MƯU CHUYỆN LÂU DÀI
Cũng giống như tự do, vàng chưa bao giờ chịu
khuất phục đến mức phải hạ thấp giá trị của nó.
Maurier - 1878.
Năm 1850, London được coi là vầng thái dương của
hệ thống tài chính thế giới. Năm 1950, New York đã trở thành trung tâm tài
chính toàn cầu. Vậy năm 2050, thành phố nào sẽ chiếm ngôi bá chủ tài chính quốc
tế?
Kinh nghiệm của loài người trong lịch sử đã
chứng tỏ rằng, những quốc gia hoặc khu vực đang nổi luôn tạo ra những giá trị
to lớn về của cải vật chất với một sức sản xuất dồi dào hơn nhằm bảo đảm nguồn
của cải của mình không bị lực lượng tiền tệ rẻ mạt của kẻ khác tước đoạt mất
trong quá trình giao dịch. Những khu vực này luôn có động lực nội tại duy trì
nguồn tiền tệ, giống như đồng bảng Anh bằng vàng vững chắc trong thế kỷ 19 hay
đồng đô-la Mỹ bằng bạc và vàng thống soái toàn cầu trong thế kỷ 20. Xưa nay,
của cải thế giới luôn tự động chảy về nơi có thể đảm bảo giá trị của chúng. Hệ
thống tiền tệ vững chắc ổn định lại thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công xã hội và sự
phân bố hợp lý nguồn vốn cũng như tài nguyên thị trường, từ đó mà hình thành
nên kết cấu kinh tế càng có hiệu suất hơn, của cải được sáng tạo ra càng nhiều
hơn.
Ngược lại, khi một quốc gia cường thịnh bắt đầu
đối mặt với sự phá sản, sức sản xuất của xã hội không ngừng giảm sút, những
khoản chi chính phủ hoặc chi phí chiến tranh khổng lồ dần dần vét sạch mọi sự
tích luỹ từ trước, chính phủ sẽ bắt đầu chiến lược giảm giá tiền tệ hòng thoát
khỏi những khoản nợ chồng chất đồng thời đục khoét của cải của nhân dân. Lúc
này, của cải sẽ không thể chảy ngược ra ngoài tìm đến những nơi có thể che chở
cho nó.
Việc tiền tệ có vững mạnh hay không đã trở thành
một dấu hiệu xuất hiện đầu tiên phản ánh sự thịnh suy của một quốc gia. Năm
1914, khi ngân hàng Anh tuyên bố đình chỉ việc hoán đổi vàng của đồng bảng Anh
thì sự hùng mạnh của đế quốc Anh đã một đi không trở lại. Năm 1971, khi Nixon
đơn phương đóng cửa thị trường vàng thì thời hoàng kim của Hoa Kỳ chỉ còn là
hoài niệm. Nội lực của nước Anh đã tiêu tan một cách nhanh chóng trong khói lửa
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, còn nước Mỹ thì may mắn có thể duy
trì sự phồn vinh trong một khoảng thời gian ngấn khi thế giới không có những
cuộc chiến tranh lớn. Nhưng thực tế thì đó chỉ là hiện tượng “mạnh bạo xó bếp”
như cha ông ta vẫn thường nói.
Nhìn từ góc độ lịch sử, chúng ta thấy rằng, quốc
gia nào thao túng thị trường, hạ giá tiền tệ hòng lừa gạt chiếm đoạt của cải
thì cuối cùng cũng sẽ bị của cải đè bẹp.
1.
Tiền tệ: Thước đo của kinh tế thế giới
Tiền tệ là thước đo cơ bản nhất, hạt nhân nhất
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, vai trò của tiền tệ cũng giống như các đại
lượng đo lường quan trọng nhất như kilogam, mét, giây trong thế giới vật lý
vậy. Mỗi một hệ thống tiền tệ đều dao động mãnh liệt mỗi ngày, và giống như
định nghĩa kilogam, mét, giây, hệ thống tiền tệ cũng chứa đựng những sai lầm và
vô lý.
Nếu có thước đo trong tay mà độ dài ngắn ngày
này chẳng giống ngày kia thì các công trình sư phải làm thế nào để thi công một
toà cao ốc cao đến mấy chục tầng? Và cho dù là xây dựng được đi nữa thì ai dám
vào ở?
Nếu như tiêu chuẩn thời gian tính bằng giây
trong thi đấu thể thao cứ thay đổi xoành xoạch một cách tuỳ tiện thì vận động
viên làm sao có thể thực hiện việc so sánh thành tích thi đấu ở những cuộc đấu
khác nhau?
Nếu như quả cân tiêu chuẩn của một thương gia
vốn được mọi người tin dùng nhưng mỗi ngày lại được chủ nhân của nó thay đổi
một chút (khiến cân không còn ổn định và chính xác nữa), thì còn ai dám làm ăn
với ông ta?
Một trong những vấn đề căn bản của kinh tế thế
giới ngày nay chính là không có một tiêu chuẩn đo lường tiền tệ ổn định và hợp
lý, do đó chính phủ không thể tính toán chính xác quy mô của đời sống kinh tế,
doanh nghiệp khó phán đoán chính xác tính hợp lý trong đầu tư dài hạn, bất cứ
sự quy hoạch dài hạn nào của người dân đối với tài sản đều mất đi hệ tham chiếu
an toàn. Vai trò của tiền tệ đối với nền kinh tế dưới sự thao túng tuỳ tiện và
võ đoán của các ngân hàng đã làm sai lệch sự phân phối hợp lý của nguồn vốn thị
trường một cách nghiêm trọng.
Khi tính toán lợi nhuận của việc đầu tư cổ
phiếu, công trái, bất động sản, sản xuất, mậu dịch hàng hoá, hầu như mọi người
chẳng thể nào hạch toán chính xác lợi nhuận đầu tư, bởi vì rất khó tính được
mức độ co lại trong sức mua của tiền tệ.
Từ năm 1971, sau khi thoát ly hoàn toàn khỏi
vàng, sức mua của đồng đô-la Mỹ đã giảm xuống 94,4%, một đô-la Mỹ ngày nay chỉ
đáng giá bằng 5,6 cent của thời kỳ đầu những năm 70.
“Hộ một vạn đồng“ là tiêu chí giàu có trong thập
niên 80 ở Trung Quốc, còn trong thập niên 90, thuật ngữ này chỉ mức bình quân
thu nhập thành thị, theo đó, giờ đây, người nào có mức thu nhập gia đình hàng
năm vào khoảng một vạn đồng thì đã có thể được xếp vào loại “hộ nghèo”.
Các nhà kinh tế học chỉ “quan tâm” tới mức độ
lạm phát của vật giá tiêu dùng, nhưng hiện tượng lạm phát tiền tệ tư sản cao
đến mức khiến người ta khiếp sợ thì lại chẳng có ai chú ý. Chế độ tiền tệ như
vậy là sự nghiêm trị tàn khốc đối với người tích luỹ, và điều này giải thích lý
do tại sao cho dù thị trường cổ phiếu và bất động sản hết sức nguy hiểm nhưng
nếu không đầu tư, người ta sẽ càng lâm vào cảnh nguy hiểm hơn.
Khi mua nhà, người mua được ngân hàng cấp cho
một tờ giấy được gọi là biên nhận nợ. Các ngân hàng chẳng có nhiều tiền nhưng lại
có thể tạo ra tiền, và tờ biên lai nợ lập tức bị hệ thống ngân hàng “tiền tệ
hoá” khiến cho lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường tăng lên chóng mặt, đẩy
mức vật giá bình quân của toàn xã hội lên cao, đặc biệt là trong lĩnh vực nhà
đất. Cho nên, khi không có các khoản vay bất động sản thì giá nhà không thể có
mức cao như vậy, và mặc dù ngân hàng tuyên bố rằng họ giúp người dân gánh vác
chi phí nhà ở, nhưng kết quả thì hoàn toàn ngược lại.
Các khoản cho vay bất động sản của ngân hàng
cũng chẳng khác gì khoản thu nhập trong 30 năm tới của người dân bỗng dưng “bốc
hơi” trong chốc lát. Và như vậy, giá nhà cửa, trị trường cổ phiếu, thị trường
tín dụng có lý nào không tăng đột biến? Ngay sau khi mọi của cải tích luỹ trong
30 năm tới của người dân bốc hơi hết, giá bất động sản cũng trở nên cao chót
vót tới mức người có thu nhập bình thường không thể nào với tới được. Nhằm giúp
người dân có thể gánh vác được những khoản nợ và đối chọi với tình hình căng
thẳng về giá bất động sản, các nhà ngân hàng đã thí điểm “sự cách tân vĩ đại”
của “khoản nợ bất động sản suốt đời” tại Anh và Mỹ.
Nước Anh đã đưa ra khoản vay bất động sản đến 50
năm, còn ở bang California của Mỹ, người ta đang chuẩn bị thử nghiệm việc thế
chấp tài sản kéo dài 45 năm. Và nếu như việc thí điểm này thu được thành công
thì các khoản tiền tệ vay mượn sẽ xuất hiện với quy mô lớn hơn, thị trường bất
động sản sẽ chào đón một “mùa xuân xán lạn” hơn, trong khi những người vay nợ
ngân hàng sẽ bị trói chặt suốt đời vào các khoản nợ này, còn những người không
mua nhà thì càng nghèo xơ xác. Vậy nếu như bữa tiệc nợ 50 năm của dân vẫn không
thể làm no bụng các nhà ngân hàng thì sao? Chỉ e rằng, sẽ có ngày các hình thức
“vay khế chấp vượt thời đại” theo kiểu “nợ cha con trả”, “nợ ông cháu trả“ cũng
sẽ được tạo ra.
Trong khi khoản dự trữ ngoại hối 1 nghìn tỉ
đô-la khiến người ta hân hoan thì các nhà tài phiệt ngân hàng lại cần phải phát
hành thêm 8 nghìn tỉ nhân dân tệ để mua những “biên lai nợ của nước Mỹ”. Nếu đi
vào lưu thông trong hệ thống ngân hàng thì toàn bộ số tiền phát hành thêm này
sẽ được phóng đại lên gấp 6 lần. Nói chung là cần phải hoàn trả lãi suất công
trái quốc gia, nhưng vấn đề là ai sẽ hoàn trả? Câu trả lởi là: người dân đóng
thuế.
Khi giáo dục và y tế cũng được tiến hành “công
nghiệp hoá” và chốc lát biến thành “tài sản độc chiếm” trong chế độ tài nguyên
công cộng của toàn xã hội thì lợi nhuận của nó có lý nào không tăng vọt?
Trong khi chứng cứ giao dịch giữa các công ty
trở thành loại “giấy nợ”, ngân hàng sẽ thu mua những thứ “giấy nợ” này với một
mức chiết khấu nhất định để làm “tài sản” của ngân hàng, đồng thời “sáng tạo
ra” tiền tệ mới.
Trong khi người dân dùng thẻ tín dụng để chi
tiêu thì mỗi một tờ giấy có chữ ký phía sau đều trở thành một tờ giấy nợ, mỗi
tờ giấy nợ đều trở thành “tài sản” của ngân hàng, mỗi khoản “tài sản” của ngân
hàng đều trở thành tiền tệ phát hành thêm, hay nói cách khác, mỗi lần quét thẻ
là một lần người ta tạo ra tiền tệ mới.
Nợ, nợ, và nợ. Đồng nhân dân tệ đang trượt nhanh
xuống vực sâu của đồng tiền nợ.
Nhưng điều khác với Mỹ là Trung Quốc chưa có thị
trường công cụ tài chính phái sinh “phát đạt” như của Mỹ để có thể hấp thu
những khoản tiền phát hành thêm này. Sự tràn lan có tính lưu động này sẽ tập
trung vào thị trường bất động sản và thị trường tín dụng hay cổ phiếu, hầu như
chẳng có thủ đoạn nào có thể khống chế hiệu quả nạn “lạm phát tiền tệ tư sản
siêu cấp” trong những lĩnh vực này. Câu chuyện thần thoại về thị trường cổ
phiếu, sự nóng bỏng của bất động sản năm đó của Nhật sẽ tài hiện ở Trung Quốc.
Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đang chờ đợi
một vở kịch hay từ quả bóng siêu hạng của nền kinh tế Đông A khác. Khi nói rằng
nền kinh tế Trung Quốc khó làm nên trò trống gì, chẳng phải là bà Thatcher đang
muốn hù doạ hay sao? Mà kiến thức của những người như bà về nền kinh tế bong
bóng này có thể nói là rất sâu rộng. Trong khi quả bong bóng tiền tệ nợ phình
lên đến mức độ nhất định, các nhà kinh tế học nổi tiếng quốc tế sẽ từ các xó
xỉnh chui ra, những tin tức phản diện và lời cảnh báo đối với nền kinh tế Trung
Quốc sẽ trở thành các tiêu đề lớn xuất hiện dày đặc trên phương tiện truyền
thông chính của thế giới. Và lúc này, các sát thủ kinh tế đã không còn nhẫn nại
sẽ cùng nhau xông lên như bầy ác thú khiến cho các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế hồn lạc phách xiêu.
Một khi chế độ dự trữ vàng cục bộ và tiền vay nợ
được giải phóng, sự phân hoá giàu nghèo trên thế giới được xác định, trong xã
hội sẽ xuất hiện những người chuyên đi vay tiền ngân hàng mua sắm của cải để
hưởng thụ “lợi ích” của lạm phát lưu thông tiền tệ, Ngay sau khi chế độ dự trữ
vàng cục bộ và tiền vay nợ lũng đoạn được “thông lệ“ của ngân hàng quốc tế,
trong khi những người dân tích luỹ mất đi các công cụ để bảo vệ tài sản của
mình thì các ngân hàng lại là những người gặt hái được nhiều lợi nhuận nhất.
Tiền nợ và chế độ dự trữ vàng cục bộ sẽ tạo ra
“n” sự mất giá của loại tiền tệ “giấy nợ + sự hứa hẹn” này, với “thước đo liên
tục mất giá như vậy, thì nền kinh tế làm sao có thể đủ sức phát triển ổn định
và hài hoà được?
Trong thời đại mà cụm từ “tiêu chuẩn hoá“ luôn
thường trực trên môi người đời nhưng lại không có bất cứ chuẩn mực nào trong
việc đo lường tiền tệ thì điều này chẳng phải là ngớ ngẩn hay sao?
Trong khi bản chất của chế độ dự trữ vàng cục bộ
và tiền tệ nợ được chúng ta thấu hiểu thì sự hoang đường của nó cũng sẽ lộ rõ.
Không có một thước đo tiền tệ ổn định thì không
thể có được nền kinh tế phát triển cân bằng, không thể có được nguồn vốn thị
trường được phân phối hợp lý, và đương nhiên sẽ tạo nên sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội, khiến cho của cải của xã hội dần rơi vào tay ngành tài chính,
việt xã hội trở nên hài hoà chỉ có thể là điều huyễn hoặc mà thôi.
2.
Vàng và bạc: Bùa ổn định giá cả
Ngày 13 tháng 7 năm 1974, tạp chí The
Economist đã đăng tải một bản báo cáo thống kê vật giá trong suốt thời
kỳ cách mạng công nghiệp Anh khiến người ta phải kinh ngạc.
Trong khoảng thời gian 250 năm từ năm 1664 đến
năm 1914, dưới sự vận hành của bản vị vàng, vật giá tại Anh đã duy trì được xu
thế bình ổn và giảm nhẹ. Trong thế giới ngày nay, không thể nào tìm ra một quốc
gia thứ hai có thể duy trì chỉ số vật giá bình ổn lâu dài và liên tục không
ngừng như vậy.
Sức mua của đồng bảng Anh được đảm bảo tính ổn
định đáng kinh ngạc. Nếu chỉ số vật giá của năm 1664 được xác lập là 100, thì
trừ thời kỳ chiến tranh Napoleon (năm 1813) có mức vật giá tăng tạm thời đến
180, trong khoảng thời gian còn lại chỉ số vật giá đều thấp hơn tiêu chuẩn của
năm 1664.
Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng
nổ vào năm 1914, chỉ số vật giá của Anh là 91. Hay nói cách khác, dưới thể chế
của bản vị vàng, sức mua của một đồng bảng Anh tại thời điểm năm 1914 còn mạnh
hơn một đồng bảng Anh của 250 năm trước (năm 1664).
Dưới chế độ bản vị vàng và bạc, tình hình giá cả
cũng tương tự như vậy. Năm 1787, Điều 8 Chương 1 hiến pháp Mỹ trao quyền cho
Quốc hội phát hành và định giá tiền tệ.
Điều 10 quy định rõ ràng, tất cả các bang không
được dùng bất cứ một loại tiền tệ nào không được quy định ngoài vàng và bạc để
chi trả nợ nần, từ đó đã xác định rõ tiền tệ của Mỹ cần phải lấy vàng và bạc
làm cơ sở. “Pháp lệnh tiền đúc 1792” đã xác lập đồng 1 đô-la Mỹ là đơn vị cơ
bản của tiền tệ Mỹ, định giá chính xác của 1 đồng đô-la Mỹ là gồm 24,1g bạc
thuần, định giá của 10 đô-la Mỹ là gồm 16g vàng thuần. Bạc trắng được dùng làm
cơ sở của hệ thống tiền đô-la Mỹ. Tỉ giá giữa vàng và bạc là 15:1. Bất kể người
nào pha loãng độ thuần chất của đồng đô-la Mỹ, khiến cho đồng đô-la Mỹ mất giá
trị đều sẽ đối mặt với án tử hình.
Năm 1800, chỉ số vật giá của Mỹ ở vào khoảng
102,2, đến năm 1913, chỉ số này hạ xuống còn 80,7. Trong suốt thời kỳ xảy ra
những biến đổi lớn trong công nghiệp hoá của Mỹ, biên độ dao động vật giá không
vượt quá 26%, còn trong thời đại bản vị vàng từ năm 1879 đến năm 1913, biên độ
dao động vật giá ở mức 17%. Trong suốt 113 năm với những biến đổi lớn trong
lịch sử công nghiệp hoá đất nước và phát triển sản xuất của Mỹ, tỉ lệ lạm phát
tiền tệ bình quân hầu như là bằng 0, dao động giá cả hàng năm không quá
1,3%(1).
Tương tự dưới bản vị vàng, tiền tệ của các quốc
gia chủ yếu ở châu Âu trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp cũng duy trì được tính ổn định cao độ như vậy.
Đồng francs Pháp, từ năm 1814 đến 1914 ổn định
100 năm.
Đồng florin Hà Lan, từ năm 1816 đến năm 1914, ổn
được 98 năm.
Đồng francs Thụy Sĩ, từ năm 1850 đến năm 1936,
ổn định được 86 năm.
Đồng francs Bỉ, từ năm 1832 đến năm 1914, ổn
định được 82 năm.
Đồng khoa Thuỵ Điển, từ năm 1873 đến năm 1931,
ổn định được 58 năm.
Đồng mác Đức, từ năm 1875 đến năm 1914, ổn định
được 39 năm.
Đồng lia ý, từ năm 1883 đến năm 1914, ổn định
được 31 năm(2).
Mises đã đánh giá bản vị vàng là thành tựu cao
nhất trong toàn bộ nền văn minh phương Tây ở thời đại hoàng kim của chủ nghĩa
tư bản. Nếu không có một thước đo tiền tệ ổn định và hợp lý, sức sáng tạo của
cải vô cùng lớn mà nền văn minh phương Tây đã thể hiện ra trong giai đoạn phát
triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản sẽ là một chuyện vượt ngoài sức tưởng
tượng.
Hệ thống giá cả ổn định cao được hình thành
trong quá trình tiến hoá tự nhiên của vàng và bạc trên thị trường, có thể khiến
cho các nhà hoạch định kinh tế “thiên tài” của thế kỷ 20 xấu hổ toát mồ hôi
hột. Vai trò tiền tệ của vàng và bạc được xem là sản phẩm của quá trình tiến
hoá tự nhiên, là sản phẩm của nền kinh tế thị trường chân chinh, là tiền tệ
thực đáng tin cậy của loài người.
Cái được gọi là thước đo tiền tệ chính là cái
không bị thay đổi vì bản tính tham lam của những trùm tài chính, vì sự hiếu
chiến của chính phủ hay vì sự dầu cơ lợi ích của các nhà kinh tế học “thiên
tài”. Trong lịch sử chỉ có tiền vàng và bạc - sản phẩm được sinh ra từ sự tiến
hoá tự nhiên của thị trường - mới có thể làm được điều này, và trong tương lai
cũng chỉ có vàng và bạc mới có thể gánh vác được trọng trách lịch sử này. Chỉ
có vàng và bạc mới có thể bảo vệ thực sự cho tài sản của nhân dân cũng như sự
phân bố hợp lý các nguồn tài nguyên trong xã hội.
Các nhà kinh tế học đương đại có một thứ quan
điểm khá thịnh hành khi cho rằng tốc độ gia tăng của vàng và bạc không thể đuổi
kịp tốc độ gia tăng của của cải, dưới hệ thống tiền tệ là vàng và bạc, tình
trạng thiếu hụt tiền tệ sẽ xảy ra, mà điều này lại là kẻ thù cố hữu của mọi nền
kinh tế. Trên thực tế thì đây chỉ là một quan điểm chủ quan cá nhân sai lầm.
Luận điểm xuyên tạc “lạm phát tiền tệ hợp lý“ hoàn toàn là cơ sở lý luận được
tạo nên bởi sự hợp sức của nhà ngân hàng quốc tế và nhóm Keynes với mục đích
chính là phế bỏ bản vị vàng, từ đó thông qua thủ đoạn lạm phát tiền tệ để “thu
thuế một cách kín đáo” đối với người dân, tiến hành cướp đoạt và ăn cắp một
cách “sạch sẽ” của cải của nhân dân. Từ thực tiễn xã hội của các quốc gia chủ
yếu ở Âu Mỹ như Anh và Mỹ thế kỷ 17 đến nay, sự thực không thể bác bỏ đã chứng minh
rằng sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội hoàn toàn không gây nên lạm phát
tiền tệ. Trên thực tế, hai nước Anh, Mỹ đều đã hoàn thành cuộc cách mạng công
nghiệp trong tình hình thiếu hụt tiền tệ lưu thông ở mức độ nhẹ.
Vấn đề thực sự chưa hẳn là tốc độ tăng trưởng
của vàng và bạc không theo kịp tốc độ tăng trưởng của của cải mà là không theo
kịp tốc độ tăng trưởng của công nợ. Và lạm phát công nợ mới có hại cho sự phát
triển xã hội.
3.
Khối mỡ công nợ và GDP giảm béo
Mô hình phát triển kinh tế với sự tăng trưởng
GDP cũng chẳng khác nào việc tăng thể trọng là nhiệm vụ trọng tâm của sức khoẻ
vậy. Việc chính phủ dùng chính sách lấy bội chi tài chính để kéo kinh tế tăng
trưởng cũng chẳng khác nào dùng chất kích thích để tăng cường thể trọng vậy. Và
tiền tệ công nợ chính là phần chất béo được phát triển thêm.
Một người mà trông cứ ngày thêm phì nộn thì liệu
anh ta có thật sự khỏe mạnh không?
Mô hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia
không nằm ngoài hai dạng thức sau: một là do của cải chân chính có được từ sự
tích luỹ, sau đó những nguồn vốn vàng bạc thật này được dùng vào đầu tư, từ đó
lại tạo nên của cải thực tại nhiều hơn trước, kinh tế xã hội cũng nhờ đó mà
tiến bộ, điều mà sự tăng trưởng kinh tế theo mô hình này mang lại chính là sự
phát triển của phần cơ thịt của nền kinh tế, sự cứng cáp khỏe mạnh của gân cốt
nền kinh tế, sự cân bằng trong phân bố dinh dưỡng của nền kinh tế. Tuy hiệu quả
trước mắt là chậm chạp, nhưng chất lượng tăng trưởng cao, ít gây ra tác dụng
phụ.
Một mô hình khác chính là dùng các khoản vay nợ
để kích hoạt sự tăng trưởng của nền kinh tế khiến quốc gia, doanh nghiệp và cá
nhân phải gánh chịu những khoản nợ khổng lồ. Sau khi được tiền tệ hoá qua hệ
thống ngân hàng, những khoản nợ này lại tăng lên với những con số khổng lồ và
gây cho người ta cảm giác rằng của cải đang được tăng lên như thể quả bong bóng
được bơm căng vậy. Vì vậy, tiền tệ đương nhiên sẽ trở nên mất giá dẫn đến sự
cách biệt nghiêm trọng trong phân hoá giàu nghèo mà hậu quả của nó là lượng mỡ
dư thừa của nền kinh tế đang càng ngày càng tăng lên. Việc phát triển kinh tế
theo mô hình dùng nợ để kích thích chẳng khác nào người ta dùng thuốc kích
thích tăng trưởng tiêm vào cơ thể nhằm trở nên béo tốt một cách cấp tốc, tuy
hiệu quả là rõ rệt chỉ sau một thời gian ngắn, song tác dụng phụ tiềm ẩn của
những thứ hoóc-mon tăng trưởng cấp kỳ ấy cuối cùng rồi cũng sẽ dẫn đến đủ loại
biến chứng bột phát. Và đến khi đó, các loại thuốc mà cơ thể của nền kinh tế
nhất định phải cần dùng đến ngày càng nhiều để rồi cứ thế đầu độc hệ thống nội
tiết của cơ thể nền kinh tế, gây ra sự nổi loạn triệt để của môi trường sinh
thái bên trong cơ thể, cuối cùng là vô phương cứu chữa.
Căn bệnh đầu tiên mà công nợ sinh ra chính là
chứng cao huyết áp trong nền kinh tế - nạn lạm phát tiền tệ, đặc biệt là lạm
phát tài sản. Ở một phương diện khác, chứng bệnh này lại dẫn đến tình trạng dư
thừa trong sản xuất, tạo ra sự xáo trộn về cấu trúc của nền kinh tế, gây lãng
phí lớn cho nguồn vốn thị trường, tạo ra cuộc chiến giá cả khốc liệt trong sản
xuất cũng như nạn lạm phát hàng hoá tiêu dùng. Gia đình được xem là tế bào
chính của cơ thể nền kinh tế, vậy nhưng, tế bào này đang bị đe doạ không chỉ
bởi nạn lạm phát tiền tệ mà còn bởi tình trạng giãn thợ đang tăng lên hàng
ngày. Những điều này đã làm suy giảm sức tiêu thụ trong dân chúng và khiến cho
cơ thể nền kinh tế thiếu đi sức sống.
Một chứng bệnh khác do khối mỡ công nợ tạo nên
chính là lượng mỡ cao trong máu của nền kinh tế.
Ngay sau khi các khoản công nợ được tiền tệ hoá,
tiền tệ sẽ không còn khan hiếm, mà xuất hiện tràn lan khắp mọi ngóc ngách của
xã hội. Tiền càng ngày càng nhiều nhưng cơ hội đầu tư thì lại ngày càng ít đi.
Dưới chế độ bản vị vàng, đặc trưng chủ yếu của thị trường cổ phiếu là cơ cấu
tài chính của công ty lên sàn khá vững chắc, tình trạng công nợ không có nguy
cơ, nguồn vốn dồi dào, mức lợi nhuận tăng trưởng ổn định, cổ tức của cổ phiếu
tăng đều theo hàng năm, thị trường cổ phiếu tuy có mạo hiểm, nhưng lại là một
thị trường thực sự đáng để đầu tư. Mà các thị trường cổ phiếu chủ yếu của thế
giới ngày nay lại ngập trong các khoản tiền nợ và bị danh giá quá với giá trị
thực của nó, các nhà đầu tư khó mà trông chờ vào lợi nhuận cổ tức cho dù vẫn
luôn nuôi hi vọng vào khả năng tăng giá của cổ phiếu. Thị trường chứng khoán
ngày càng mất đi tính đầu tư mà dần biến thành một sòng bạc với đầy rẫy những
điểm khác thường. Tình trạng bất động sản cũng giống hệt như vậy.
Bản thân các khoản nợ đã khiến cho mạch máu kinh
tế trở nên dễ vỡ hơn, việc tăng lượng phát hành tiền nợ sẽ khiến cho huyết dịch
kinh tế sánh đặc lại, lượng lớn vốn lắng đọng trên thị trường chứng khoán và
thị trường bất động sản sẽ khiến huyết quản kinh tế càng thêm tắc nghẽn, triệu
chứng cao huyết áp của nền kinh tế sẽ không thể tránh khỏi.
Trạng thái cao huyết áp trong nền kinh tế sẽ
càng tăng thêm gánh nặng cho trái tim kinh tế - thứ được coi là môi trường và
tài nguyên mà nhân dân dùng để sáng tạo ra của cải.
Gánh nặng công nợ sẽ gây nên tình trạng bội chi
nghiêm trọng, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, hệ sinh
thái mất cân đối, khí hậu biến đổi, thiên tai liên miên…Chính những điều này đã
dẫn đến tình trạng chồng chất trong công nợ của dân chúng. Sự phân hoá giàu
nghèo, dao động kinh tế, mâu thuẫn xã hội, tham ô hủ bại là những mối hiểm hoạ
đối với một xã hội lành mạnh. Trong khi tất cả những căn bệnh như lượng mỡ cao
trong máu, cao huyết áp - những chứng bệnh do chất mỡ tiền tệ công nợ gây ra -
cùng phát tác và tồn tại thì hệ thống nội tiết tự nhiên của cả cơ thể kinh tế
sẽ rơi vào trạng thái rối loạn, khả năng hấp thụ dinh dưỡng kém, các cơ quan
nội tạng tổn thương nghiêm trọng, quá trình đổi mới trong cơ thể không thể vận
hành bình thường, hệ thống miễn dịch mất đi sức đề kháng. Nếu chọn biện pháp
đau gì trị nấy thì việc này sẽ gây ra hiện tượng nhờn thuốc, từ đó mà càng làm
suy thoái trầm trọng hơn hệ thống nội tiết của cơ thể nền kinh tế.
Ngay sau khi đã nhận thức rõ bản chất và sự nguy
hại của tiền tệ công nợ thì chúng ta cần phải thực hiện việc điều chỉnh tương
ứng đối với chiến lược phát triển kinh tế. Nghĩa là từ mô hình cũ lấy tăng
trưởng GDP làm kim chỉ nam, lấy tiền tệ công nợ làm cơ sở, lấy bội chi tài
chính làm tăng trưởng, chúng ta cần phải chuyển biến sang mô hình phát triển
mới lấy xã hội và sự phát triển hài hoà làm trung tâm, dùng tiền tệ thật làm
thước đo, dùng tích luỹ để thúc đẩy phát triển.
Chúng ta cũng phải từng bước xây dựng một hệ
thống thước đo tiền tệ ổn định dùng vàng và bạc làm điểm tựa, từng bước loại
trừ công nợ ra khỏi dòng lưu thông tiền tệ, nâng cao tỉ lệ dự trữ vàng trong
ngân hàng và xem đó là phương pháp quan trọng trong việc kiểm soát và điều hành
tài chính khiến cho tỉ suất lợi nhuận của ngành tài chính ngang bằng với tỉ
suất lợi nhuận bình quân của các ngành công nghiệp khác trong xã hội. Chỉ khi
nào trị tận gốc hai căn bệnh dai dẳng là tiền tệ công nợ và chế độ dự trữ vàng
cục bộ này, chính phủ mới có thể đảm bảo được sự công bằng và hài hoà trong xã
hội.
Việc loại bỏ tiền nợ ra khỏi hệ thống lưu thông
tiền tệ phải là một quá trình lâu dài, gian khổ, giống như quá trình giảm béo
vậy. Cắt giảm lượng thức ăn, điều chỉnh cơ cấu bữa ăn, tăng cường lượng vận
động thể dục… tất cả những việc này thực sự khó khăn hơn nhiều so với chuyện
trốn mình trong chiếc chăn ấm áp của tiền nợ tăng sinh. Việc siết chặt lưu
thông tiền tệ cũng giống sự rèn luyện ý chí và sức chịu đựng của con người,
giống như khi chúng ta đi bơi vào sáng sớm mùa đông vậy. Sau những gian khổ ban
đầu, tính linh hoạt của nền kinh tế sẽ tăng cường rõ rệt, hệ thống đề kháng lại
với các loại xung đột khủng hoảng kinh tế sẽ càng thêm hoàn thiện, áp lực môi
trường sinh thái sẽ giảm nhẹ, sự phân phối tài nguyên trên thị trường cũng sẽ
hợp lý hơn. Dĩ nhiên, các chứng bệnh trong cơ thể nền kinh tế sẽ thuyên giảm,
hệ thống nội tiết tự nhiên trong cơ thể nền kinh tế sẽ từng bước khôi phục chức
năng khiến cho cả xã hội sẽ trở nên hài hoà và khỏe mạnh.
Khi Trung Quốc mở cửa hoàn toàn lĩnh vực tài
chính, cần phải nhận thức rõ ưu thế và điểm yếu của chế độ tài chính phương Tây
đồng thời phải tỏ ra cởi mở, phải có dũng khí và mưu trí nhằm sáng tạo ra cái
mới một cách hiệu quả.
Thông thường, những quốc gia quật khởi trong
lịch sử đều có những cống hiến mang tính khai sáng đối với sự phát triển của xã
hội loài người. Trung Quốc đang ở trên “bước ngoặt chiến lược” đặc biệt này.
4.
Ngành tài chính: “Không quân chiến lược” của Trung Quốc trong phát triển kinh
tế
Vị thế của tiền tệ dự trữ trên thế giới đại diện
cho quyền lực tối thượng trong việc phát hành tiền tệ với đầy đủ sự tin cậy.
Không ít người cảm thấy khó hiểu vì sao Trung
Quốc không có quyền định giá trên thị trường quốc tế. Wal-Mart có thể ép các
doanh nghiệp Trung Quốc đến mức ai cũng phải xót xa. Các nhà kinh tế học giải
thích rằng, bởi vì họ là người tiêu dùng lớn nhất, đại diện cho thị trường tiêu
thụ lớn nhất thế giới - nước Mỹ. Và bởi vậy, họ là người có quyền định giá.
Cũng có người giải thích rằng, vì đang nắm giữ các kênh tiêu thụ của thị trường
Mỹ, nên Wal-Mart có quyền định giá.
Vậy còn các mỏ khoáng sản, mỏ dầu, dược phẩm,
máy bay chở khách, phần mềm thì sao? Trung Quốc là một trong những thị trường
tiêu thụ lớn nhất thế giới, và như vậy, trong vai trò là người tiêu dùng lớn
nhất thế giới, làm sao mà quốc gia này có thể để cho kẻ khác chèn ép và thao
túng giá cả?
Vì thiếu một chiến lược tài chính đúng đắn nên
Trung Quốc không có quyền định giá. Trong một giai đoạn lịch sử rất dài, nền
kinh tế Trung Quốc phát triển dựa trên nguồn vốn nước ngoài, nhưng nếu không có
chính sách mở cửa hội nhập với nguồn vốn nước ngoài thì quốc gia này cũng sẽ
không có sự phát tiền kinh tế như hiện nay. Trung Quốc có thể trở thành đối
tượng nhận nguồn vốn nước ngoài, nhưng cũng có thể đối tượng đó là Ấn Độ. Nguồn
vốn này có thể được róc một quốc gia nhưng cũng có thể được rút ra khỏi quốc
gia đó. Ai khống chế được quyền lưu động vốn, kẻ đó sẽ có đầy đủ quyền định giá
thật sự.
Các doanh nghiệp trên thế giới bất kể thuộc top
500 hay 100, bất kể là gã khổng lồ trong ngành công nghiệp xe hơi hay công
nghiệp máy tính, đều cần đến tài chính. Đối với doanh nghiệp thì tiền cũng
giống như không khí và nước với cơ thể sống vậy. Đối với các ngành nghề khác
trong xã hội, tài chính là người chủ tuyệt đối. Ai khống chế được lưu thông
tiền tệ, kẻ đó có thể quyết định sự hưng thịnh suy vong của bất cứ doanh nghiệp
nào.
Nếu như cần công ty mỏ sắt của Úc giảm giá, chỉ
cần một cú điện thoại là các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đang lũng đoạn
quyền phát hành đô-la Mỹ có thể ung dung. Công ty có còn cần đến nguồn tài
chính nữa hay không? Nếu như không đáp ứng yêu cầu, công ty này sẽ có nguy cơ
bị dồn vào thế cùng đường trên thị trường tài chính quốc tế. Giá cổ phiếu của
họ có thể bị khống chế trên thị trường chứng khoán, cho đến khi công ty này
“quỵ” hẳn mới thôi. Vũ khí sát thủ của các ông trùm tài chính quốc tế là cắt
đứt nguồn năng lượng của doanh nghiệp, buộc đối thủ phải tuân theo mọi sự chi
phối và điều khiển của mình.
Các ông trùm tài chính quốc tế cũng được ví như
không quân chiến lược của một quốc gia vậy. Không có sự chi viện tấn công của
không quân, các ngành nghề trên mặt đất chắc chắn sẽ rơi vào cuộc chiến giáp lá
cà vô cùng thảm khốc với các quốc gia khác, thậm chí còn tự giết nhau, phá giá
nhau, làm tổn hao vốn liếng của nhau hoặc phá hoại môi trường làm việc của
nhau.
Trên thị trường quốc tế, nếu không khống chế được
nguồn tài chính thì bất cứ một thể chế nào cũng không có quyền định giá sản
phẩm và cũng không có quyền chủ động chiến lược trong phát triển kinh tế.
Vì vậy chừng nào đồng tiền của Trung Quốc trở
thành tiền tệ dự trữ của thế giới, chừng đó quốc gia này mới có hi vọng được
trở thành thành viên tham gia vào việc định giá tài chính trên thế giới.
Vậy đồng tiền nào có thể trở thành tiền tệ dự
trữ của các nước trên thế giới?
Sở dĩ đồng bảng Anh và đồng đô-la Mỹ đều đã từng
là những đồng tiền mạnh trong quần hùng tiền tệ thế giới là do nền kinh tế của
các quốc gia này có được hệ thống tiền tệ ổn định làm chuẩn, hệ thống sản xuất
phát triển mạnh mẽ, từng bước đóng vai trò then chốt trong hệ thống thanh toán
thương mại thế giới. Cơ sở tạo nên sự tín nhiệm này đối với đồng bảng Anh và
đồng đô-la Mỹ chính là vàng và bạc. Trong quá trình phát triển của hai nước
này, mạng lưới ngân hàng của các quốc gia này đã từng bước phủ khắp thế giới,
đồng bảng Anh và đồng đô-la Mỹ có thể được chuyển thành vàng một cách tự do và thuận
tiện, được thị trường chấp thuận, vì thế mà những đồng tiền này còn được được
gọi là “ngoại tệ mạnh”. Sau khi thế chiến thứ hai kết thúc vào năm 1945, Mỹ đã
từng nắm giữ đến 70% lượng dự trữ vàng của thế giới, cho nên đồng đô-la Mỹ được
mọi người gọi là “Mỹ kim”.
Thước đo của cải ổn định được bảo đảm bởi bản vị
vàng và bạc không chỉ là sự đảm bảo cho nền kinh tế Anh - Mỹ luôn giữ vị thế
nổi trội mà còn là tiền đề lịch sử khiến cho đồng bảng Anh và đồng đô-la Mỹ trở
thành một loại tiền tệ dự trữ của thế giới.
Năm 1971, sau khi hệ thống tiền tệ thế giới tách
ra khỏi sự ràng buộc với vàng, uy lực của đồng tiền các nước đã bị tổn hại
nghiêm trọng. Năm 1971, một ounce vàng trị giá 35 đô-la Mỹ, đến năm 2006, một
ounce vàng đã nhảy lên 630 đô-la Mỹ (ngày 23 tháng 11 năm 2006). Trong suốt 35
năm nay kể từ năm 1971 cho đến 2006, so với giá vàng thì:
Đồng lia (Ý) đã giảm xuống 98,2% (kể từ
năm 1999 về sau quy ra đồng euro).
Đồng francs Thuỵ Điển đã giảm 96%
Đồng bảng Anh đã giảm 95,7% Đồng francs
Pháp đã giảm 95,2% (kể từ nam 1999 về sau quy ra đồng euro)
Đồng đô-la Canada đã giảm 95,1%
Đồng đô-la Mỹ đã giảm 94,4% Đồng mác Đức
đã giảm 89,7% (tử năm 1999 về sau quy ra đồng euro)
Đồng yên Nhật đã giảm 83,3%
Đồng francs Thuỵ Sĩ đã giảm 81,5%
Việc hệ thống đồng đô-la Mỹ cuối cùng sẽ sụp đổ
vẫn là một logic phải xảy ra. Nếu nói đồng đô-la Mỹ không đáng tin cậy thì thế
giới sẽ dựa vào đồng tiền công nợ nào đây?
Hiện nay, trong số các đồng tiền công nợ “hiện
đại” hiện có ở phương Tây, không có đồng tiền nào mạnh hơn đồng francs Thuỵ Sĩ.
Nguyên nhân khiến cả thế giới tin tưởng cao độ vào đồng francs Thuỵ Sĩ hết sức
đơn giản bởi giá trị của đồng francs Thuỵ Sĩ được đảm bảo bằng 100% vàng và có
giá trị ngang với vàng. Một đất nước hình viên đạn với vẻn vẹn 7,2 triệu dân,
nhưng lượng dự trữ vàng của Ngân hàng Trung ương nước này lên đến 2.590 tấn
(năm 1990), chiếm 8% tổng lượng dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương trên
thế giới, chỉ đứng sau Mỹ, Đức và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Khi gia nhập tổ chức
tiền tệ quốc tế (IMF) năm 1992, Thuỵ Sĩ buộc phải tách đồng francs của mình ra
khỏi mối quan hệ với vàng. Và như vậy, mức độ đảm bảo bằng vàng của đồng francs
Thuỵ Sĩ suy giảm dần, đến năm 1995, chỉ còn lại 43,2%. Đến năm 2005, Thuỵ Sĩ
chỉ còn lại 13.321 tấn vàng, nhưng so với số vàng dự trữ của Trung Quốc (600
tấn) thì con số này vẫn nhiều gấp hai lần. Cùng với sự sụt giảm lượng vàng bảo
đảm cho đồng francs Thuỵ Sĩ, sức mua của đồng tiền này cũng ngày càng trở nên
suy yếu.
Lượng dự trữ vàng của Nhật Bản năm 2005 chỉ có
765,2 tấn. Tuy nhiên, có một nghịch lý là, không phải Nhật không muốn tăng
lượng dự trữ vàng, mà nước này đang bị Mỹ ngăn cản. Ferdinand Lips - một chuyên
gia về vàng đồng thời là một nhà ngân hàng có tiếng ở Thuỵ Sĩ - đã cùng với gia
tộc Rothschild lập nên Ngân hàng Rothschild Bank AG tại Zurich và điều hành
ngân hàng này trong nhiều năm. Đến năm 1987, ông đã thành lập Bank Lips AG tại
Zurich - một thành viên “ruột thịt” của đế chế tài chính quốc tế. Trong cuốn “Chiến
tranh vàng bạc” của mình, ông đã tiết lộ rằng, trong hội nghị hiệp hội
vàng thế giới được tổ chức ở Paris, một quan chức dấu tên làm việc trong ngành
ngân hàng của Nhật đã phàn nàn với Ferdinand Lips rằng, chỉ cần hạm đội Thái
Bình Dương của Mỹ còn hiện diện ở Nhật Bản để “bảo vệ sự an toàn” cho nước này
thì chính phủ Nhật Bản vẫn bị cấm dự trữ thêm vàng(3).
Trước mắt, Trung Quốc đã có nguồn dự trữ ngoại
hối lên đến 1 nghìn tỉ đô-la Mỹ, và việc sử dụng khoản tài sản khổng lồ này có
liên quan đến vận mệnh trăm năm của Trung Quốc trong tương lai. Đây không đơn
giản là vấn đề mạo hiểm phân tán tài chính mà điều quan trọng là Trung Quốc
phải xem xét làm thế nào để giành được quyền chủ động chiến lược trong cuộc
chiến tranh tài chính quốc tế sắp phái ra để chiếm lấy vị thế bá chủ tiền tệ
trong thời đại “hậu đô-la Mỹ“ trên thế giới.
Cuối năm 2006, Trung Quốc đã mở cửa hoàn toàn
lĩnh vực tài chính. Các ngân hàng quốc tế đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh
tiền tệ không mùi khói đang cận kề. Lần này, người ta sẽ không thấy cảnh pháo
Tây súng Tây, cũng không nghe thấy tiếng thét nơi chiến trường, nhưng kết cuộc
sau cùng của cuộc chiến này sẽ quyết định đến số phận tương lai của Trung Quốc.
Bất kể có ý thức được hay không, có chuẩn bị tốt hay không, sớm muộn Trung Quốc
cũng sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến tranh tiền tệ - một cuộc chiến không
tuyên mà chiến. Chỉ khi phán đoán rõ ràng và chính xác về mục đích chiến lược
chủ yếu và phương hướng tấn công chính của các ngân hàng quốc tế, quốc gia này
mới có thể đặt ra một sách lược phản ứng hiệu quả.
Có hai mục đích chiến lược căn bản trong cuộc đổ
bộ ồ ạt của các ngân hàng quốc tế vào Trung Quốc: khống chế quyền phát hành
tiền tệ của Trung Quốc, tạo ra “cuộc giải thể có kiểm soát” đối với nền kinh tế
Trung Quốc, và cuối cùng lập nên một “chính phủ thế giới” và “tiền tệ thế giới”
dưới sự chi phối chủ đạo của trục London - phố Wall.
Có lẽ mọi người đều biết rằng, người nào có thể
lũng đoạn được nguồn cung ứng của một loại sản phẩm thì kẻ đó sẽ có được lợi
nhuận siêu cấp. Mà tiền tệ là một thứ sản phẩm ai ai cũng cần, nếu người nào
lũng đoạn được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, kẻ đó sẽ nắm giữ được
công cụ tạo ra nguồn lợi nhuận vô hạn. Đây chính là lý do giải thích tại sao
trong hàng mấy trăm năm qua, các ngân hàng quốc tế đã vò đầu vắt óc, dồn tâm
suy nghĩ, không từ bất kỳ âm mưu thủ đoạn nào để lũng đoạn được quyền phát hành
tiền tệ của một quốc gia và mục tiêu cao nhất của họ là lũng đoạn quyền phát
hành tiền tệ của toàn thế giới.
Xét về tổng thể, rõ ràng ngân hàng quốc tế đang
ở vào thế chủ động tấn công chiến lược, trong khi các ngân hàng của Trung Quốc
lại lâm vào thế thúc thủ, và so với ngân hàng quốc tế - kẻ đã chơi trò ảo thuật
với tiền tệ trên thế giới hàng trăm năm qua - thì các ngân hàng Trung Quốc rõ
ràng là yếu kém về nhiều mặt, từ vốn liếng, nguồn nhân lực, mô hình kinh doanh,
hạ tầng cơ sở kỹ thuật cho đến hệ thống pháp lý. Nếu muốn tránh khỏi nguy cơ
thất bại toàn diện trong cuộc chiến này, Trung Quốc chỉ có một lựa chọn duy
nhất: “anh đánh theo cách của anh, tôi đánh theo cách của tôi”, và quyết không
đánh theo cách mà đối phương hoạch định.
Đây là một cuộc chiến tranh tiền tệ chỉ có hai
con đường hoặc thất bại hoặc chiến thắng. Nếu không bị “đế quốc La Mã mới”
chinh phục trong cuộc chiến này thì trong quá trình đập tan đối thủ, Trung Quốc
sẽ xây dựng nên một trật tự mới về tiền tệ trên thế giới.
5.
Chiến lược của tương lai: “Xây tường cao, tích lương thảo, hoãn xưng vương”
“Xây tướng cao”
Trung Quốc cần phải xây dựng một hệ thống phòng
ngự kép đối với cơn đại hồng thuỷ tài chính từ ngoài tràn vào và cơn hoả hoạn
tài chính từ trong phát ra.
Các Ngân hàng quốc tế sắp sửa ồ ạt tiến vào các
trung tâm tài chính của Trung Quốc, như vậy nước này không thể không đề phòng.
Khi bàn về đề tài này, phần lớn mọi người tập trung vào cuộc tranh giành khoản
tiền ký gửi của dân chúng - một miếng bánh lớn vô cùng hấp dẫn - giữa ngân hàng
nước ngoài với ngân hàng nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế, điều nguy hiểm hơn
là các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài này sẽ thông qua việc cung cấp tín
dụng cho các doanh nghiệp và người dân Trung Quốc để trực tiếp nhúng tay vào
việc phát hành tiền tệ của Trung Quốc. Thông qua chế độ dự trữ vàng cục bộ,
Ngân hàng có vốn nước ngoài sẽ đồng loạt đẩy mạnh tiến trình tiền tệ hoá các
khoản nợ vay của nhà nước, doanh nghiệp và người dân Trung Quốc. “Đồng Nhân dân
tệ vay mượn” do các ngân hàng có vốn nước ngoài này phát hành sẽ tiến sâu vào
bên trong cơ thể của nền kinh tế Trung Quốc thông qua rất nhiều phương thức như
chi phiếu ngân hàng, ngân phiếu định mức ngân hàng, thẻ tín dụng, cho vay thế
chấp bất động sản, cho vay vốn lưu động doanh nghiệp, sản phẩm tài chính phái
sinh.
Suốt mấy chục năm nay, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại trung Quốc mỏi mất trông chờ khoản vay từ các ngân hàng quốc doanh đồng
thời phải chịu đựng sự thờ ở ghẻ lạnh của họ. Nếu ví nhu cầu của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đối với vốn giống như củi khô thì khả năng đáp ứng nhu cầu
của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài chẳng khác nào lửa mạnh. Như vậy,
đôi bên chẳng hẹn mà gặp, và bởi thế mà cơn hoả hoạn tín dụng tràn lan ở Trung
Quốc là hoàn toàn có thể dự báo được. Lượng vốn lớn sẽ được đổ vào các công
trình xây dựng với quy mô lớn, vật giá tiêu dùng sẽ bị siết chặt, vấn đề lạm
phát tài sản sẽ càng trớ nên gay go hơn. Với việc siết chặt vật giá tiêu dùng
và nạn lạm phát tài sản diễn ra tràn lan, Trung Quốc sẽ lâm vào cảnh vô cùng
khó khăn.
Và trong lúc này, các nhà tài phiệt ngân hàng
quốc tế sẽ bắt đầu chiến dịch “xén lông cừu” để tước đoạt tài sản của người dân
Trung Quốc. Cơ hội để các nhà ngân hàng quốc tế “gặt hái” chính là khi nền kinh
tế Trung Quốc rơi vào tình trạng suy sụp.
Thomas Jefferson - người có công lập ra nước Mỹ
- đã có một câu danh ngôn cảnh báo người đời rằng: “Nếu người dân Mỹ để cho
ngân hàng tư nhân khống chế quyền phát hành tiền tệ của đất nước, thì trước hết
những ngân hàng này sẽ thông qua lạm phát tiền tệ, sau đó siết chặt lạm phát để
tước đoạt tài sản của người dân. Mãi cho đến một ngày, khi tỉnh dậy, con cái
của họ sẽ nhận thấy một điều rằng, tất cả ruộng vườn nhà cửa và cả đã; lục mà
ông cha họ cất công khai phá đã không cánh mà bay”.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, nhưng lời cảnh báo
của Thomas Jefferson đường như vẫn còn nguyên giá trị và có sức chấn động mạnh
đối với tất cả chúng ta.
Trước đây, khi các ngân hàng có vốn đầu tư nước
ngoài chưa đổ bộ vào Trung Quốc, tuy có lợi dụng nạn lạm phát tiền tệ để kiếm
lợi nhuận, nhưng các ngân hàng quốc doanh của nước này tuyệt đối không có ý đồ
cũng như khả năng để tạo ra tình trạng khan hiếm tiền tệ nhằm chiếm đoạt tài sản
của người dân. Sở dĩ từ thuở khai sinh lập địa đến nay, Trung Quốc chưa phải
đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng là do không ai có dã
tâm và khả năng để tạo ra khủng hoảng kinh tế. Sau khi các nhà Ngân hàng Quốc
tế xâm nhập toàn diện vào Trung Quốc, tình hình này đã thay đổi hoàn toàn.
Bức tường phòng ngự tài chính đối nội của Trung
Quốc nhằm phòng ngừa các ngân hàng vốn nước ngoài tạo ra lạm phát tài chính để
thổi to quả bong bóng ở Trung Quốc, tiếp đó siết chặt nguồn vốn để tạo ra thâm
hụt tiền tệ, buộc hàng loạt doanh nghiệp và cá nhân phải đóng cửa hoặc phá sản,
từ đó thu mua lại khối tài sản quan trọng của Trung Quốc với giá bọt bèo. Do
vậy, các cơ quan quản lý tài chính Trung Quốc cần phải nghiêm túc giám sát qui
mô và phương hướng phát hành tín dụng của các ngân hàng có vốn đầu tư nước
ngoài để tiến hành điều tiết vĩ mô tỉ lệ vàng dự trữ cũng như thành phần vàng
dự trữ, đề phòng khả năng các ngân hàng có vốn nước ngoài tiến hành tiền tệ hoá
các khoản công nợ trong nước.
Các ngân hàng Trung Quốc cũng cần đề phòng khả
năng liên minh, câu kết giữa ngân hàng có vốn nước ngoài với quỹ đối xung quốc
tế. Hợp đồng tài chính phái sinh được ký kết giữa các công ty Trung Quốc và các
ngân hàng nước ngoài phải được báo cáo cho các cơ quan quản lý tài chính.
Đặc biệt là cần phải cẩn trọng đối với hợp đồng
tài chính phái sinh do ngân hàng có vốn nước ngoài kiểm định, đề phòng thủ đoạn
tấn công từ xa của giới tài phiệt quốc tế đối với hệ thống tài chính Trung
Quốc. Bài học từ cuộc tấn công của các ngân hàng quốc tế năm 1990 vào thị
trường cổ phiếu và thị trường tài chính Nhật Bản vẫn còn nguyên giá trị đối với
tất cả chúng ta.
Bức tường phòng lũ tài chính đối ngoại của Trung
Quốc chủ yếu là nhằm bảo vệ đất nước khi hệ thống đô-la Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Với khoản nợ khổng lồ lên đến 44 nghìn tỉ đô-la, nền kinh tế Mỹ đang ẩn chứa
nhiều nguy cơ rủi ro lớn. Việc chi trả mức lãi suất khổng lồ từ các khoản vay
nợ chẳng khác nào những cơn sóng dữ ngày đêm xô vào con đê yếu tạo nên sự đe
doạ rất lớn đối với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á khác.
Trung Quốc cần phải hành động khẩn cấp, chuẩn bị
chống lũ lụt tài chính và bảo vệ an toàn tài sản của nhân dân.
Sự mất giá nhanh chóng của đồng đô-la Mỹ đã
không còn là dự báo nữa mà là sự thực đang diễn ra hàng ngày. Trận lũ đang âm
thầm, chỉ còn chờ nước lũ tràn lên là xảy ra sự cố vỡ đê, và hậu quả sẽ vô cùng
nghiêm trọng. Nguồn dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã ở vào trạng thái rủi ro
cao độ.
Nếu cơn bão tài chính quốc tế xuất hiện một cách
thình lình trong khi quả bóng sản phẩm tài chính phái sinh và hệ thống đồng
đô-la Mỹ đã phình căng cực độ thì vàng và bạc sẽ là chiếc thuyền cứu sinh an
toàn nhất cho cả thế giới.
Tăng cường dự trữ vàng và bạc của Trung Quốc đã
trở thành vấn đề khẩn thiết và cấp bách hơn bao giờ hết.
“Tích lương thảo”
Mở rộng kho tích trữ lương thực, nâng cao lượng
dự trữ vàng và bạc chính là chuyện cả quan lẫn dân Trung Quốc cùng phải lo. Các
mỏ vàng bạc trong lãnh thổ Trung Quốc cần phải được tăng cường bảo vệ cơ mật
như tài sản chiến lược quan trọng nhất đồng thời phải được tiến hành quốc hữu
hoá toàn diện. Trên bình diện quốc tế, cần phải dốc sức mua vào các công ty sản
xuất vàng bạc, xem đó là sự bổ xung tài nguyên vàng bạc trong tương lai của
Trung Quốc.
Phương hướng cuối cùng của cải cách tiền tệ
Trung Quốc chính là xây dựng một “hệ thống tiền tệ kép” với sự bảo đảm của vàng
bạc phù hợp với tình hình Trung Quốc, xác định thước đo cân bằng tiền tệ ổn
định, hoàn thành việc chuẩn bị mang ý nghĩa chiến lược nhằm biến đồng nhân dân
tệ thành tiền tệ tích luỹ chủ yếu của thế giới.
“Hoãn xưng vương”
Chính phủ Trung Quốc cần phải cân nhắc các khó
khăn cũng như hạn chế của đất nước mình. Sự phát triển nổi trội của các cường
quốc trên thế giới luôn gắn liền với khả năng sáng tạo vượt trội để đi lên, sản
xuất ra một lượng lớn hàng hoá và dịch vụ mới mà các nước khác không thể làm
được, tạo ra các phát minh khoa học kỹ thuật tiên tiến, đưa ra những tư tưởng
và lý luận xuất sắc để dẫn dắt văn minh của thế giới.
Hiện nay, Trung Quốc được đánh giá cao về phương
diện mô phỏng kỹ thuật sản xuất của phương Tây trên quy mô lớn, tuy nhiên, xét
về phương diện sáng tạo cái mới trong lý luận tư tưởng và khoa học kỹ thuật,
Trung Quốc vẫn còn rất yếu kém. Đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng,
người Trung Quốc thiều lòng tự tin vào văn minh của nước mình. Biểu hiện chủ
yếu của việc này là người Trung Quốc không phân biệt được tính hợp lý và bất
hợp lý của chế dộ phương Tây, thiếu sự dũng cảm trong việc phê phán những sai
lầm về mặt đạo đức của phương Tây, không dám thực hiện những thứ mà phương Tây
không có, thiếu sự dũng cảm trong việc tạo ra một quy tắc mới cho thế giới. Tất
cả những điều này không thể một sớm một chiều mà giải quyết được, vì vậy Trung
Quốc nên “hoãn xưng vương” để có thể mưu chuyện lâu dài.
6.
Con đường trở thành nguồn tiền tệ dự trữ của thế giới
Một cường quốc thế giới là một đất nước mà nền
tảng vững chắc của nó không chỉ có khoa học kỹ thuật tiên tiến và tiềm lực quân
sự hùng mạnh. Chỉ khi nào xây dựng được một hệ thống tiền tệ và hệ thống tài
chính đáng tin cậy mang tầm thế giới thì quốc gia đó mới có thể giữ được vị thế
bất bại trong mọi cuộc xung đột, xây dựng được uy tín vững chắc trong tình hình
thế giới đầy biến động khó lường.
Nếu đồng đô-la Mỹ mất đi vai trò trụ cột trong
hệ thống tiền tệ thế giới, cho dù địa vị của Microsoft vẫn không ai có thể
thách thức, liệu nước Mỹ có còn giữ được vị trí thống soái của mình hay không?
Liệu họ có còn nhất ngôn cửu đỉnh nữa hay không? Có còn là “ngọn hải đăng mà
mọi người trên toàn thế giới hướng về“ như trước đây hay không?
Được xem là ngôi sao trong tương lai, Trung Quốc
tất yếu sẽ phải xây dựng một hệ thống tài chính tiền tệ đáng tin cậy cho cả thế
giới.
Tiền là huyết dịch của nền kinh tế xã hội loài
người. Người nào nắm giữ và cung ứng nguồn huyết dịch này, kẻ đó sẽ có được sức
mạnh. Vậy nguồn huyết dịch nào sẽ khiến cho thiên hạ phải tuân theo? Câu trả
lời là: nguồn huyết dịch phải được tạo ra từ một cơ thể khỏe mạnh. Nếu nhiễm
phải mầm bệnh “HIV” không thuốc cứu chữa, lại còn truyền máu cho người khác thì
mô hình phát triển kinh tế và chế độ tài chính nội tại sẽ nhanh chóng bị huỷ
diệt. Đồng thời, nguồn huyết dịch này phải là nhóm O - tức là nhóm máu có khả
năng cho máu rộng nhất và khả năng chấp nhận cao nhất.
Vậy hệ thống tài chính tiền tệ như thế nào được
gọi là “nhóm máu O” khỏe mạnh của Trung Quốc trong tương lai?
Hiện nay, Trung Quốc là nước thu được một lượng
lớn ngoại tệ thông qua xuất khẩu đồng thời sử dụng nguồn ngoại tệ này để mua
một lượng lớn công trái Mỹ. Việc này đang là một nguy cơ tiềm ẩn khó lường. Tác
dụng phụ của mô hình kinh tế dùng xuất khẩu làm đầu tàu là rất lớn mà bản chất
của mô hình này là dùng công nợ của Mỹ để kéo nền kinh tế của mình phát triển,
trong khi người dân Mỹ không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng nợ nần. Nếu tiếp
tục quy trình này, Trung Quốc sẽ tạo nên sự mất cân đối rất lớn trong cơ cấu
kinh tế xuất khẩu của mình, dẫn đến khả năng dư thừa sản xuất trầm trọng và quá
trình điều chỉnh trong tương lai đương nhiên cũng khó khăn gian khổ hơn rất
nhiều. Và như vậy, trên thực tế, thất bại này của Trung Quốc sẽ được nhân lên
nhiều lần.
Phương án “giải phẫu” căn bệnh này thông qua một
hệ thống tài chính tiền tệ tuần hoàn tích cực đa nguyên hoá là một vấn đề rất
lớn và phức tạp. Trong cuốn sách này, chúng ta chỉ tập trung suy nghĩ tìm tòi
về một giả thuyết - truyền sinh khí vào vàng và bạc trong bối cảnh đa nguyên
hoá. Vì đã trải qua hàng nghìn năm kết tinh lắng đọng, đã có đầy đủ độ tin cậy
tự nhiên nên vàng bạc được coi là vật đảm bảo giá trị cho tiền tệ, và như vậy,
chế độ tiền tệ được đảm bảo bằng vàng bạc chính là con đường tắt đưa đồng nhân
dân tệ của Trung Quốc trở thành đồng tiền dự trữ của thế giới.
Chúng ta hãy theo giả thuyết này để từng bước
khám phá ra những điều mới mẻ hơn nữa.
Nếu như mỗi năm mua vào một lượng vàng khoảng
200 tỉ đô-la Mỹ với giá 650 đô-la/ounce, chính phủ và người dân Trung Quốc có
thể mua được 9.500 tấn vàng, tương đương với việc mua đứt lượng dự trữ vàng
hàng năm của Mỹ (8.136 tấn). Trong giai đoạn mở màn của chiến dịch, các nhà
ngân hàng quốc tế ắt phải thông qua công cụ tài chính phái sinh để khống chế
giá vàng một cách quyết liệt, các ngân hàng Trung ương của các nước phương Tây
có thể ra mặt liên kết với nhau bán phá giá vàng khiến giá vàng có thể tạm thời
suy giảm. Nếu nhìn thấu con át chủ bài của đối thủ, Trung Quốc sẽ nhận ra rằng,
hành động hạ thấp giá vàng là một sự viện trợ tài chính hào phóng nhất trong
lịch sử của phương Tây đối với Trung Quốc.
Nên nhớ rằng, tổng lượng vàng mà thế giới đã
khai thác được trong suốt 6.000 năm qua chỉ có 140 nghìn tấn, và tổng lượng dự
trữ vàng trên sổ sách của các ngân hàng trung ương Âu-Mỹ là 21 nghìn tấn. Nếu
nhìn vào hành vi điên cuồng trong việc cho thuê vàng của các Ngân hàng Trung
ương châu Âu thập niên 90, chúng ta có thể nhận ra rằng, toàn bộ tài sản tích
luỹ của họ chưa tới 20 nghìn tấn vàng. Nếu tính theo giá vàng hiện tại (650
đô-la/ounce) thì số vàng này chỉ có giá trị 400 tỉ đô-la, và lượng thặng dư mậu
dịch của Trung Quốc lớn đến như vậy thì việc tiêu hoá lượng dự trữ vàng 400 tỉ
đô-la chẳng qua chỉ là việc của vài ba năm trước đây. “Đạn dược” của các Ngân
hàng Trung ương Âu-Mỹ sẽ được bắn hết sạch trong thời gian không dài lắm.
Nếu như Trung Quốc thu mua vàng với tốc độ liên
tục như vậy trong năm năm thì giá vàng quốc tế sẽ leo thang và vượt quá giới
hạn lãi suất đồng đô-la Mỹ dài hạn vốn do các ngân hàng quốc tế tạo nên. Và như
vậy, mọi người sẽ có hân hạnh tận mắt chứng kiến sự sụp đổ của hệ thống đồng
đô-la Mỹ vốn được xem là lớn mạnh nhất thế giới.
Vấn đề không phải là Trung Quốc có thể dùng giá
vàng để đánh sập hệ thống đô-la Mỹ hay không mà là Trung Quốc có muốn hay
không. Đối với đồng đô-la Mỹ, giá vàng vẫn là vấn đề sinh tử. Chỉ cần nguồn tin
Trung Quốc định mua vào lượng vàng trị giá 200 tỉ đô-la Mỹ được truyền đi, chắc
chắc Bộ trưởng tài chính Mỹ và Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang nước này sẽ lập
tức lên cơn tăng xông.
Thậm chí, Mỹ sẽ phải cân nhắc vấn đề Đài Loan -
một cái gai nhọn đối với Trung Quốc suốt mấy chục năm nay. Vấn đề “cứu Đài Loan
hay cứu đồng đô-la“ sẽ được đưa lên bàn cân để suy xét. Dù không thể đi chung
với Mỹ trên mặt trận tài chính, song nếu Mỹ đưa ra điều kiện hợp lý, Trung Quốc
vẫn có thể hợp tác với Mỹ để cứu đồng đô-la.
Cùng với việc từng bước tăng cường lượng dự trữ
vàng trong dân chúng cũng như ở cấp nhà nước, Trung Quốc có thể tiến hành cải
cách tiền tệ, từng bước đưa vàng và bạc tham gia vào hệ thống tiền tệ. Từng
bước thực hiện quá trình chuyển biến hoá đồng tiền Trung Quốc theo chế độ bản
vị vàng và bạc, thể chế tiền tệ của Trung Quốc sẽ tạo ra một cống hiến lớn đối
với nền kinh tế thế giới.
Việc chuyển biến hoá của đồng tiền Trung Quốc có
thể được tiến hành theo từng giai đoạn. Việc có thể làm trước hết chính là
“công trái kim biên” (công trái được bảo đảm bằng vàng) và “công trái ngân
biên” (công trái được bảo đảm bằng bạc) do Bộ tài chính phát hành, dùng vàng và
bạc để kết toán vốn và lãi công trái. Chẳng hạn lợi tức của “công trái kim
biên“ kỳ hạn 5 năm có thể được xác định ở mức từ 1%-2%. Do. vàng được xem là
phương pháp kết toán cuối cùng của vốn và lãi nên người dân sẽ hăng hái mua công
trái thứ sản phẩm tài chính có tác dụng “bảo đảm giá trị của cải” thật sự này.
Trên thị trường giao dịch công trái, sự chênh
lệch giữa tỉ suất sinh lời của “công trái kim biên” và “công trái ngân biên“ so
với tỉ lệ sinh lời của công trái quốc gia phổ thông cùng kỳ hạn và cùng mức giá
sẽ phản ánh chân thực mức độ tiếp nhận của thị trường đối với vàng và bạc. Tham
số quan trọng này sẽ được xem như là hệ tham chiếu thí điểm cho giai đoạn tiếp
theo.
Giai đoạn thứ hai là việc điều chỉnh lại cơ cấu
dự trữ vàng của hệ thống ngân hàng. Việc dự trữ vàng của các ngân hàng - bất kể
là ngân hàng nước ngoài hay là ngân hàng quốc doanh - cần phải bao hàm một tỉ
lệ vàng hoặc bạc nhất định đồng thời giảm thiểu tỉ lệ công nợ trong số tiền dự
trữ.
Tỉ lệ vàng bạc trong hệ thống dự trữ tiền tệ
càng cao, hệ số khuếch đại cho vay càng cao, và tương tự, tỉ lệ công nợ càng
lớn thì khả năng cho vay sẽ càng giảm thấp xuống. Ngân hàng trung ương cần phải
chấm dứt mọi ngân phiếu vay mượn định kỳ không phải là vàng và bạc. Cách làm
này sẽ củng cố địa vị của vàng và bạc trong hệ thống tiền tệ Trung Quốc, làm
gia tăng nhu cầu của ngân hàng đối với vàng và bạc.
Không có vàng bạc làm dự trữ, khả năng phát hành
tín dụng của các ngân hàng sẽ giảm xuống. Đồng thời, hệ thống ngân hàng sẽ từng
bước loại bỏ ngân phiếu công nợ ra khỏi hệ thống lưu thông tiền tệ. Ngân hàng
sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong việc mở ra dịch vụ uỷ thác tiết kiệm hay kinh
doanh vàng bạc. Và như vậy, thị trường lưu thông của vàng và bạc sẽ được hình
thành trên phạm vi toàn quốc.
Các ngành nghề có lợi nhuận cao trong toàn quốc
như bất động sản, ngân hàng, thuốc lá, bưu điện, dầu mỏ đều phải nộp thuế doanh
nghiệp với một tỉ lệ vàng và bạc nhất định, tạo ra sự kích thích nhu cầu của
thị trưởng đối với vàng và bạc.
Giai đoạn thứ ba là dùng vàng và bạc của Bộ tài
chính làm thế chấp để phát hành tiền giấy vàng và đồng giấy bạc Trung Quốc.
Theo đó, đồng giấy vàng sẽ trở thành thước đo chuẩn của tiền tệ Trung Quốc. Căn
cứ vào tình hình dự trữ vàng và bạc của Trung Quốc, mỗi một đồng giấy vàng
Trung Quốc được xác định sẽ có bao nhiêu gam vàng. Đồng giấy vàng Trung Quốc
chủ yếu dùng để kết toán mậu dịch các hàng hoá chính yếu thông qua chuyển khoản
giữa các ngân hàng với việc chi trả ở qui mô lớn. Với một số lượng nhất định,
người ta có thể đem đồng giấy vàng Trung Quốc đến Bộ tài chính để hoán đổi
thành vàng. Còn đồng giấy bạc Trung Quốc có thể được dùng làm tiền tệ phụ trợ,
trong mỗi một đồng giấy bạc có chứa một lượng bạc nhất định, chủ yếu dùng cho
việc thanh toán các khoản chi nhỏ. Với một số lượng nhất định, người ta có thể
đem đồng giấy bạc Trung Quốc đến Bộ tài chính để hoán đổi thành bạc. Tỉ giá
giữa đồng giấy vàng và đồng giấy bạc sẽ do Ngân hàng trung ương công bố và điều
chỉnh định kỳ.
Nguyên lý “tiền xấu tất nhiên sẽ đẩy lùi tiền
tốt khỏi lưu thông” thường được nhiều người nhắc đến. Trên thực tế, việc này
cần một điều kiện tiền đề quan trọng: sự can thiệp của chính phủ, dùng uy lực
cưỡng chế để quy định tiền xấu có giá trị ngang với tiền tốt. Trên thị trường
tự nhiên, tình hình lại hoàn toàn ngược lại, tiền tốt tất nhiên sẽ đẩy lùi tiền
xấu khỏi lưu thông, bởi vì trên thị trường, chẳng có ai muốn chấp nhận tiền xấu
cả.
Khi Trung Quốc lưu hành đồng giấy bạc và đồng
giấy vàng, trên thị trường vẫn lưu thông đồng nhân dân tệ phổ thông. Chính phủ
cần quy định rõ các khoản thuế phải được nộp bằng đồng vàng và đồng bạc Trung
Quốc, và thị trường có thể tự do lựa chọn đồng bạc, đồng vàng Trung Quốc hoặc
đồng nhân dân tệ phổ thông để định giá, còn thị trường tài chính sẽ căn cứ vào
mối quan hệ cung cầu để quyết định tỉ giá giữa đồng vàng - đồng bạc Trung Quốc
với đồng nhân dân tệ phổ thông. Lúc này, người ta sẽ nhận thấy rằng, sức mua
trong tín dụng của đồng nhân dân tệ phổ thông do Ngân hàng thương mại phát hành
sẽ giảm sút so với đồng giấy vàng - đồng giấy bạc Trung Quốc. Tỉ giá của hai
loại tiền tệ sẽ thể hiện một cách rõ nét thông tin này trên thị trường tài
chính.
Bộ tài chính cần phải là cơ quan chịu trách
nhiệm kiểm soát cuối cùng đối với việc phát hành của đồng giấy vàng - đồng giấy
bạc Trung Quốc chứ không phải là hệ thống ngân hàng thương mại. Nguyên nhân rất
đơn giản: người dân là những người sáng tạo ra của cải, và của cải đó phải
thuộc về họ, tư nhân không được phép lũng đoạn và can thiệp vào việc phát hành
tiền tệ.
Tình hình xuất khẩu của Trung Quốc sẽ từng bước
giảm sút trong khi đồng giấy vàng bạc của Trung Quốc mạnh lên. Tuy nhiên, trên
thực tế, cái vòng giảm béo GDP này không thể không có được.
Khi lượng phát hành ngày càng lớn thì đồng giấy
vàng và bạc Trung Quốc nhất định sẽ trở thành tiêu điểm chú ý của giới tài
chính thế giới. Do có thể hoán đổi tự do thành vàng hoặc bạc nên đồng giấy vàng
và bạc Trung Quốc sẽ là thứ tiền tệ vững mạnh nhất trên thế giới và sẽ trở
thành tiền tệ dự trữ được lựa chọn hàng đầu của các nước trên thế giới trong
thời đại “hậu đô-la Mỹ”.
Của cải vốn dĩ tự động chảy về nơi có thể bảo vệ
nó và khiến nó tăng giá trị. Với sức sáng tạo ra của cải hùng mạnh và đồng tiền
ổn định, Trung Quốc sẽ trở thành trung tâm tích tụ nguồn tài sản của thế giới.
CHÚ
THÍCH
(1) Ferdinand Lips, Cuộc chiến tranh vàng: Trận
chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle
Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) - New York: The
Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 10.
(2) Ferdinand Lips, Cuộc chiến tranh vàng: Trận
chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle
Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) - New York: The
Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 15
(3) Ferdinand Lips, Cuộc chiến tranh vàng: Trận
chiến chống lại tiền tệ từ cách nhìn của người Thuỵ Sĩ (Gold War, The Battle
Against Sound Money as Seen From a Swiss Perspective) - New York: The
Foundation for the Advancement of Monetary Education 2001, tr. 143.
PHỤ
LỤC
1.
Trung Quốc mở cửa thị truờng tài chính
Rủi ro lớn nhất của việc mở cửa thị trường tài
chính Trung quốc là thị trường này thiếu ý thức “phòng bị chiến tranh”.
Vấn đề mà đại đa số học giả và những người hoạch
định chiến lược quan tâm khi nghiên cứu vấn đề rủi ro của việc mở cửa tài chính
Trung Quốc là rủi ro về mặt “chiến thuật”. Ví dụ, rủi ro của việc ngân hàng
nước ngoài đầu tư khống chế thị trường chứng khoán, rủi ro quản lý của các tổ
chức tài chính, rủi ro thị trường cho vay bất động sản, rủi ro mở cửa thị
trường tài khoản tư bản, rủi ro đồng nhân dân tệ tăng giá, rủi ro mất kiểm soát
bên trong của ngân hàng quốc hữu, rủi ro của thị trường sản phẩm phái sinh tài
chính, rủi ro xung đột của thoả thuận Basel v.v… Thực ra, rủi ro lớn nhất của
việc mở cửa tài chính bất nguồn từ cấp độ chiến lược”, vì về bản chất, một khi
Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính thì nước này cũng đã tham gia vào “cuộc
chiến tranh tiền tệ”. Thiếu ý thức và sự chuẩn bị cho chiến tranh là rủi ro lớn
nhất trước mắt của Trung Quốc!
Hiểu việc mở cửa thị trường tài chính cũng giống
như mở cửa các ngành nghề bình thường là một điều cực kỳ nguy hiểm.
Tiền tệ là một loại hàng hoá, nhưng khác với các
loại hàng hoá khác. Nó là thứ hàng hoá mà mọi ngành nghề, mọi tổ chức, mọi cá
nhân đều cần đến. Khống chế phát hành tiền tệ là hình thức cao nhất trong các
hình thức lũng đoạn tài chính!
Việc phát hành tiền tệ của Trung Quốc vốn dĩ do
chính phủ khống chế, chỉ có cách này mới có thể đảm bảo sự công bằng cơ bản
trong tổ chức xã hội. Ngay sau khi các ngân hàng nước ngoài tiến vào Trung
Quốc, quyền phát hành tiền tệ của nước này sẽ ở vào tình thế nguy hiểm.
Mọi người sẽ cho rằng tiền tệ của Trung Quốc là
tiền giấy nhân dân tệ, chỉ có chính phủ mới có thể in ấn và phát hành tiền tệ,
và bản thân các ngân hàng nước ngoài làm sao có thể in được đồng nhân dân tệ
của mình. Thực ra, các ngân hàng nước ngoài vốn dĩ chẳng cần in ấn đồng nhân
dân tệ cũng vẫn có thể “sáng tạo” ra nguồn cung ứng tiền tệ. Họ sẽ đem theo một
lượng lớn sản phẩm tài chính “mới toanh” vào Trung Quốc, khiến người ra phải
hoa mắt bối rối. Họ dùng các phương thức sáng tạo ra công cụ nợ và tiền tệ hoá
các sản phẩm mà họ đem theo. Đây chính là “tính lưu động” của sản phẩm tương tự
như tiền tệ. Những loại sản phẩm tài chính này hoàn toàn có đầy đủ sức mua của
tiền tệ trong lĩnh vực kinh tế thực thể. Từ góc độ này có thể nói, ngân hàng
nước ngoài sẽ tham dự vào sự phát hành tiền tệ của đồng nhân dân tệ Trung Quốc.
Khi tổng lượng tín dụng bằng đồng nhân dân tệ do
các ngân hàng nước ngoài “sáng tạo” ra vượt quá mức của ngân hàng thương mại
quốc doanh thì trên thực tế họ có thể đủ sức “treo cổ” Ngân hàng trung ương
Trung Quốc, khống chế quyền phát hành tiền tệ của Trung Quốc! Họ sẽ có đủ năng
lực và mưu đồ để khống chế dao động cung ứng tiền tệ một cách đầy ác ý. Họ sử
dụng khéo léo công cụ lạm phát tiền tệ và siết chặt tiền tệ để tước đoạt tài
sản của người dân Trung Quốc, giống như các cuộc khủng hoảng kinh tế đã xuất
hiện lặp đi lặp lại trong lịch sử.
Khi các thế lực ngân hàng nước ngoài ngày càng
mạnh, họ sẽ thông qua các hình thức giao dịch giữa tiền và quyền, giữa tiền với
tiền, giữa tiền bạc và danh dự, giữa tiền bạc và học thuật để hình thành nên
một thế trận “liên hợp hùng mạnh” của “tập đoàn lợi ích đặc thù siêu cấp” chưa
từng có ở Trung Quốc. Họ sẽ cung cấp tín dụng để tưởng thưởng cho các cơ quan
địa phương “tâm đầu ý hợp” với họ, sẽ dùng tiền tài và sắc dục để “bồi dưỡng”
những ngôi sao chính trị mới “có tiềm lực” nhằm mong nhận được sự báo đáp về
mặt chính trị trong tương lai lâu dài. Họ sẽ thông qua các quỹ đầu tư nghiên
cứu học thuật để “khuyến khích và ủng hộ” các thành tựu nghiên cứu có lợi cho
họ. Họ sẽ tài trợ một lượng lớn kinh phí cho các tổ chức xã hội để tác động đến
các chương trình nghị sự chung, từ đó mà hình thành nên “một ý thức hệ“ lớn
mạnh từ trên xuống dưới. Họ sẽ hào phóng ủng hộ sự hoạt động theo hướng thị
trường hoá của các giới truyền thông để phản ánh “sự phê bình tích cực” của xã
hội đối với ngân hàng nước ngoài. Họ sẽ sử dụng vốn đầu tư để báo đáp lại những
tổ chức xã hội có ích cho họ, sẽ mạnh tay đầu tư vào ngành y tế, bao gồm cả y
học cổ truyền núp bóng một cách có hệ thống, từng bước tiến hành xâm nhập vào
lĩnh vực giáo dục, hệ thống pháp luật, thậm chí là hệ thống quân đội. Quan điểm
của họ à, trong một xã hội hàng hoá sẽ không có ai có đủ sức “miễn dịch” đối
với tiền bạc.
Các thế lực ngân hàng nước ngoài sẽ còn thông
qua đầu tư để khống chế các ngành nghề quốc hữu nòng cốt như: viễn thông, dầu
mỏ, giao thông, hàng không, công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc, vì chẳng có
quy định pháp luật nào ngăn cản các ngành này rơi vào tay của các ngân hàng
nước ngoài. Một khi trở thành người cung cấp các khoản vốn chủ yếu của các
ngành nắm quyền khống chế trong nền kinh tế của Trung Quốc, các ngân hàng nước
ngoài sẽ nắm giữ mạch máu các “tài sản cốt lõi” này của Trung Quốc. Họ có thể
cắt đứt dây chuyền vốn của các doanh nghiệp trọng yếu này bất cứ lúc nào, từ đó
dẫn đến sự tê liệt của ngành sản xuất trọng tâm của Trung Quốc.
Các ngân hàng nước ngoài vào Trung Quốc đương
nhiên là để kiếm tiền, nhưng không nhất định phải kiếm tiền theo cách bình
thường.
Rủi ro chiến lược mà việc mở cửa tài chính phải
đối mặt không hề đơn giản như bản thân của ngành tài chính mà nó bao hàm toàn
bộ các phương diện của xã hội Trung Quốc. Chỉ cần có một chút bất trắc thì hậu
quả sẽ khôn lường. Điều đáng tiếc là trong danh sách các ngành quốc doanh được
Trung Quốc bảo hộ, tuyệt nhiên không có ngành tài chính, một ngành đáng ra phải
được bảo hộ trọng điểm nhất. Trước mắt, các ngân hàng quốc doanh Trung Quốc
hoàn toàn không phải là đối thủ của các nhà tài phiệt ngân hàng Âu - Mỹ đã từng
“lăn lộn giang hồ“ hơn hai trăm năm. Điều này chẳng khác nào bắt một môn sinh
nhập môn đi đọ sức với nhà vô địch, chẳng cần phải tưởng tượng quá nhiều thì
người ta cũng biết được kết quả cuối cùng của cuộc đọ sức ấy.
Do rủi ro chiến lược của việc mở cửa tài chính
sẽ liên quan đến toàn cuộc cho nên các cơ quan quản lý như uỷ ban giám sát ngân
hàng, uỷ ban giám sát chứng khoán, uỷ ban giám sát bảo hiểm đã không thể gánh
vác trách nhiệm nặng nề để giám sát rủi ro chiến lược từ việc mở cửa này. Cho
nên chính phủ Trung Quốc cần phải xây dựng một “uỷ ban an toàn tài chính quốc
gia” để thống nhất ba tổ chức này lại với nhau, và trực thuộc quản lý của cấp
hoạch định chiến lược; tăng cường sức mạnh nghiên cứu tình báo tài chính, tăng
cường công tác nghiên cứu phân tích các phương diện như bối cảnh nhân viên,
điều động vốn, chiến lược đối với ngân hàng nước ngoài; xây dựng chế độ phân
cấp bảo mật an toàn tài chính quốc gia, những người nắm quyền hoạch định chiến
lược tài chính quốc gia cần phải được sát hạch thông qua chế độ này. Cần phải
cân nhắc đến việc tiến hành “hạn chế lỏng” đối với các ngành nghề mà ngân hàng
nước ngoài có thể với đến; xây dựng các phương án dự phòng để ứng phó các cuộc
khủng hoảng tài chính xảy ra đột ngột cho Trung Quốc, và tiến hành cử duyệt
định kỳ.
An toàn tài chính đối với Trung Quốc là một vấn
đề cần phải giám sát nghiêm ngặt hơn cả vũ khí hạt nhân chiến lược. Trước khi
chưa xây dựng được một cơ chế kiểm soát an toàn tài chính, việc chính phủ mở
cửa thị trường tài chính chẳng khác nào đang xây con đường để rước hoạ vào nhà.
2.
Cần chủ quyền tiền tệ hay là cần ổn định tiền tệ?
Chủ quyền tiền tệ là một trong những quyền cơ
bản nhất không thể tước đoạt của một quốc gia có chủ quyền. Nó trao trách nhiệm
cho một quốc gia có chủ quyền hoạch định chính sách phát hành tiền tệ căn cứ
vào tình hình của nước mình. Chủ quyền tiền tệ đương nhiên cao hơn tất cả các
quyền lợi ngoại lai khác, bao gồm tất cả các thông lệ quốc tế và các thoả thuận
quốc tế, cũng như các áp lực chính trị bên ngoài.
Chủ quyền tiền tệ chỉ phải phục vụ cho lợi ích
căn bản của người dân bản quốc.
Bảo vệ duy trì ổn định tiền tệ tức là bảo vệ và
duy trì ổn định giá trị tiền tệ của một nước trong hệ thống tiền tệ quốc tế
nhằm tạo ra một môi trường sinh thái phát triển, nền kinh tế thông thoáng và
bình ổn cho các ngành nghề quốc nọl.
Hiện tại, cái khó của Trung Quốc nằm ở chỗ họ
chỉ có thể lựa chọn hoặc chủ quyền tiền tệ hoặc ổn định tiền tệ. Nếu chọn bảo
vệ chủ quyền của đồng Nhân dân tệ thì nước này sẽ đối mặt với hậu quả đồng Nhân
dân tệ tăng giá, còn nếu theo đuổi sự ổn định cơ bản về tỉ suất hối đoái giữa
đồng Nhân dân tệ và đồng đô-la Mỹ thì sẽ mất đi chủ quyền tiền tệ. Chính sách
hiện tại của Trung Quốc là để phát triển kinh tế không thể không theo đuổi sự
ổn định tiền tệ và gạt bỏ chủ quyền tiền tệ. Cái nguy của cách lựa chọn này nằm
ở chỗ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang can dự rất nhiều vào lượng cung ứng tiền tệ
của Trung Quốc. Do Trung Quốc chọn chế độ kết hối cưỡng chế nên Mỹ có thể tăng
cường thâm hụt thương mại đối với Trung Quốc để ép Ngân hàng trung ương Trung
Quốc phải phát hành thêm tiền tệ môi. Với sự giúp đỡ của ngân hàng thương mại,
khoản tiền phát hành thêm này sẽ được nhân bản lên gấp hàng trăm nghìn lần, lạm
phát tràn lan, thị trường bất động sản và cổ phiếu rơi vào trạng thái bùng nổ
kiểu bong bóng, làm xấu đi trầm trọng môi trường sinh thái tài chính của Trung
Quốc. Để bình ổn lạm phát, chính phủ và ngân hàng trung ương lại phải phát hành
thêm công trái quốc gia và ngân phiếu định mức của ngân hàng trung ương để rút
lại số tiền thừa mứa trong lưu thông. Nhưng hành động này lại làm tăng thêm
gánh nặng nợ nần của chính phủ, mà những khoản nợ này sớm muộn gì cũng phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Một chiến lược tài chính hoàn toàn bị động như
vậy quả thật là cực kỳ bất lợi đối với Trung Quốc. Nếu đồng đô-la Mỹ vẫn còn ở
địa vị tiền tệ tích luỹ của thế giới thì Trung Quốc không thể thoát khỏi được
cục diện này. Về cơ bản, việc thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá vàng là phương
pháp duy nhất để tạo ra môi trường sinh thái tài chính tự do, công bằng và hài
hoà cho các nước trên thế giới. Trong tình hình thị trường tỉ suất hối đoái
quốc tế dao động dữ dội, cái giá kinh tế mà các quốc gia trên thế giới phải trả
quả thực là hết sức đắt đỏ và đau đớn, đặc biệt là các quốc gia giàu tài nguyên
khoáng sản càng chịu tổn thương nặng nề hơn. Nếu một bước khó có thể thành công
ngay, thì các nước cũng phải cố gắng thúc đẩy tiến trình đa nguyên hoá tiền tệ
tích luỹ của thế giới với sách lược chia để trị.
3.
Tiền tệ tăng giá và chứng “rối loạn nội tiết” của hệ thống tài chính
Nhật Bản được xem là tấm gương phản chiếu đầy đủ
nhất những hậu quả kinh tế và xã hội của việc tiền tệ tăng giá dữ dội. Nền kinh
tế Nhật Bản tiêu điều trong thời gian dài, đương nhiên có nhân tố khách quan
nội tại của nó, nhưng việc thiếu chuẩn bị tư tưởng đối với cuộc chiến tranh tài
chính” mà Mỹ phát động một cách đột ngột cũng là một trong những nhân tố quan
trọng nhất. Năm 1941, Nhật Bản đã phát động sự kiện “đánh úp Trân Châu cảng”,
khiến cho quân Mỹ chẳng kịp trở tay, còn nước Mỹ đã đáp lại Nhật Bản bằng một
cuộc “chiến tranh chớp nhoáng về tài chính” vào năm 1990, tức là sau gần nửa
thế kỷ, và như vậy, đôi bên xem như đã hoà.
Kitsusengenchu - tác giả cuốn sách “Thất bại
tài chính” xót xa cho rằng, nếu căn cứ theo tỉ lệ tổn thất của cải mà
nói, hậu quả của thất bại tài chính năm 1990 của Nhật Bản gần như tương đương
với tổn thất mà cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã gây ra cho nước này.
Nhật Bản và Trung Quốc cũng giống như nhau, đều
là những quốc gia điển hình ra sức sáng tạo của cải vật chất bằng sức lực của
mình, luôn giữ một thái độ hoài nghi đối với những khái niệm của cải tài chính
mơ hồ. Logic thất bại tài chính của Nhật Bản rất đơn thuần; những sản phẩm giá
rẻ chất lượng cao do nước này sản xuất ra giống như kẻ phá bĩnh trên thị trường
đầy cạnh tranh, còn ngành ngân hàng của họ khi đó đã từng được xếp vào hàng có
số má, ngạo mạn với thiên hạ khi nắm giữ vị trí quốc gia dự trữ ngoại hối hàng
đầu và chủ nợ hàng đầu. Từ năm 1985 đến năm 1990, nền kinh tế quốc nội và mậu
dịch xuất khẩu của Nhật Bản phát triển đến mức cực thịnh, thị trường cổ phiếu,
bất động sản năm nào cũng tăng giá, thu về những khoản lớn vốn đầu tư nước
ngoài, còn sự tự tin của người Nhật cũng tăng lên mức chưa từng thấy, cứ như
thể họ đã qua mặt được Mỹ cả hàng chục năm trời vậy. Nhật không hề có ý thức
đối với chiến tranh tài chính, thậm chí họ còn lạc quan hơn cả Trung Quốc hiện
nay. Nhật Bản cũng vượt xa Trung Quốc về khoản giàu có.
Ý nghĩa của câu nói “vong chiến tất nguy” (nếu
lơ là cảnh giác thì sẽ rất nguy hiểm) đối với Nhật Bản ngày hôm qua vẫn còn
nguyên giá trị đối với Trung Quốc hôm nay.
Tỉ suất hối đoái 1 đô-la Mỹ ăn 250 yên Nhật khi
“thoả thuận Plaza” được ký năm 1985, đã thành 1 đô-la Mỹ ăn 200 yên Nhật, tính
ra đồng đô-la Mỹ đã mất giá đến 20%. Vậy nhưng, đến năm 1987, tỉ lệ này chỉ còn
1 đô-la Mỹ ăn 120 yên Nhật, hay nói cách khác, chỉ trong thời gian ngắn ngủi,
giá đồng yên Nhật đã tăng gấp đôi - một sự biến đổi lớn của môi trường tài
chính của một nước. Đối với nền kinh tế Nhật, hậu quả của sự thay đổi tỉ suất
hối đoái nhanh và mạnh như vậy chẳng khác nào sự biến đổi đột ngột của thời kỳ
băng hà (khiến khủng long tuyệt chủng).
Các bậc thầy tài chính Mỹ sớm biết rõ rằng, nếu
ép cho đồng yên Nhật tăng giá mạnh chỉ trong một thời gian ngắn thì cũng chẳng
khác nào ép nước Nhật uống thuốc kích thích với liều lượng quá mức. Hậu quả tất
yếu là khiến cho nền kinh tế Nhật Bản xuất hiện triệu chứng rối loạn “nội tiết
hệ thống tài chính” nghiêm trọng. Nếu ép được Nhật Bản tiếp tục duy trì chính
sách lãi suất thấp dưới 2,5% trong hơn hai năm thì hiệu quả của liều thuốc kia
càng tuyệt vời hơn. Quả nhiên, nền kinh tế Nhật Bản đã mất cân bằng trong việc
điều tiết tài chính và dưới sự kích thích của liều kích thích tố kia. Những
miếng mỡ như thị trường cổ phiếu, bất động sản tăng lên nhanh chóng, các tổ
chức mô cơ của các bộ phận sản xuất vật chất và ngành xuất khẩu bị teo rút
nghiêm trọng, sau đó hàng loạt các triệu chứng như lượng mỡ trong máu cao, cao
huyết áp trong nền kinh tế bắt đầu xuất hiện định kỳ, gây nên các chứng bệnh
tim mạch và bệnh động mạch vành nơi quả tim của nền kinh tế (hệ thống tài
chính). Để thúc đẩy các căn bệnh kia sớm phát tác, năm 1987, các nhà ngân hàng
ở Ngân hàng thanh toán quốc tế đã nghiên cứu ra một loại biệt dược mới cho Nhật
Bản - thoả thuận Basel - với yêu cầu tỉ lệ vốn tự có của các ngân hàng có
nghiệp vụ quốc tế phải tăng lên từ 8% trở lên, và Mỹ cùng với Anh là hai nước
hăng hái ký trước vào bản thoả thuận, sau đó ép Nhật Bản và các nước khác cũng
phải ký vào, nếu không các ngân hàng ở các nước này không thể tiến hành giao
dịch với các ngân hàng Anh - Mỹ trên thị trưởng tài chính quốc tế.
Vấn đề tồn tại phổ biến của các ngân hàng Nhật
Bản là nguồn vốn tự có thấp, nên chỉ còn cách dựa vào sự gia tăng vốn ngoài sổ
sách, tức là vốn được hình thành từ sự tăng giá cổ phiếu ngân hàng, thì mới có
thể đáp ứng được tiêu chuẩn.
Vốn dựa dẫm quá nhiều vào sự tăng giá cả cổ
phiếu và thị trường bất động sản, nên hệ thống ngân hàng Nhật Bản đã để hở sườn
non dưới lưỡi kiếm sắc bén của cuộc chiến tài chính do Mỹ phát động. Ngày 12
tháng 1 năm 1990, Mỹ đã sử dụng đòn tấn công chiến lược “kiểu tên lửa hành
trình” vào thị trường cổ phiếu Tokyo của Nhật Bản.
Bệnh tim và bệnh động mạch vành của hệ thống tài
chính Nhật không chịu đựng nổi những đòn tấn công dữ dội này, cuối cùng nền
kinh tế Nhật Bản đã trúng gió và sau đó là chứng liệt nửa người kéo dài suốt 17
nằm.
Ngày nay, các bác sĩ tài chính của Mỹ lại “nhiệt
tình và cấp thiết” đem phương thuốc này giới thiệu đến Trung Quốc, tuy nhiên,
có điều khác là, cơ thể nền kinh tế Trung Quốc còn xa mới bằng được nền kinh tế
Nhật Bản năm đó, nếu uống liều thuốc này vào thì chỉ e Trung Quốc không chỉ
“bại liệt” một cách đơn giản như Nhật. Thậm chí, Nhật Bản còn nóng lòng hơn cả
Mỹ, muốn xem xem Trung Quốc uống liều thuốc này vào thì kết cuộc sẽ có phản ứng
ra sao.
Hiện tại, những biểu hiện ban đầu của nền tài
chính Trung Quốc rất giống với Nhật Bản những năm 1985-1990.
4.
Tạo thế bình đẳng khi tham chiến
“Thông lệ quốc tế” hiện đang là một thuật ngữ
khá thịnh hành, đến mức nhiều người tưởng rằng, chỉ cần tuân thủ theo “thông lệ
quốc tế” thì thế giới từ đây về sau sẽ thái bình, còn việc mở cửa tài chính là
chuyện thư thái bình thản giống như vui thú điền viên vậy, chẳng có gì phải lo.
Cách nghĩ lan man trên trời dưới đất kiểu này chỉ e là sẽ hại nước hại dân.
“Thông lệ quốc tế” được hình thành thông qua sự
thao túng của các nhà ngân hàng quốc tế có địa vị lũng đoạn. Trong những điều
kiện nhất định, họ cũng có thể chế tác ra một bộ “thông lệ quốc tế” bịt kín
việc mở rộng phạm vi sinh tồn của ngành ngân hàng Trung Quốc. Thủ đoạn này đang
trở thành thứ vũ khí hiệu quả để loại bỏ đối thủ trong cạnh tranh tài chính của
các ngân hàng Anh - Mỹ.
Thoả thuận Basel đã đánh bại xu thế khuếch
trương của ngành tài chính Nhật Bản năm đó, nay đã thay đầu đổi mặt nâng cấp
lên thành thoả thuận Basel năm 2004. Tương tự như những gì đã làm với Nhật Bản,
thoả thuận này rất có thể sẽ được các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế dùng làm
công cụ để cản trở ngành tài chính Trung Quốc phát triển ra nước ngoài.
Một số quốc gia phát triển cho rằng, các tổ chức
chi nhánh ngân hàng nước ngoài nằm trong biên giới nước họ cần phải đáp ứng
được các yêu cầu của thoả thuận Basel thì mới có thể tiếp tục hoạt động. Tuy
nhiên, ngay cả quốc gia sở tại của các ngân hàng nước ngoài này cũng cần phải
phù hợp với yêu cầu của thoả thuận này, nếu không cũng không thể tồn tại. Những
quy định như vậy chắc chắn sẽ làm tăng thêm giá thành hoạt động của tổ chức chi
nhánh của các ngân hàng nước ngoài này. Đối với Trung Quốc, một nước vừa mới
bước chân vào ngành tài chính thế giới, việc phải đáp ứng hết những yêu cầu hà
khắc như thoả thuận Basel đề ra thì chẳng khác nào rút củi dưới đáy nồi. Nói
cách khác, nếu các ngân hàng bản địa của Trung Quốc không thực hiện thoả thuận
Basel thì khả năng các ngân hàng này ở Mỹ cũng như các chi nhánh của nó ở châu
Âu sẽ bị thay đổi thậm chí là bị đóng cửa, mạng lưới tài chính nước ngoài do
Trung Quốc vất vả xây dựng nên đang tồn tại nguy cơ bị đánh sập.
Các nhà xây dựng quy tắc trò chơi của ngành ngân
hàng Âu - Mỹ chiếm ưu thế cực lớn sẽ dễ dàng phong toả con đường phát triển ra
ngoài của ngành tài chính Trung Quốc.
Không chỉ có vậy, các ngân hàng quốc nội của
Trung Quốc còn cần phải tuân thủ những thứ được gọi là “thông lệ quốc tế, đang
ngáng đường phát triển của mình, mà trong thiên hạ chẳng có quy tắc trò chơi
nào bất công hơn thế. Đương đầu với những đối thủ có ưu thế như vậy, chưa kể là
còn bị trói chân tay, việc thắng thua của Trung Quốc trong trò chơi này xem như
đã định.
Nhận của người mà không đáp lại e là thất lễ.
Đối sách của Trung Quốc chính là, “duy trì lực
lượng tác chiến trên mặt trận chính của mình đồng thời liên kết với các lực
lượng bên ngoài”. Nếu nước nào đó bất chấp mọi “thông lệ quốc tế” để phong toả
chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc, Trung Quốc cũng sẽ bắt chước làm
theo, đặt ra các quy định của ngành ngân hàng “mang màu sắc Trung Quốc“ để hạn
chế cũng như xoá bỏ sự vận hành của các ngân hàng này tại Trung Quốc. Nhìn lại
quá trình Anh - Mỹ trở thành lực lượng chủ đạo của ngành ngân hàng quốc tế,
chúng ta dễ thấy rằng việc xây dựng mạng lưới ngân hàng quốc tế là con đường
tất yếu. Thay vì ngồi im một chỗ và tuân theo các quy tắc áp đặt từ bên ngoài,
ngành ngân hàng Trung Quốc và các ngành khác của nước này phải giữ vững thế
công chính diện, trực tiếp mua lại các ngân hàng của Âu - Mỹ hoặc khuếch trương
các chi nhánh, xây dựng nên mạng lưới tài chính rộng khắp thế giới của chính
Trung Quốc, theo kiểu học chiến tranh từ trong lòng chiến tranh.
Nếu ngành ngân hàng Trung Quốc gặp phải trở lực
trong việc mua lại hoặc khuếch trương ở nước ngoài, thì Trung Quốc cũng đừng
ngại áp dụng những nguyên tắc này để hành xử với những ngân hàng của các nước
tại Trung Quốc.
5.
Giữ vàng hơn giữ ngoại tệ
Trước xu thế đồng đô-la Mỹ trượt giá dài hạn,
nhiều nhà nghiên cứu đã kiến nghị cần phải tích trữ ngoại tệ để làm giảm rủi ro
tổn thất dự trữ ngoại hối của quốc gia. Nếu bãi bỏ chế độ cưỡng chế dự trữ để
cho doanh nghiệp trực tiếp khống chế ngoại hối thì Trung Quốc có thể phân tán
được rủi ro mất giá của dự trữ ngoại hối quốc gia đồng thời giảm nhẹ áp lực
phát hành thêm tiền tệ và tăng giá của đồng nhân dân tệ. Nhưng cách làm này lại
làm suy yếu khả năng kiểm soát của quốc gia đối với sự lưu động ngoại hối, làm
tăng thêm rủi ro cho cả hệ thống tài chính, cho nên đây không phải là một sách
lược toàn vẹn.
So với việc tích trữ ngoại tệ thì tích trữ vàng
vẫn hơn.
Về lâu dài, mọi loại ngoại hối đều có xu hướng
mất giá so với vàng, chỉ khác nhau ở tốc độ mất giá nhanh hay chậm mà thôi. Nếu
muốn đảm bảo sức mua cho khoản tài sản khổng lồ mà Trung Quốc đã tạo ra được
thì cách duy nhất là chuyển đổi dự trữ ngoại hối sang dự trữ vàng và bạc. Dao
động của giá vàng và bạc quốc tế thực ra cũng chỉ là giả tạo mà thôi, nếu nhìn
sâu vào sự dao động này thì còn sợ gì cơn sóng của thị tường tỉ suất hối đoái,
vì một khi có hàng vạn tấn vàng, Trung Quốc nghiễm nhiên đã có được đôi đũa
thần để dẹp yên mọi biến động.
Về căn bản, việc tích trữ vàng trong dân bảo vệ
được sự an toàn tài sản của nhân dân, cho dù lạm phát tiền tệ ở hình thức hàng
hoá hay tiền tệ cũng đều không thể ảnh hưởng được sức mua thực sự của họ. Đây
là nền tảng tự do kinh tế không thể thiếu trong việc xây dựng một xã hội hài
hoà và bình dẳng. Tóm lại, người dân đã lao động tạo ra của cải, họ có quyền
quyết định chọn lựa phương thức tích trữ của cải của riêng mình.
Vàng có tính lưu động thuộc đẳng cấp cao nhất
trong các loại tiền tệ. Trong hơn 5.000 lịch sử của loài người, vàng không chỉ
là hình thức của cải cuối cùng mà bất cứ thời đại nào, nền văn minh nào, dân
tộc nào, khu vực nào, thể chế chính trị nào, vàng cũng đều được chấp nhận. Nó
còn gánh vác trọng trách lịch sử là thước đo cơ bản nhất trong hoạt động kinh
tế của xã hội tương lai. Trong lịch sử, người ta từng bốn lần thử tìm cách tước
bỏ vai trò hòn đá tảng của vàng trong hệ thống tiền tệ nhằm “phát minh” ra chế
độ tiền tệ thông minh hơn, nhưng tất cả đều thất bại. Loài người với bản tính
tham lam cố hữu mình sẽ không thành công trong việc dùng ý thức chủ quan của
mình để tiêu chuẩn hoá các hoạt động kinh tế.
Tích trữ vàng trong dân để chờ khi thiên hạ có
biến động là việc làm cần thiết. Đồng tiền Trung Quốc có vàng đảm bảo giá trị
sẽ hiên ngang sánh vai với các đồng tiền khác của thế giới. Và đến lúc đó, nền
văn minh Trung Hoa cũng sẽ có dịp cất đầu dậy.