùng vốn có hiềm khích với nhau vậy mà nay lại quay lại tán dương ông ta. Sau này không những không thể tìm cách báo thù mà lại cón phải ra sức biện hộ cho Diêu Sùng để cho thống nhất với những lời trên văn bia. Vì vậy vội vàng sai người đến Diêu gia đòi lại bản thảo lấy cớ rằng bản thảo đó viết còn cẩu thả phải chỉnh sửa lại.
Nào ngờ họ trả lời rằng bản thảo đó đã được khắc lên bia đá và cũng đã trình hoàng thượng ngự lãm, hoàng đế cũng đã đồng ý rồi. Trương Thuyết không kìm được buột miệng nói: “Đây đúng là di sách của Diêu Sùng. Một người còn sống như Trương Thuyết ta đây lại nằm trong tính toán của tên Diêu Sùng đã chết đó rồi!". Từ đó về sau Trương Thuyết tuy trong lòng tức giận nhưng cũng chẳng làm gì được, lại còn mượn tiếng đại hiền tướng Diêu Sùng suốt ngày giúp con cháu ông ta thoát tội, đề bạt cất nhắc.
Hiển nhiên là việc một người chết như Diêu Sùng muốn lợi dụng kẽ hở của một người sống là Trương Thuyết thì phải bao gồm nhiều khâu. Nhưng khi thực hiện mánh khóe đó thì trong mỗi một khâu đều phải có một chữ "nhanh". Trương Thuyết thấy lợi quên thù cầm lấy báu vật thì phải "nhanh chóng" cầu văn, lúc Trương Thuyết viết xong chờ báu vật thì phải "nhanh chóng" mang đến để đổi lấy bản thảo; lúc đã có được bản thảo thì càng phải nhanh chóng khắc lên bia đá đồng thời đạt được sự cho phép của hoàng đế. Vì sao lại phải vội vàng như vậy . Vì cái "kẽ hở" hám lợi quên nghĩa đó lúc nào cũng có thể bị Trương Thuyết phát hiện và bù lấp. Trong cạnh tranh thương mại cũng có lúc cần phải biết lợi dụng kẽ hở mà việc đó trong kinh doanh cũng phải nắm được chữ "nhanh".
Rockerfeller muốn độc chiếm thị trường dầu khí Mỹ, vì thế công ty ống dẫn dầu trở thành cái gai trong mắt họ. Đặc biệt là khi công ty Tader lắp đặt ở nơi sản xuất dầu khí một đường ống dẫn dầu có tốc độ lưu thông lớn đến tận sát mép hồ đã uy hiếp rất lớn đến công ty họ. Nếu không làm cho đường ống dầu đó sập đổ thì họ không thể ăn ngon ngủ yên được. Để làm được điều đó, Rockerfeller rất muốn lắp đặt một đường ống dẫn dầu lớn song song với nó. Nhưng đường ống dầu đó phải đi qua huyện Bariser mà huyện đó lại nằm trong phạm vi quyền hạn của Tader. Vì muốn đề phòng việc đối thủ cạnh tranh chen chân vào, công ty Tader đã buộc hội nghị thông qua một quyết định tuyên bố ngoài đường ống đã được lắp đặt ra thì sẽ không cho phép bất cứ đường ống dầu nào đi qua huyện này nữa.
Đây quả là một bài toán khó dường như không có lời giải. Song người đứng đầu ngành dầu khí chưa bao giờ biết cúi đầu trước khó khăn cả. ông phải tìm cho ra kẽ hở trong tuyên bố đó Rockerfeller đã nghiên cứu từng câu chữ trong tuyên bố rất nhiều lần và cuối cùng đã tìm ra kẽ hở mà ông cần.
Một đêm không trăng trong huyện xuất hiện một nhóm người, họ đem theo máy tiện, cuốc chim, chỉ chăm chú đào đất. Rất nhanh sau đó một đường hào đã đào xong. Tiếp đó họ chôn một đường ống dầu to xuống rãnh. Đường ống đã được lắp đặt một cách rất nhanh chóng, sau cùng họ lấp đường hào đó lại Thế là trời chưa sáng họ đã hoàn thành xong công việc, chờ những tin tức trọng đại sắp được phát đi.
Hôm sau, mọi người phát hiện ra công ty dầu khí Mifu của Rockerfeller đã lắp đặt trong huyện một đường dẫn dầu. Đứng trước sự việc vi phạm pháp luật một cách công nhiên như vậy, nhà đương cục của huyện lập tức chuẩn bị khởi tố kẻ phạm tội.
Sự kiện này làm kinh động đến báo giới, rất nhiều ký giả đã ùn ùn kéo đến. Rockerfeller triệu tập một cuộc họp báo, tại đó ông nói: "Quyết định của cuộc họp huyện đã quy định rất rõ, ngoài những ống dầu đã được lắp đặt xong ra không cho phép các ống dầu khác qua huyện. Vì vậy tôi hy vọng các vị đến hiện trường tham quan một chút để thẩm định xem đường ống dầu của chúng tôi đã lắp đặt xong hay chưa. Nếu đã lắp đặt xong thì có nghĩa là đường ống đó hoàn toàn hợp pháp; còn nếu chưa xong thì có thể phá bỏ đi".
Các phóng viên đều trố mắt đờ đẫn cả ra. Hội nghị huyện thì hiểu rằng quyết định của mình không chặt chẽ nên vô cớ bị lợi dụng kẽ hở nên chẳng còn cách nào khác đành phải gác lại coi như xong vụ kiện này.
Rõ ràng Rockerfeller đã phát hiện ra rằng trước khi lắp đặt đường ống dầu, ông phải làm sao để lắp đặt xong một cách nhanh chóng nhất, từ đó mà lợi dụng được kẽ hở pháp luật. Điểm mấu chốt ở sự thành bại là ở sự khác biệt giữa "đang" và “đã”, sao có thể lề mề chậm chạp được?
 
Chương 53
Lấy nhân tâm làm gốc sẽ nên việc lớn


Những năm đầu đời Đường là những năm tháng hoàng kim cực kỳ hưng thịnh không chỉ trong đời Đường mà còn cả trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc. Theo ghi chép, thời kỳ này của cải dư dật, thiên hạ yên ổn, giá cả ổn định. Người đi đường xa không phải lo mang theo lương thực và binh khí phòng thân, dọc đường vào bất kỳ làng nào cũng đều có quán trọ với đầy đủ rượu thịt tùy ý lựa chọn, lúc sắp rời khỏi quán lại còn được tặng quà. Đại thi nhân Đỗ Phủ trong bài thơ "Ức tích" nhớ về tình hình thời đó viết rằng: "Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật, tiểu ấp do tàng vạn gia thất. Đạo mễ lưu chi túc mễ bạch, công tư thương bẩm câu phong thực. Cửu châu đạo lộ vô sài lang, viễn hành bất lao cát nhật xuất. Tề hoàn lỗ cảo xa ban ban, nam canh nữ tang bất tương thất". Quả là thịnh cảnh phồn vinh làm rung động lòng người. Còn các sử gia thì gọi thời kỳ này là "Khai Nguyên thịnh thế".
Thực ra thời kỳ thịnh vượng đó (đầu những năm Cập Thiên Bảo) không chỉ thóc gạo đầy kho, đời sống sung túc mà còn có những nhân vật phong lưu tiếng tăm lẫy lừng trong thời kỳ này. Thi đàn có "thi tiên" Lý Bạch, "thi thánh" Đỗ Phủ là hai ngôi sao sáng, ngoài ra còn có rất nhiều nhà thơ xuất sắc khác như Hạ Tri Chương, Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Duy... Trong chính đàn có những tài năng tinh thông lại đạo, trị thế như Diêu Sùng, Tống Cảnh, Trương Thuyết, Trương Cửu Linh. Ngoài ra còn có "họa thánh" Ngô Đạo Tử, nhà soạn nhạc Lý Quy Niên, nhà thiên văn học Tăng Nhất Hành... Quả là nhân tài đông đúc như những vì sao xán lạn đây chính là nguồn gốc của sự hưng thịnh buổi Khai Nguyên và cũng là cảnh độc bước thiên hạ của vương triều đại Đường.
Chúng tôi thường cho rằng sự thịnh vượng của thời kỳ Khai Nguyên là kết quả của "chế độ Trinh Quán" do Đường Thái Tông sáng lập và sự kế thừa, phát huy của Đường Cao Tông, Võ Tắc Thiên. Nếu nhìn toàn cục xu hướng phát triển lịch sử thì điều này không sai vì từ sau khi đất nước thống nhất, thiên hạ thái bình, trong giai đoạn gần một trăm năm từ thời Trinh Quán đến thời kỳ Khai Nguyên, về lý mà nói đương nhiên sẽ có kết quả là sự cường thịnh của vương triều đại Đường. Nhưng cũng không thể vì thế mà phủ định rằng nếu không có diệu sách trị quốc của Đường Huyền Tông, vị vua chấp chính thời đó thì không thể có kết quả này. Vì trong lịch sử, hiện tượng "cả một việc lớn chỉ vì thiếu một chút sức người sức của mà không thể hoàn thành" thường xuyên xảy ra.
Trên thực tế, sau "ngũ vương chính biến" lật đổ Võ Tắc Thiên năm 705 sau Công nguyên, chính quyền nhà Đường luôn ở trong tình trạng biến loạn. Đến khi Đường Huyền Tông lên ngôi ông đã phải đối mặt với một tình trạng lộn xộn: Chính biến kéo dài làm lực lượng tập quyền trung ương suy yếu quan viên rườm rà rối rắm, vương công quý tộc kéo bè kết phái. Thêm vào đó là chiến tranh biên giới liên miên, tình hình rất căng thẳng. Cả một vùng Hà Bắc, Long Thạch trở thành nơi bị nhung mã giày xéo, luôn luôn đe dọa sự an toàn của vương triều. Đất đai thôn tính nghiêm trọng, lưu manh vô số tô thuế suy giảm không đủ cho quốc gia dùng. Vương triều nhà Đường rơi vào tình thế rất nghiêm trọng khi mà nguy cơ đầy rẫy, tài chính túng bấn.
Đứng trước tình hình đó, Đường Huyền Tông đã sáng suốt nghĩ đến vấn đề nhân tài, ông rất quyết đoán trong việc dùng kế "lấy nhân làm gốc", mạnh dạn dùng những người có phương pháp trị thế làm tể tướng, tin tưởng những cuộc cách tân triều chính rất mới mẻ, mạnh dạn của họ, nhờ vậy mà thay đổi được chính cục.
Người đầu tiên được Đường Huyền Tông dùng là Diêu Sùng, một người theo chủ nghĩa duy vật. Đây là một chính trị gia tài giỏi, quyết đoán, ngay từ thời Võ Tắc Thiên còn chấp chính đã từng làm Tể tướng, giải quyết được rất nhiều việc quốc gia đại sự và rất có danh tiếng. Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đã bỏ qua sự ngăn cản của rất nhiều đại thần, lợi dụng việc đi săn để mật triệu Diêu Sùng đến, mời làm Thượng thư bộ binh để cùng lo việc triều chính. Diêu Sùng trở thành vị Tể tướng đầu tiên của thời kỳ Khai Nguyên, quả không phụ lòng trông đợi, ông xử lý các chuyện đại sự quốc gia một cách rất minh mẫn, lại giỏi việc phân tích và nắm bắt thời cơ, nhanh chóng xóa bỏ các tệ nạn chính trị, tiến hành cải cách hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự nên được gọi là "cứu thời tể tướng".
Vị Tể tướng thứ hai của thời kỳ Khai Nguyên tiếp sau Diêu Sùng là Tống Cảnh. Tống Cảnh và Diêu Sùng có tác phong chính trị hoàn toàn khác nhau. Diêu Sùng thiên về sự linh hoạt trong ứng biến, là người luôn ôm đồm từ chuyện lớn đến chuyện bé nhưng lại có thể dứt điểm một cách nhanh chóng. Tống Cảnh lại chú ý đến "thủ pháp tri chính", chú trọng đến việc dùng người. Ông là người biết chọn đúng người để dùng, chấp pháp vô tư. Đối với những kẻ quyền thế mà không có tài đức thì ông không bao giờ để ý đến. Trước khi làm Tể tướng, ông mới chỉ là Đô đốc của Quảng Châu, Đường Huyền Tông đã sai hoạn quan Dương Tư Húc đi đón. Mà Dương Tư Húc về quyền thế lúc đó chỉ đứng sau Cao Lực Sĩ, vậy mà trên đường đi phải nhận lấy thái độ lạnh nhạt, không để ý gì của Tống Cảnh. Dương Tư Húc hồi cung lập tức khóc lóc kể tội với Đường Huyền Tông, không ngờ Đường Huyền Tông lại nói người tài như vậy rất hiếm. Sau này mọi lời tấu, tất cả những bài viết của Tống Cảnh đều được coi là cách ngôn. Trong thời kỳ Tống Cảnh làm Tể tướng, trên cơ sở những thành công của Diêu Sùng, ông tiếp tục tiến hành cải cách mạnh dạn những tệ nạn chính trị còn sót lại, mở ra một cục diện mới "thuế khóa lao dịch rộng rãi, hình phạt rõ ràng, dân chúng ấm no" trong những năm đầu Khai Nguyên.
Người đời sau nói về những hiền minh tể tướng đời Đường là. "Trước có Phòng (Phòng Huyền Linh), Đỗ (Đỗ Như Hối), sau có Diêu, Tống, các tể tướng khác không ai có thể so sánh với bọn họ".
Tiếp sau Tống Cảnh lần lượt có Trương Gia Trinh, Trương Thuyết, Lý Nguyên Hoành, Đỗ Xiêm làm tể tướng. Những người này tuy không bằng Diêu, Tống nhưng mỗi người đều có khả năng riêng và đều có những đóng góp nhất định cho công cuộc chỉnh đốn kỷ cương, cải cách tệ nạn chính trị, phát triển kinh tế cho sự thịnh vượng của thời kỳ Khai Nguyên. Các nhà sử học đã khen Đường Huyền Tông biết chọn nhân tài "tất cả các Tể tướng, Diêu Sùng thượng thông, Tống Cảnh thượng pháp, Trương Gia Trinh thượng lại, Trương Thuyết thượng nghĩa, Lý Nguyên Hoành, Đỗ Xiêm thượng kiệm, Triều Hưu, Trương Cửu Linh thượng trực, ai cũng có ưu điểm riêng".
Đường Huyền Tông biết "lấy nhân làm gốc", chủ động, mạnh dạn chọn dùng nhân tài làm Tể tướng nên trở thành vị hoàng đế thời thịnh. Nhưng tục ngữ có câu "Thịnh cực tất suy". Quả nhiên là vậy, "Thiên bảo nguy cơ" đã lặng lẽ xuất hiện trong "Thịnh Đường chi âm". Năm Thiên Bảo thứ 15 (năm 755 sau Công nguyên), một kẻ võ phu là An Lộc Sơn đã vùng dậy, hoàng đế tiếng tăm lừng lẫy như Đường Huyền Tông phải rơi vào tình thế hoảng hốt bỏ chạy, ngay cả tính mạng của Dương Quý phi là người được sủng ái cũng không bảo vệ nổi. Nhà Đường rơi vào đường cùng. Vương triều đại Đường do Đường Huyền Tông thống trị sao lại nhanh chóng rơi vào thế suy thoái đến vậy? Điều này có liên quan đến việc thời kỳ đó Đường Huyền Tông đã tùy tiện trọng dụng bọn Dương Quốc Trung, Lý Lâm Phủ, An Lộc Sơn. Có thể thấy kế “lấy nhân làm gốc" chính là kế sách của việc đại sự hưng quốc an bang.
Trong việc trị nước cần phải dùng kế "lấy nhân làm gốc" thì trong sự hưng thịnh của doanh nghiệp cũng phải nhớ kỹ kế đó. Từ câu chuyện "ba lần lên xuống của công ty Ford" dưới đây sẽ khiến chúng ta hiểu rõ hơn vấn đề này.
Henry Ford sinh năm 1863 trong một gia đình làm ở nông trường. Sau những nỗ lực vô cùng gian khổ, Ford vốn khởi nghiệp gần như từ hai bàn tay trắng cùng với người kế nhiệm của mình đã làm nên một kỳ tích khiến người đời phải ngưỡng mộ. Đến cuối những năm 70, mức tiêu thụ của xe Ford chỉ đứng sau công ty dầu khí Exxon và công ty xe hơi General, trở thành một công ty đứng thứ ba trong các công ty lớn của Mỹ với tổng số vấn lên tới 22,1 tỉ đô la và số công nhân lên tới hơn 300.000 người. Nhưng một công ty hưng thịnh như vậy chỉ có mấy lần "nóng giận mất khôn" tự làm mất đi người lãnh đạo có công lao rất lớn nên liên tiếp rơi vào tình cảnh khó khăn.
Lần khó khăn đầu tiên là vì Henry Ford đã sa thải tổng giám đốc Kusian. Mãi cho đến khi đời Ford thứ hai năm lần bảy lượt mới mời được Boris làm giám đốc thì công ty Ford mới có sự biến đổi, thoát ra khỏi tình trạng khó khăn. Năm 1960, công ty Ford trở lại thời kỳ phát triển cực thịnh. Không ngờ đến đời thứ hai của Ford lại phạm phải sai lầm cũ. Trong một lần tức giận ông đã nói với Boris: "Tôi đã tốt nghiệp rồi đấy!". Thế là Boris rời khỏi ghế giám đốc, công ty Ford cũng vì thế mà như bị tê liệt bởi đã rút hết xương tủy.
Sự công kích mạnh nhất đối với công ty Ford là từ sau khi họ đột nhiên cách chức giám đốc điều hành của Adedao năm 1978. Khi Adedao làm giám đốc điều hành ở công ty Ford, ông là một người biết nhìn xa trông rộng, luôn tìm cách đưa ra những loại xe mới: năm 1964 loại xe ngựa hoang ra đời và ngay trong năm đó đã bán được 420.000 chiếc, lập kỷ lục mới về lượng tiêu thụ xe, loại xe kiểu dáng nhỏ gọn khiến cho công ty Ford vẫn duy trì được mức lợi nhuận khổng lồ, tốc độ phát triển chỉ có tăng mà không giảm trong giai đoạn những năm 70 khi đang diễn ra cuộc khủng hoảng về dầu khí. Công ty Ford luôn luôn dẫn đầu, bỏ xa các đối thủ, Adedao cũng được coi là người sắc sảo khôn ngoan, danh tiếng nổi như cồn. Không ngờ thành công lại dẫn đến sự ghen ghét đố kỵ, đời Ford thứ hai sợ rằng công lao nhiều quá sẽ qua mặt chủ nên dùng hàng loạt nhưng biện pháp không lấy gì vẻ vang cho lắm để cuối cùng sa thải Adedao.
Ford khuyên Adedao đừng nhận lời làm việc cho các công ty khác và sẽ nâng lương hàng năm từ 360.000 khi còn đang tại chức lên triệu đô la tiền lương hưu. Nhưng đối với một người đầy tài năng và học vấn như vậy đời nào lại hài lòng với khoảng tiền 1triệu đô la nhỏ bé. Ông quyết định không chịu khuất phục số mệnh, sau khi liên tiếp từ chối những lời mời đến làm việc với những ưu đãi hậu hĩnh cho các công ty giấy quốc tế học viện thương mại đại học New York.. để nhận lời làm chủ công ty xe hơi Claire lúc đó đang rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng và đứng bên bờ vực phá sản, đồng thời chủ động giảm lương của mình xuống 10.000 đô la. Chẳng bao lâu công ty Claire tưởng như không thể vực dậy nữa đã vươn lên sắp đuổi kịp Ford. Lúc này Ford mới phát hiện ra rằng việc sa thải đó không chỉ mất đi một nhân tài mà còn là việc đã vứt bỏ đi tấm lòng của một con người tài giỏi sẵn sàng hiến thân vì công ty. Thị trường đang dần dần mất đi, nhân tài cũng không ngừng chuyển sang công ty của Adedao. Những bạn hàng thân thiết ngày xưa giờ cũng trở thành một trong những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất, còn Adedao trở thành nhân vật làm mưa làm gió một thời ở Mỹ. Đến lúc này Ford mới thật sự hiểu ra hàm nghĩa của câu "lấy nhân làm gốc". Và thế là ông đã cố gắng nhanh chóng tuyển một "Adedao" khác để tránh cho công ty không bị trượt dốc xuống vực sâu không đáy từ đỉnh cao cường thịnh.