Phần II
CUỘC CHIẾN TRĂM NĂM GIỮA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VÀ TổNG THỐNG HOA KỲ
Tôi có hai kẻ thù chính: quân đội miền nam trước
mặt và cơ cấu tiền tệ sau lưng. Trong hai thế lực này, sự đe doạ của kẻ đứng
sau lưng mới là nguy hiểm nhất. Tôi nhìn thấy một nguy cơ trong tương lai đang
đến gần chúng ta, khiến chúng ta lo sợ cho sự an nguy của đất nước. Sức mạnh
của đồng tiền sẽ tiếp tục thống trị và làm tổn thương đến người dân, và đến khi
những đồng tiền cuối cùng tích tụ lại trong tay một số kẻ thì đất nước của
chúng ta sẽ bị phá huỷ. Hiện giờ tôi lo lắng cho tương lai của đất nước hơn bất
cứ lúc nào, thậm chí còn hơn cả trong tình huống chiến tranh(1).
Lincoln, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ
Nếu nói lịch sử Trung Quốc được xoay quanh bởi
những cuộc đấu tranh quyền lực chính trị, và nếu không hiểu được những mưu tính
trong đầu các bậc đế vương thì chúng ta không thể hiểu thấu được cái tinh thần
cốt lõi của lịch sử Trung Quốc. Tương tự, lịch sử phương Tây phát triền từng
bước theo sự tiến hoá của đồng tiền, nếu không hiếu được cơ mưu của đồng tiền
thì không thể nắm được nguồn mạch của lịch sử phương Tây.
Lịch sử nước Mỹ gắn liền với sự can thiệp và âm
mưu của các thế lực quốc tế, trong đó, điều khiến người ta sợ nhất chính là sự
thâm nhập và âm mưu lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ,
nhưng đây cũng là điều chứng mấy ai biết đến.
Việc thiết kế và xây dựng chế độ dân chủ được
coi là hành động nhằm ngăn cản sự đe doạ của các thế lực phong kiến chuyên chế.
Ở phương diện này, nó đã thu được hiệu quả khả quan, tuy nhiên, bản thân chế độ
dân chủ lại không có được sức miễn dịch đáng tin cậy đối với những mầm bệnh
chết người mới được sinh ra từ quyền lực của đồng tiền.
Chế độ dân chủ mới bộc lộ khả năng yếu kém trong
việc phán đoán và phòng ngự hướng tấn công chủ yếu của các ngân hàng quốc tế
đối với việc khống chế quyền phát hành tiền tệ nhằm chi phối toàn bộ quốc gia.
“Tập đoàn lợi nhuận đặc thù siêu tiền tệ” và chính phủ do dân Mỹ chọn ra trong
thời gian hơn một trăm năm trước cũng như sau cuộc nội chiến Bắc- Nam đã tiến
hành những cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm xây dựng một định chế tài chính của
hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu Mỹ. Tổng cộng đã có tất cả 7 tổng thống
Mỹ, nhiều uỷ viên quốc hội khác đã bỏ mạng vì cuộc chiến giữa hai thế lực này.
Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ thương vong của các tổng thống Mỹ so
với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ thương
vong bình quân của một đoàn thuỷ quân lục chiến!
Cùng với việc mở cửa toàn diện nền tài chính của
Trung Quốc, các ngân hàng quốc tế sẽ thâm nhập sâu vào hệ thống tài chính của
Trung Quốc, và câu chuyện đã xảy ra cho nước Mỹ hôm qua, liệu có tiếp tục tái
diễn ở Trung Quốc hôm nay?
1.
Vụ ám sát tổng thống Lincoln
Tối thứ sáu ngày 14 tháng 4 năm 1865, tổng thống
Lincoln đã có thể thở phào nhẹ nhõm kể tử khi diễn ra cuộc nội chiến kéo dài
bốn năm đầy tang tóc với muôn vàn nguy cơ và gian khổ. Cuối cùng, năm ngày
trước khi nhận được tin thắng lợi - tướng Robert Lee thống lĩnh quân đội miền
nam đã đầu hàng tướng Grant của quân đội miền bắc - vị tổng thống đã cảm thấy
đỡ căng thẳng hơn. Và trong lúc hứng chí, ông đã đến nhà hát Ford ở Washington
để xem buổi biểu diễn. Vào lúc 10 giờ 15 phút, lợi dụng lúc không có cận vệ bên
cạnh, một kẻ sát thủ đã lẻn tới cạnh tổng thống, dùng một khẩu súng cỡ lớn nhằm
thẳng vào đầu ông mà bóp cò. Lincoln bị trúng đạn đổ vật về phía trước. Sáng
sớm hôm sau, tổng thống qua đời.
Hung thủ là John Wilkes Booth - một diễn viên có
chút tiếng tăm khi đó. Sau khi ám sát xong Lincoln, tay này hoảng sợ bỏ trốn.
Ngày 26 tháng 4, hung thủ bị bắn chết trên đường bỏ trốn. Trong xe ngựa của
hung thủ, người ta đã phát hiện thấy rất nhiều thư từ viết bằng mật mã và một
số vật dụng cá nhân của Benjamin - Bộ trưởng Bộ chiến tranh của chính phủ miền
nam và sau này là Bộ trưởng ngoại giao, một người có thực quyền về mặt tài
chính ở miền nam đồng thời có mối quan hệ rất thân mật với các đại gia ngân
hàng ở châu Âu.
Sau đó, người này đã đào tẩu sang Anh. Sự kiện
Lincoln bị ám sát về sau đã được lan truyền rộng ra và nhiều người cho rằng đây
là một âm mưu có quy mô lớn. Những người tham gia trong âm mưa này có thể là
các thành viên nội các của Lincoln, các ngân hàng ở New York và Philadenphia,
quan chức cao cấp của chính phủ miền nam, giới quyền lực trong ngành xuất bản
báo chí và các phần tử nổi loạn ở miền bấc.
Thời đó có một giả thuyết lan truyền rộng rãi
rằng, Booth không hề bị giết chết, mà là được phóng thích, còn thi thể được mai
táng sau này là người đồng mưu của anh ta. Edwin Stanton - Bộ trưởng chiến
tranh nắm giữ trọng quyền khi đó đã che giấu chân tướng sự việc. Thoạt nghe thì
đây có vẻ là một giả thuyết hoang đường. Thế nhưng, sau khi một loạt các văn
kiện bí mật của Bộ trưởng chiến tranh được giải mã vào những năm 30 của thế kỷ
20 thì các nhà sử học đã phát hiện ra một sự thật đầy kinh ngạc về cái chết của
tổng thống Lincoln, trên thực tế chẳng khác gì lời đồn thổi của thiên hạ.
Trong bài viết “Tại sao Lincoln bị ám sát?”, Otto
Eisenschiml - nhà sử học đầu tiên chuyên nghiên cứu về đề tài này đã gây chấn
động cho các đồng nghiệp trên thế giới bằng những phát hiện đầy bất ngờ. Sau
đó, Theodore Roscoe đã cho công bố kết quả nghiên cứu có sức ảnh hưởng rộng rãi
hơn nữa bằng cách chỉ ra rằng:
“Phần lớn các nghiên cứu lịch sử của thế kỷ
19 liên quan đến việc tổng thống Lincoln bị ám sát đều miêu tả sự việc giống
như một vở bi kịch điển hình của nhà hát Ford vậy… Chỉ có một số ít nhìn nhận
sự việc như là một cuộc mưu sát: Lincoln chết trong tay một tên tội phạm thô
bỉ… tội phạm phải bị trừng phạt theo pháp luật; thuyết âm mưu đã bị bóp chết;
cuối cùng Đức và Mỹ đã giành được thắng lợi Lincoln cũng đã thuộc về quá khứ”.
Thế nhưng, việc giải thích sự kiện ám sát tổng
thống vừa không khiến cho người ta hài lòng vừa khó khiến cho người ta khâm
phục. Thực tế cho thấy, tên tội phạm liên quan đến cái chết của Lincoln vẫn
đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật(2). Trong bài viết “Hành động ngu
xuẩn“ (This One Mad Act) thuộc cuốn hồi ký của mình, Izola Forrester - cháu
gái của tên hung thủ - đã nói rằng, bà phát hiện thấy ghi chép bí mật “Kỵ sĩ
rạp xiếc” (Knights of the Golden Circle) đã bị chính phủ cố ý cất vào
trong kho văn kiện, đồng thời bị Edwin Stanton xếp vào loại tài liệu tuyệt mật.
Sau khi Lincoln bị ám sát, bất cứ ai cũng không được tiếp cận với những tài
liệu này. Do mối quan hệ huyết thống giữa Izola và Booth, hơn nữa, với tư cách
là một nhà văn chuyên nghiệp, cuối cùng bà đã trở thành là người đầu tiên được
phép đọc những tài liệu này. Trong cuốn sách của mình, bà đã viết rằng:
Những bao tài liệu cũ kỹ thần bí này được cất
giữ trong một két bảo hiểm nằm trong góc khuất giữa nơi đặt di tích của “âm mưu
thẩm phán” và căn phòng trưng bày. Nếu không phải là năm năm trước khi đọc
những tư liệu (ở căn phòng đó) mà tôi đã tình cờ nhìn thấy cạnh chiếc tủ, thì
có thể chẳng bao giờ tôi biết chúng (tài liệu bí mật) tồn tại. Những tài liệu ở
đây có liên quan đến ông nội tôi. Tôi biết ông từng là thành viên của một tổ
chức bí mật. Tổ chức này chính là “Kỵ sĩ rạp xiếc” do Bickley sáng lập nên. Tôi
có giữ một tấm ảnh của ông - bức ảnh ông chụp chung với họ - tất cả họ dầu ăn
mặc chỉnh tề.
Bức ảnh này được phát hiện trong quyển “kinh
thánh” của bà nội tôi tôi còn nhớ bà từng nói rằng chồng bà (Booth) là “công cụ
của người khác(3). “Kỵ sĩ rạp xiếc” và các thế lực tài chính New York rốt cuộc
có mối quan hệ như thế nào? Có bao nhiêu người trong chính phủ của Lincoln đã
tham gia vào âm mưu ám sát Lincoln? Tại sao các nghiên cứu về cái chết của
Lincoln trong suốt thời gian dài luôn lạc hướng như vậy? Cái chết của Lincoln
cũng giống với cái chết của Kennedy 100 năm sau đó, đều là sự phối hợp mang
tính tổ chức trên quy mô lớn, mọi chứng cứ đều bị bịt đầu mối, mọi sự điều tra
đều bị đánh lạc hướng một cách hệ thống, chân tướng của sự việc luôn được che
đậy bởi một màn sương lịch sử dày đặc Muốn hiểu được động cơ và mưu đồ thực sự
đằng sau việc Lincoln bị sát hại, chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn những cuộc
đối đầu trong nỗ lực khống chế quyền phát hành tiền tệ của quốc gia này suốt
quá trình lập quốc của Mỹ.
2.
Quyền phát hành tiền tệ và chiến tranh độc lập của nước Mỹ
Trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử viết về
nguyên do của cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ có rất nhiều điều giá trị vừa toàn
diện lại vừa trừu tượng được đem ra phân tích và trình bày. Nhưng ở đây, chúng
ta sẽ nhìn từ một góc độ khác để tìm hiểu sâu hơn bối cảnh tài chính cũng như
vai trò hạt nhân của nó trong cuộc cách mạng này.
Đa số những người đến Mỹ mưu sinh sớm nhất chính
là những cùng dân hết sức nghèo khổ. Trong cuộc hành trình của mình đến vùng
đất mới, ngoài những hành lý đơn giản đem theo, hầu như họ chẳng có tài sản
đáng giá hay tiền bạc gì. Thời đó, ở miền bắc Mỹ người ta vẫn chưa khám phá ra
những mỏ vàng bạc lớn như sau này, cho nên nguồn tiền tệ lưa thông trên thị
trường cực kỳ thiếu hụt. Thêm vào đó là tỉ lệ nhập siêu của Anh quốc đã khiến
cho một lượng lớn tiền vàng bạc chảy về quốc gia của xứ sở sương mù này, và
điều đó càng làm tăng thêm tình trạng thâm hụt lượng tiền lưu thông(4). Phần lớn
hàng hoá và dịch vụ do những người dân di cư mới của miền Bắc Mỹ làm ra từ sự
lao động khổ nhọc đã không thể được trao đổi hiệu quả do thâm hụt lượng tiền
lưu thông, từ đó đã gây cản trở nghiêm trọng đến bước phát triển của nền kinh
tế. Để ứng phó với vấn đề nan giải này, người ta buộc phải sử dụng các loại
tiền tệ thay thế khác để tiến hành mua bán hàng hoá. Chẳng hạn, các hàng hoá
được chấp nhận với mức độ cao như da và lông động vật, vỏ ốc, thuốc lá, gạo,
lúa mạch, ngô được sử dụng như một loại tiền. Chỉ riêng ở miền Bắc Carolina, từ
năm 1715 đã có hơn 17 loại hàng hoá được dùng như tiền tệ chính thức (Legal
Tender), chính phủ và người dân có thể dùng những hàng hoá này để tiến hành các
hoạt động giao dịch như đóng thuế, trả nợ, mua bán hàng hoá. Khi đó tất cả
những loại tiền tệ thay thế này đều lấy đồng bảng Anh làm tiêu chuẩn tính toán.
Trong hoạt động thực tế, do giá thành, quy cách, mức độ chấp nhận và tính chất
có thể lưu giữ lâu của các loại hàng hoá này khác nhau, nên việc đo lường theo
tiêu chuẩn cũng trở nên khó khăn. Ở mức độ nào đó, chúng đã cứu vãn được tình
trạng thâm hụt tiền lưu thông đang cấp bách, nhưng nó cũng đã tạo nên tình
trạng “thắt cổ chai” cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá(5).
Sự thiếu hụt tiền kim loại trong thời gian dài
và sự bất tiện trong việc sử dụng các loại tiền hiện vật thay thế đã thúc đẩy
chính phủ thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống để bắt đầu một thử nghiệm hoàn
toàn mới: dùng loại tiền giấy có tên là Colonial Scrip để in tiền - loại tiền
chuẩn được pháp luật quy định thống nhất. Sự khác biệt lớn nhất giữa loại tiền
giấy này so với chi phiếu ngân hàng đang lưa hành ở châu Âu chính là nó không
có bất cứ khoản hiện vật vàng hay bạc nào bảo đảm mà chỉ là một loại tiền tín
dụng chính phủ. Mọi người trong xã hội đều cần phải đóng thuế cho chính phủ, mà
chỉ cần tiếp nhận loại tiền giấy này như bằng chứng của việc nộp thuế thì chính
phủ đã có đầy đủ các yếu tố cơ bản để đưa loại tiền giấy này vào lưu thông trên
thị trường.
Loại tiền mới này quả nhiên đã thúc đẩy sự phát
tiền nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, các giao dịch hàng hoá cũng ngày càng
trở nên nhộn nhịp.
Lúc này, Adam Smith của nước Anh cũng đã chú ý
đến sự thể nghiệm tiền tệ mới này của chính phủ thuộc địa ở Bấc Mỹ, và ông hiểu
khá rõ vai trò kích thích to lớn đối với thương mại của loại tiền giấy này, đặc
biệt là đối với khu vực bắc Mỹ đang thiếu hụt tiền kim loại. Ông cho rằng:
“Việc mua bán trên cơ sở tín dụng khiến cho các thương gia có thể định kỳ kết
toán số dư tín dụng giữa các bên theo mỗi tháng hoặc mỗi năm, và điều này đã
giảm thiểu sự bất tiện trong giao dịch. Một hệ thống tiền giấy được quản lý tốt
không những tạo ra sự thuận tiện trong sử dụng mà còn có thể có rất nhiều ưu
thế trong một số tình huống nào đó”(6).
Nhưng một loại tiền tệ không có thế chấp là kẻ
thù tự nhiên của các ngân hàng, bởi vì nếu không có các khoản vay của chính phủ
làm thế chấp thì chính phủ cũng không cần phải vay các khoản tiền kim loại vốn
rất thiếu hụt thời bấy giờ, và như vậy, quả cân lớn nhất trên tay của các ngân
hàng trong chốc lát cũng mất đi uy lực.
Năm 1763, Benjamin Franklin vi hành đến nước
Anh. Khi được vị chủ tịch của Ngân hàng Anh hỏi về nguyên nhân phát triển thịnh
vượng của thuộc địa ở châu lục mới, Franklin đã trả lời rằng: “Điều này rất đơn
giản. Ở đất thuộc địa, chúng tôi phát hành tiền tệ của riêng mình, gọi là
“chứng chỉ thuộc địa”. Chúng tôi căn cứ vào nhu cầu của thương nghiệp và công
nghiệp để phát hành một lượng tiền tệ cân đối, như vậy, sản phẩm rất dễ dàng
chuyển từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Dùng phương thức này,
chúng tôi tạo ra loại tiền giấy của riêng mình, đồng thời bảo đảm sức mua của
nó, và chính phủ của chúng tôi không cần phải trả lợi tức cho bất kỳ ai”(7).
Loại tiền mới này tất nhiên sẽ giúp cho thuộc
địa châu Mỹ thoát ly khỏi sự khống chế của Ngân hàng Anh.
Các ngân hàng Anh tỏ ra phẫn nộ và bắt tay nhau
hành động. Dưới sự khống chế của các nhà tài phiệt ngân hàng, vào năm 1764,
Nghị viện Anh đã thông qua “Đạo luật tiền tệ” (Currency Act), theo đó, Nghị
viện nghiêm cấm các bang trong thuộc địa châu Mỹ in ấn và phát hành tiền giấy
của riêng mình, đồng thời yêu cầu chính phủ các nơi này phải sử dụng toàn bộ
vàng và bạc để đóng những khoản thuế cho chính phủ Anh. Franklin đã nhận xét
một cách đau đớn về hậu quả kinh tế nghiêm trọng do đạo luật này mang lại cho các
bang ở xứ thuộc địa như sau:
“Chỉ trong một năm, tình hình (thuộc địa) đã
hoàn toàn đảo ngược, thời kỳ phồn thịnh đã kết thúc, kinh tế suy thoái nghiêm
trọng đến mức từ đường phố cho đến bến cảng đều tràn ngập những đám người thất
nghiệp”.
“Nếu như Ngân hàng Anh không tước đoạt quyền
phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa thì người dân của xứ này sẽ vui vẻ đóng các
khoản thuế trà và các sản phẩm khác. Đạo luật này đã gây nên tình trạng thất
nghiệp và sự bất mãn. Xứ thuộc địa không thể phát hành được tiền tệ của mình,
từ đó sẽ không thể thoát khỏi sự khống chế của Vua George III và Ngân hàng thế
giới một cách vĩnh viễn. Và nó trở thành nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến
tranh độc lập ở Mỹ”(9). Những người đặt nền móng xây dựng nên Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ nhận thức được sự khống chế của Ngân hàng Anh đối với nền chính trị Anh
cũng như sự bất công đối với người dân. Người hoàn thành bản “Tuyên ngôn Độc
lập” Mỹ nổi tiếng khi chỉ mới 33 tuổi chính là Thomas Jefferson - tổng thống
thứ ba của nước Mỹ - với một câu cảnh báo người đời rằng:
Nếu cuối cùng người dân Mỹ để cho ngân hàng tư
nhân khống chế được sự phát hành tiền tệ của quốc gia thì những ngân hàng này
trước hết sẽ thông qua việc tăng lạm phát tiền tệ, sau đó thông qua việc thắt
chặt tiền tệ để tước đoạt tài sản của người dân, cho đến một ngày, khi con cái
của họ thức tỉnh, thì họ đã mất đi nhà cửa vườn tược của mình và miền đất mà
cha ông họ đã từng khẩn hoang khai phá(10).
Sau hơn 200 năm khi lắng nghe câu nói này của
Jefferson được phát ngôn vào năm 1791, người ta vẫn không khỏi kinh ngạc trước
sự chính xác đến kinh người trong những lời nói đó. Ngày nay, các ngân hàng tư
nhân quả nhiên đã phát hành hơn 97% lượng tiền của Mỹ, người dân Mỹ quả nhiên
cũng mắc nợ ngân hàng với khoản tiền lên đến con số 44.000 tỉ đô-la Mỹ. Và có
lẽ, một ngày nào đó khi tỉnh dậy, họ sẽ thấy rằng mình đã mất đi nhà cửa vườn
tược và tài sản, giống như những gì đã từng xảy ra vào năm 1929.
Khi xem xét kỹ lịch sử và tương lai, những người
dẫn đường vĩ đại của Hoa Kỳ đã viết ra một cách rõ ràng trong mục 8 chương 1
Hiến pháp của nước Mỹ rằng: “Quốc hội có quyền in và quy định giá trị của đồng
tiền quốc gia”(11).
3.
Chiến dịch thứ nhất của Ngân hàng quốc tế: Ngân hàng đầu tiên của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ (1791 - 1811)
Tôi tin chắc rằng, sự de doạ của tổ chức ngân
hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù.
Họ đã tạo ra một tầng lớp quý tộc rủng rỉnh tiền bạc và coi thường chính phủ.
Quyền phát hành tiền tệ phải được đoạt lại từ tay ngân hàng, nó phải thuộc về
những người chủ thực sự của nó - nhân dân(12).
Thomas Jefferson 1802.
Alexander Hamilton là một nhân vật có tầm ảnh
hưởng quan trọng trong mối quan hệ mật thiết. với gia tộc Rothschild. Sinh ra ở
quần đảo Tây Ấn Độ thuộc Anh, Hamilton đến Mỹ với tên tuổi, danh tính và nơi
xuất thân được giấu kín, sau đó kết hôn với con gái một gia đình giàu có ở New
York.
Và theo những biên lai chuyển khoản còn lưa trữ
ở Bảo tàng Anh, chúng ta có thể thấy rằng, Hamilton đã từng tiếp nhận sự trợ
giúp của dòng họ Rothschild(13). Năm 1789, Hamilton đã được tổng thống
Washington bổ nhiệm làm Bộ trưởng thứ nhất Bộ tài chính, chịu trách nhiệm về hệ
thống ngân hàng trung ương Mỹ. Năm 1790, đối mặt với những khó khăn kinh tế và
khủng hoảng nợ nần sau cuộc chiến tranh độc lập, Hamilton kiên quyết đề nghị
Quốc hội thành lập một ngân hàng trung ương tư nhân kiểu như Ngân hàng Anh để
phụ trách hoàn toàn việc phát hành tiền tệ. Theo lập luận của ông ta, với trụ
sở đặt tại Philadelphia, Ngân hàng trung ương tư nhân sẽ cho xây dựng chi nhánh
của mình tại các nơi, tiền và nguồn thuế của chính phủ cần phải đặt trong hệ
thống của ngân hàng này, ngân hàng này phụ trách việc phát hành tiền tệ quốc
gia để thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế, cho vay và thu lợi nhuận từ chính
phủ Mỹ. Giá trị của ngân hàng này là 10 triệu đô-la Mỹ, trong đó tư nhân nầm
giữ 80% cổ phần, 20% còn lại thuộc về chính phủ Mỹ. Cổ đông bầu ra 20 người
trong số 25 người của hội đồng quản trị, 5 người còn lại do chính phủ bổ nhiệm.
Hamilton đại diện cho lợi ích của giai cấp thống
trị tinh anh Hoa Kỳ. Ông ta từng chỉ ra rằng, “mọi xã hội đều phân chia thành
đa số và thiểu số. Thiểu số xuất thân tử các gia đình danh gia vọng tộc, còn đa
số chính là dân đen. Trước những rối loạn và biến động, nhóm đa số thường rất
ít khả năng đưa ra được sự phán đoán và quyết định chính xác”.
Jefferson đại diện cho lợi ích của nhân dân. Đối
với quan điểm của Hamilton, câu trả lời của ông là chúng tôi cho rằng chân lý
sau đây là không cần phải chứng minh:
“Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo
hoá cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Liên quan đến vấn đề chế độ ngân hàng trung ương
tư nhân, cả hai bên đều chĩa mũi nhọn công kích vào nhau.
Hamilton cho rằng “nếu như không đem lợi
ích và của cải của những cá nhân có tiền trong xã hội tập hợp lại với nhau thì
xã hội này không thể thành công”(14). Công trái quốc gia, nếu không phải là quá
nhiều, thì cũng phải là hạnh phúc của quốc gia chúng ta”(15).
Jefferson phản pháo rằng “Sự đe doạ của một tổ
chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự
của kẻ thù”(16). “Chúng ta vĩnh viễn không thể chấp nhận việc cho phép giai cấp
cầm quyền tăng thêm nợ trên đầu trên cổ nhân dân”(17).
Tháng 12 năm 1791, khi được giao cho Quốc hội
thảo luận, ngay lập tức phương án của Hamilton đã dẫn đến sự tranh luận gay gắt
chưa từng có. Cuối cùng, phương án này đã được thượng nghị viện đã thông qua
với đa số phiếu thuận, và nó cũng vượt qua ải hạ nghị viện với số phiếu 39/20.
Lúc này, tổng thống Washington đang trong tình trạng phải xử lý khủng hoảng nợ
nghiêm trọng và đã bị đẩy vào thế phân vân cực độ. Ông đã hỏi ý kiến Jefferson
và Madison - Bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ thời đó. Những người này đã chỉ rõ
ràng rằng, đề án này xung đột với hiến pháp. Hiến pháp trao quyền cho Quốc hội
phát hành tiền tệ, nhưng Quốc hội không được quyền phát hành tiền tệ cho bất cứ
ngân hàng tư nhân nào. Hiển nhiên, những phân tích này đã tác động mạnh tới
tổng thống đến nỗi ông ta đã quyết tâm phủ nhận pháp lệnh này đến cùng.
Sau khi biết được tin tức này, với cương vị Bộ
trưởng tài chính, Hamilton lập tức thuyết phục Washington rằng, nếu không thành
lập ngân hàng trung ương để nhận sự đầu tư của nước ngoài đổ vào thì chính phủ
sẽ sụp đổ rất nhanh.
Cuối cùng, những nguy cơ trước mắt đã áp đảo
những suy nghĩ lâu dài cho tương lai. Ngày 25 tháng 2 năm 1792, tổng thống
Washington đã đặt bút ký trao quyền thành lập Ngân hàng trung ương thứ nhất của
Mỹ với thời gian hiệu lực trong 20 năm(18).
Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế cuối cùng đã
giành được thắng lợi quan trọng. Đến năm 1811, tư bản ngoại quốc đã chiếm được
7 triệu trong tổng số 10 triệu cổ phần gốc, Ngân hàng Anh và Nathan Rothschild
trở thành cổ đông chủ yếu của Ngân hàng trung ương Mỹ - Ngân hàng thứ nhất của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The First Bank of the United States)(19).
Hamilton cuối cùng trở nên vô cùng giàu có. Sau
này, Ngân hàng thứ nhất sáp nhập vào công ty Manhattan New York do Lan Bow
thành lập để trở thành Ngân hàng thứ nhất của phố Wall. Năm 1955, nó được sáp
nhập với Chase Bank của Rockefeller và trở thành ngân hàng Chase Manhattan
Bank.
Việc chính phủ tỏ rõ khát vọng cực độ đối với
tiền tài hoàn toàn phù hợp với mong đợi của ngân hàng trung ương tư nhân - ngân
hàng đang nóng lòng trông chờ chính phủ vay nợ. Chỉ trong vòng năm năm ngắn
ngủi kể từ khi ngân hàng trung ương thành lập (1791 - 1796), số nợ vay của
chính phủ Mỹ đã tăng thêm 8,2 triệu đô-la.
Năm 1798, Jetferson đã nói một cách đầy hối tiếc
rằng:
“Tôi thật sự hy vọng chúng ta có thể sửa chữa,
chỉnh sửa thêm cho bản hiến pháp, loại bỏ quyền vay nợ của chính phủ”(20).
Sau khi trúng cử tổng thống khoá thứ ba (1801 -
1809), Jefferson đã nỗ lực không ngừng hòng phế bỏ Ngân hàng thứ nhất của Mỹ,
và đến khi hoạt động của ngân hàng sắp mãn hạn vào năm 1811 thì mâu thuẫn giữa
thượng nghị viện và hạ nghị viện cũng đã lên đến mức cực điểm. Hạ nghị viện đã
phủ quyết đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng với 65 phiếu thuận và
64 phiếu chống, còn thượng nghị viện thì ở thế giằng co 17/17. Lần này, phó
tổng thống đã phá vỡ thế bế tắc bằng một phiếu phủ quyết quan trọng và một
quyết định được thông qua ngày 3 tháng 3 năm 1811, theo đó, Ngân hàng thứ nhất
của Mỹ phải đóng cửa(21). Lúc này, Nathan Rothschild đang trấn giữ ở London,
khi hay tin đã nổi trận lôi đình. Ông ta đe doạ rằng: “Hoặc là ngân hàng (ngân
hàng thứ nhất Mỹ) được quyền kéo dài thời hạn kinh doanh, hoặc là nước Mỹ sẽ
phải đối mặt với một cuộc chiến tranh tai hoạ nhất”. Nhưng đáp lại lời thách
thức ấy của Nathan, chính phủ Mỹ vẫn không hề đưa ra bất cứ hành động nào.
Nathan lập tức đáp trả: “Hãy dạy cho những người Mỹ vô lý này một bài học, hãy
đưa chúng trở về thời kỳ thuộc địa”.
Kết quả là mấy tháng sau, cuộc chiến tranh năm
1812 giữa Anh và Mỹ đã nổ ra. Cuộc chiến đã kéo dài suốt ba năm, và mục đích
của Rothschild là hết sức rõ ràng. Dòng họ này phải đánh cho đến khi những
khoản nợ của chính phủ Mỹ chất cao như núi, và chính phủ Mỹ rốt cuộc không thể
không đầu hàng, phải nhượng bộ để gia tộc này được tiếp tục chi phối ngân hàng
trung ương. Kết quả là khoản nợ của chính phủ Mỹ đã tăng vọt từ 45 triệu đô-la
lên đến 127 triệu đô-la, để rồi cuối cùng, vào năm 1815, chính phủ Mỹ cũng đã
phải chịu khuất phục. Ngày 5 tháng 12 năm 1815, tổng thống Madison đã đề xuất
việc thành lập Ngân hàng trung ương thứ hai. Kết quả là Ngân hàng Hoa Kỳ (The
Bank of the United States) đã được khai sinh vào năm 1816 (1816 - 1832).
4.
Sự trở lại của Ngân hàng quốc tế (1816 - 1832)
Sự chi phối của các cơ cấu ngân hàng đối với ý
thức nhân dân tất yếu sẽ bị phá vỡ, nếu không thì sự chi phối này sẽ phá vỡ đất
nước chúng ta(22).
Thư của Jefferson gửi cho Monroe (Tổng thống thứ
5 của Hoa Kỳ) năm 1815.
Ngân hàng thứ hai của Mỹ được cấp phép kinh
doanh từ những năm 20 với tổng số vốn lên đến 35 triệu đô-la Mỹ, trong đó 80%
vốn do tư nhân chiếm giữ, 20% vốn còn lại thuộc về chính phủ(23). và cũng giống
như cơ cấu Ngân hàng thứ nhất, Rothschild là người nắm giữ quyền lực của Ngân
hàng thứ hai.
Năm 1828, Andrew Jackson tham gia tranh cử tổng
thống. Trong một lần phát biểu trước các ngân hàng, ông đã không ngần ngại mà
nói rằng:
“Các ngài là một lũ rắn độc. Nhân danh Chúa,
nhất định tôi sẽ quét sạch các ngài. Nếu như người dân biết được sự khuất tất
trong hệ thống liền tệ và hệ thống ngân hàng của chúng tôi thì ngay trước sáng
ngày mai sẽ nổ ra cuộc cách mạng”.
Khi được bầu làm tổng thống năm 1828, Andrew
Jackson quyết tâm phế bỏ Ngân hàng thứ hai. Ông chỉ ra rằng:
“Nếu Quốc hội được hiến pháp trao quyền phát
hành tiền tệ, hãy để cho Quốc hội thực thi quyền của mình và không được để
quyền đó rơi vào tay bất cứ cá nhân hay công ty nào”.
Trong tổng số 11.000 nhân viên đang làm việc cho
chính phủ liên bang, ông đã cho sa thải hơn 2.000 nhân viên có liên quan đến
ngân hàng.
Năm 1832, Jackson tham gia tranh cử nhiệm kỳ thứ
hai. Nếu ông thắng cử, thì thời gian hoạt động của ngân hàng thứ hai sẽ kết
thúc trong nhiệm kỳ tiếp theo của ông vào năm 1836. Mọi người đều biết cảm
tưởng của tổng thống đối với ngân hàng thứ hai. Và để tránh tình trạng “đêm dài
lắm mộng”, ngân hàng đã nghĩ cách để có được giấy phép kinh doanh đặc biệt kéo
dài thêm 20 năm nữa trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống. Đồng thời với
việc này, các ngân hàng cũng đã không tiếc chi ra khoản tiền 3 triệu đô-la để
ủng hộ cho quỹ tranh cử của Henry Clay - đối thủ của tổng thống Jackson - trong
khi khẩu hiệu tranh cử của Jackson là “Có Jackson thì không có ngân hàng”. Cuối
cùng, Jackson đã giành thắng lợi với số phiếu áp đảo.
Đề án kéo dài thời hạn giấy phép kinh doanh ngân
hàng đã được thông qua tại thượng nghị viện với số phiếu 28/20, và vượt qua cửa
hạ nghị viện với số phiếu 167/85(24). Ỷ vào sự hậu thuẫn của đế quốc tài chính
Rothschild hùng mạnh ở châu Âu, Biddle - Chủ tịch Ngân hàng thứ hai - chẳng coi
tổng thống ra gì. Trong khi thiên hạ bàn tán xôn xao rằng đề án kéo dài thời
hạn kinh doanh của ngân hàng sẽ bị Jackson phủ quyết, Biddle đã lên giọng tuyên
bố “Nếu ông ta phủ quyết đề án, thì tôi sẽ phủ quyết ông ta”.
Rốt cục, Jackson đã phủ quyết không chút do dự
đối với đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng thứ hai. Ông còn lệnh
cho Bộ trưởng tài chính lập tức yêu cầu các cơ quan dự trữ của chính phủ rút
ngay các khoản tiền tiết kiệm từ tài khoản của ngân hàng thứ hai, chuyển vào
các tài khoản của ngân hàng ở các bang. Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống
Jackson đã trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Đây là lần duy nhất trong
lịch sử nước Mỹ, chính phủ đã giảm khoản nợ quốc gia xuống mức 0, đồng thời còn
tạo ra một khoản thặng dư trị giá 35 triệu đô-la Mỹ.
Nhận xét về thành tựu vĩ đại này, các nhà sử học
cho rằng “đây là thành công xán lạn nhất đồng thời cũng là sự cống hiến quan trọng
nhất mà tổng thống đã làm cho đất nước này”.
Tờ Boston Post đã ví việc này
với sự kiện Chúa đuổi người cho vay tiền ra khỏi thánh đường vậy.
5.
“Ngân hàng muốn giết chết tôi, nhưng tôi sẽ giết chết ngân hàng”
Ngày 30 tháng 1 năm 1835, tổng thống Andrew
Jackson đến Capital Hill tham dự tang lễ của một nghị sĩ Quốc hội. Với hai khẩu
súng đã được nạp đầy đạn giấu trong túi áo khoác, Richard Laurence - một tay
thợ sơn thất nghiệp đến từ Anh - đã lẻn theo tổng thống Andrew Jackson. Khi
tổng thống tiến vào phòng nghi thức tang lễ, Laurence vẫn còn cách tổng thống
một khoảng khá xa. Hắn nhẫn nại chờ thời cơ tốt hơn để hành động. Sau khi nghi
thức kết thúc, hắn nấp vào giữa hai hàng cột, nơi mà hắn biết chắc chắn tổng
thống phải đi qua. Vừa đúng lúc tổng thống bước đến, Laurence từ phía sau cột
xông ra, chĩa súng vào tổng thống và bóp cò. Nhưng rất may, viên đạn bị lép, vì
thế Laurence đã không thể hạ sát được tổng thống. Khi đó, mọi người xung quanh
đều hết sức hoảng hốt. Nhưng vị tổng thống 67 tuổi này vẫn tỏ ra bình tĩnh đối
mặt với tên sát thủ, và theo bản năng, ông đưa cây gậy lên để tự vệ. Liền đó,
tên sát thủ lại tiếp tục móc khẩu súng thứ hai ra và bóp cò, nhưng đạn vẫn bị
lép. Đây là tổng thống đầu tiên của Mỹ bị ám sát, và thật may mắn là ông đã
thoát chết. Thông thường, tỉ lệ cả hai khẩu súng lép đạn chỉ là 1/125.000 mà
thôi.
Tên sát nhân 32 tuổi này tự xưng là người thừa
kế hợp pháp của quốc vương Anh, và hắn cho rằng, tổng thống Mỹ đã giết chết cha
hắn, lại còn cự tuyệt để hấn có được một khoản tiền lớn. Sau đó, tại toà án,
chỉ sau năm phút thẩm tra, toà đã phán quyết là tên sát nhân này mắc bệnh tâm
thần, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hắn.
Từ đó về sau, bệnh tâm thần trở thành cái cớ
thích hợp nhất để các sát thủ chạy tội.
Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống Jackson đã
trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Cuối tháng Giêng, tức là ngày 30
tháng 1, vụ ám sát tổng thống đã xảy ra. Liên quan đến tên hung thủ Richard
Laurence, trong cuốn sách của mình, Griffin đã viết rằng: “Tên sát thủ này hoặc
là bị bệnh tâm thần thật, hoặc là giả bệnh để hòng thoát khỏi sự trừng trị
nghiêm minh của pháp luật. Sau này, hắn đã khua môi múa mép nói với người khác
rằng hắn có mối quan hệ mật thiết với những người có quyền thế ở châu Âu, và
hắn đã được hứa là nếu có bị bắt thì sẽ được bảo vệ”(25).
Ngày 8 tháng 6 năm 1845, tổng thống Jackson qua
đời. Trên bia mộ của ông chỉ lưu lại một câu nói duy nhất, “Ta đã giết được
ngân hàng”.
Ngân hàng Trung ương Mỹ lại một lần nữa bị vô
hiệu hoá, dẫn đến sự trả đũa nghiêm khắc của phía Anh. Nước Anh lập tức đình
chỉ các khoản cho vay đối với Mỹ, trong đó có chiêu tận thu lượng cung ứng tiền
vàng của nước Mỹ.
Dưới sự vận hành và điều khiển của gia tộc
Rothschild, nền tài chính của Anh khi đó đã có được lượng lưu thông tiền vàng
với quy mô lớn nhất. Thông qua các khoản tiền cho vay và sự vận hành của Ngân
hàng trung ương Mỹ, nền tài chính Anh đã khống chế hoàn toàn việc cung ứng tiền
tệ của Mỹ.
Sau khi đơn xin kéo dài thời hạn của Ngân hàng
thứ hai bị tổng thống phủ quyết, Chủ tịch Ngân hàng thứ hai đã khởi động việc
“phủ quyết” đối với tổng thống. Ngân hàng thứ hai tuyên bố lập tức thu hồi các
khoản đã cho vay, đình chỉ tất cả các khoản vay mới. Các ngân hàng chủ yếu ở
châu Âu do dòng họ Rothschild thao túng cũng đồng thời khống chế vòng quay lưu
chuyển tiền tệ của nước Mỹ, đẩy nước này rơi vào tình thế sụt giảm lượng lưu
thông tiền tệ “do con người gây ra” một cách nghiêm trọng, cuối cùng dẫn đến
“cuộc khủng hoảng năm 1837”, kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng
trong suốt hơn 5 năm với sức phá hoại lớn chưa từng thấy, gây nên một thời kỳ
điêu tàn và kéo dài mãi đến năm 1929.
“Cuộc khủng hoảng năm 1857” tiếp sau “cuộc khủng
khoảng năm 1837”, rồi cuộc khủng hoảng năm 1907 một lần nữa đã xác nhận câu nói
của Rothschild: “Chỉ cần khống chế việc phát hành tiền tệ của một quốc gia thì
tôi không cần phải quan tâm rằng ai là kẻ đã đặt ra pháp luật”.
6.
Chiến tuyến mới: “Hệ thống tài chính độc lập”
Năm 1837, Martin Van Buren - người kế nhiệm được
tổng thống Jackson ủng hộ - tiếp quản Nhà trắng. Thách thức lớn nhất của Buren
là làm thế nào để khắc phục nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng do nguồn cung ứng
tiền bị Ngân hàng quốc tế thắt chặt. Sách lược tiên phong của ông là xây dựng
“hệ thống tài chính độc lập” (Independent Treasury System), rút toàn bộ tiền tệ
do Bộ tài chính kiểm soát khỏi hệ thống ngân hàng tư nhân, rồi gửi vào hệ thống
của mình ở Bộ tài chính. Các nhà sử học gọi hành động này là “cuộc ly hôn giữa
tài chính và ngân hàng”.
Khởi nguồn của “hệ thống tài chính độc lập” là
khi tổng thống Jackson phủ quyết việc kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng
thứ hai, đồng thời ra lệnh rút toàn bộ các khoản tiền của chính phủ khỏi hệ
thống ngân hàng này, chuyển đến gửi ở ngân hàng của các bang. Ai ngờ, các nhà
ngân hàng dùng tiền của chính phủ làm dự trữ, sau đó phát hành tín dụng với số
lượng lớn để đầu cơ. Đây là một nguyên nhân khác dẫn đến “cuộc khủng hoảng năm
1837”. Nguồn tiền của chính phủ do Martin Van Buren đề xuất phải làm sao được
giải phóng khỏi hệ thống tài chính nhằm bảo vệ tiền vốn của chính phủ đồng thời
cân nhắc khả năng ngân hàng dùng tiền thuế của người dân để phát hành tín dụng
với số lượng lớn tạo nên sự mất cân bằng trong nền kinh tế.
Một đặc điểm khác của “hệ thống tài chính độc
lập “là tất cả các khoản tiền nhập vào hệ thống tài chính cần phải được thể
hiện dưới dạng vàng bạc”.
Như vậy, chính phủ đã có được một điểm tựa để
điều tiết khống chế đối với lượng cung ứng tiền vàng của quốc gia nhằm khống
chế cuộc xung đột giữa ngân hàng châu Âu đối với việc phát hành tiền tệ của Mỹ.
Cách suy nghĩ này có thể nói là một điệu kế nếu nhìn từ góc độ lâu dài, nhưng
nếu xét về ngắn hạn thì lại có thể châm ngòi nổ cho quả bom rủi ro tín dụng của
rất nhiều các ngân hàng, chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa trong cuộc xung đột
với ngân hàng thứ hai của Mỹ, và khủng hoảng sẽ xảy ra đến mức không thể khống
chế được.
Trong quá trình này, Henry Clay là một nhân vật
hết sức quan trọng. Ông là người kế thừa quan trọng ý tưởng thành lập Ngân hàng
trung ương tư nhân của Hamilton và là nhân vật được các nhà ngân hàng mến mộ.
Ông là người có tài ăn nói, lối suy nghĩ chặt chẽ và có sức lôi cuốn. Ông đã tụ
hội được bên mình một nhóm các nghị sĩ ủng hộ ngân hàng và được các ngân hàng
ủng hộ. Ông đã thành lập đảng Whig (tiền thân của đảng tự do Anh) - một đảng
kiên quyết phản đối chính sách ngân hàng của tổng thống Jackson - và đã dồn sức
vào việc khôi phục lại chế độ Ngân hàng trung ương tư hữu.
Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1840, đảng
Whig đã đề cử vị anh hùng chiến tranh William Henry Harrison, và do trong suy
nghĩ của người dân có sự thay đổi về nguy cơ kinh tế, nên Harrison đã dễ dàng
giành thắng lợi và trở thành tổng thống thứ 9 của nước Mỹ.
Với vai trò thủ lĩnh của đảng Whig, Henry Clay
đã nhiều lần “chỉ đạo” Harrison phải điều hành nền chính trị như thế nào. Sau
khi Harrison trớ thành tổng thống, mâu thuẫn giữa hai người ngày càng trở nên gay
gắt.
Henry Clay đã triệu kiến “tổng thống sắp nhậm
chức” đến nhà mình ở Lexington. Vì nghĩ đến đại cuộc nên Harrison đã nhẫn nhịn
đến nhà Henry Clay, nhưng vì vấn đề ngân hàng quốc gia, chế độ tài chính độc
lập và nhiều vấn đề khác nữa mà hai người đã gây gổ với nhau. Nguyên nhân là vì
Henry Clay cho rằng ông ta có thể lấy thân phận “thái thượng hoàng” của mình để
ra lệnh. Dù chưa được sự đồng ý của Harrison nhưng ông ta đã cho người chấp bút
viết bài diễn văn nhậm chức thay tổng thống và đã bị Harrison từ chối, sau đó,
Harrison còn đích thân viết một vài diễn văn nhậm chức dài hơn 8.000 từ. Văn
kiện tóm lược lại đường lối tư tưởng trị nước của Harrison đã phản bác lại luận
điệu ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ đường lối chính sách tài chính độc lập
do Henry Clay chủ trương, tạo nên một cú đánh thấu xương đối với lợi ích của
ngân hàng(26).
Ngày 4 tháng 3 năm 1841 là một ngày rét mướt.
Tổng thống Harrison đã đọc bài diễn văn nhậm chức của mình trong gió rét, và
sau đó đã bị cảm lạnh. Đối với tổng thống Harrison, người một đời xông pha nơi
trận mạc thì chuyện này cũng chẳng có gì lớn lao, nào ngờ bệnh tình của ông lại
ngày càng trở nên trầm trọng khác thường, và đến ngày 4 tháng 4 thì tổng thống
đã từ trần. Vị tổng thống minh mẫn hoạt bát vừa mới lên nhậm chức và đang chuẩn
bị triển khai rất nhiều dự định lớn lao thì bỗng nhiên “đột tử”. Dù thế nào thì
đó cũng là một việc hết sức đáng ngờ. Một số nhà sử học cho rằng tổng thống đã
bị đầu độc, có thể thời gian hạ độc là vào ngày 30 tháng 3, và sau 6 ngày thì
tổng thống Harrison từ trần.
Mâu thuẫn giữa Ngân hàng trung ương tư nhân và
hệ thống tài chính độc lập càng trở nên căng thẳng hơn kể từ sau cái chết của
tổng thống Harrison. Trong năm 1841, Đảng Whig do Henry Clay chủ trì đã hai lần
đề xuất phải khôi phục lại Ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ chế độ tài
chính độc lập. Kết quả cả hai lần đều bị người kế nhiệm của tổng thống Harrison
là Phó tổng thống John Tyler phủ quyết. Henry Clay tức giận và xấu hổ đã ra
lệnh khai trừ John Tyler ra khỏi Đảng Whig, kết quả là tổng thống John Tyler
“may mắn” trở thành vị tổng thống “mồ côi“ duy nhất trong lịch sử nước Mỹ bị
khai trừ ra khỏi Đảng.
Đến năm 1849, sau khi trúng cử tổng thống,
Zachary Tayler - một nhân vật khác của Đảng Whig - đã khôi phục lại hy vọng của
Ngân hàng trung ương. Việc xây dựng một ngân hàng trung ương tư nhân theo mô
hình của Ngân hàng Anh là mơ ước cao nhất của các ngân hàng, và nó có nghĩa
rằng, cuối cùng thì ngân hàng cũng quyết định được số phận của quốc gia và nhân
dân. Nhìn vào vết xe đổ trước đó của tổng thống Harrison, Tayler luôn tỏ ra
hững hờ đối với vấn đề ngân hàng trung ương hết sức quan trọng này, tuy nhiên,
ông cũng không cam tâm trở thành con rối trong tay Henry Clay. Nhà sử học
Michael Holt đã cho rằng, tổng thống Tayler đã từng ngầm bày tỏ như thế này
“Chủ ý xây dựng Ngân hàng trung ương đã được định đoạt, và đó không phải là vấn
đề cần được tôi xem xét trong nhiệm kỳ của mình(27). Kết quả là, “cái đã được
định đoạt” ở đây không phải là sự chú ý của Ngân hàng trung ương mà nhẩm vào
bản thân tổng thống Taylor.
Ngày 4 tháng 7 năm 1850, tổng thống Tayler tham
dự lễ quốc khánh được cử hành trước đài tưởng niệm Washington. Thời tiết hôm đó
hết sức oi bức, Tayler đã uống một chút sữa đá và ăn thêm mấy quả anh đào, kết
quả là ông bị đau bụng. Đến ngày 9 tháng 7 thì vị tổng thống khôi ngô vạm vỡ
này cũng ra đi một cách thần bí.
Sự kiện đột tử thần bí vì những căn bệnh chẳng
đâu vào đâu của cả hai vị tổng thống có xuất thân từ quân nhân này đương nhiên
đã gây xôn xao dư luận. Còn giới sử học thì tranh luận về đề tài này trong hàng
thế kỷ. Năm 1991, sau khi được sự đồng ý của người nhà tổng thống Tayler, thi
thể của ông đã được khai quật lên. Người ta lấy mẫu móng tay và tóc của tổng
thống đi xét nghiệm. Kết quả cho thấy, ông chết vì bị đầu độc. Đương nhiên, cơ
quan điều tra đã nhanh chóng lấp liếm rằng, lượng đầu độc rất nhỏ không đủ để
gây chết người, sau đó vội vàng kết thúc vụ điều tra. Cho đến ngày nay, chẳng
ai biết được tại sao cơ thể tổng thống lại có những thứ độc tố đó.
7.
Ngân hàng quốc tế ra tay tạo nên cuộc “khủng hoảng năm 1857”
Do Ngân hàng thứ hai của Mỹ đóng cửa năm 1836
nên các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã đột ngột ra tay rút sạch toàn bộ
lượng tiền tệ kim loại đang lưu thông ở nước Mỹ, tạo nên cuộc khủng hoảng kinh
tế nghiêm trọng diễn ra liên tục trong 5 năm ở quốc gia này. Mặc dù vào năm
1841, đại diện của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã từng hai lần thử khôi
phục lại hệ thống ngân hàng trung ương tư nhân, nhưng cả hai lần đều thất bại,
mối quan hệ giữa hai bên rơi vào trạng thái đóng băng, tình trạng siết chặt
tiền tệ của Mỹ kéo dài mãi đến năm 1848 mới bất đầu được giải toả.
Nguyên nhân khiến cho tình hình chuyển biến tích
cực tất nhiên không phải do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế quá nhẹ tay mà
là do vào năm 1848, nước Mỹ đã phát hiện mỏ vàng rất lớn: mỏ vàng San
Francisco.
Lượng cung ứng vàng của Mỹ liên tục trong 9 năm
kể từ năm 1848 đã tăng vọt chưa từng thấy. Chỉ riêng California đã sản xuất ra
một lượng tiền vàng trị giá đến 5 tỉ đô-la Mỹ. Năm 1851, một mỏ vàng có trữ
lượng lớn cũng được phát hiện ở Úc. Lượng cung ứng vàng trên phạm vi thế giới
từ 144 triệu si-ling vào năm 1851 tăng vọt lên 376 triệu si-ling trong năm
1861. Và lưu lượng tiền thuộc kim nội địa của Mỹ từ 83 triệu đô-la trong năm 1840
tăng vọt lên 253 triệu đô-la trong năm 1860(28).
Việc phát hiện những mỏ vàng lớn ở Mỹ và Úc đã
phá vỡ sự khống chế tuyệt đối của các nhà tài chính châu Âu đối với lượng cung
ứng vàng thế giới. Chính phủ Mỹ thở phào nhẹ nhõm vì đã thoát được cảnh phải bị
siết chặt về tiền tệ. Việc cung ứng tiền tệ với chất lượng tốt và số lượng
nhiều đã làm tăng niềm tin cho thị trường, các ngân hàng bắt đầu bành trướng
hoạt động tín dụng trên quy mô lớn. Cơ sở quan trọng nhất trong tài sản của
nước Mỹ là rất nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Mỹ như công nghiệp,
khoáng sản, giao thông, cơ giới đều được khôi phục nhanh chóng trong giai đoạn
hoàng kim này.
Thấy việc khống chế tài chính tỏ ra không còn
hiệu quả, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã tung ra đối sách mới. Đó chính
là chính sách khống chế tài chính và phân hoá chính trị.
Trước khi cuộc khủng hoảng kết thúc, các nhà tài
phiệt ngân hàng đã bắt đầu ra tay thu mua của cải quý giá của dân chúng với giá
rẻ mạt. Đến năm 1853, khi nền kinh tế Mỹ phất như diều gặp gió thì tư bản nước
ngoài, đặc biệt là tư bản Anh đã sở hữu 46% trong tổng số công trái liên bang,
58% tổng công trái các bang, 26% tổng công trái ngành đường sắt Mỹ(29). Như
vậy, một khi chế độ ngân hàng trung ương được yên vị thì nền kinh tế Mỹ cũng sẽ
bị các nhà tài phiệt ngân hàng khống chế giống như các quốc gia châu Âu khác.
Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế mở rộng hoạt
động tín dụng, khiến nền kinh tế phát triển với tốc độ như bơm bong bóng để
người dân và các doanh nghiệp khác ra sức tạo ra của cải, sau đó đạp gấp phanh
tín dụng, khiến cho hầu hết các doanh nghiệp và người dân lâm vào cảnh phá sản,
còn các ngân hàng lại được một phen bội thu. Quả nhiên, trong khi thấy mùa thu
hoạch đã đến, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế và các đại diện của họ ở Mỹ
đã quơ tay siết chặt tín dụng, gây nên cuộc khủng hoảng năm 1857. Nhưng điều
vượt ra ngoài dự kiến của họ là, thực lực của nền kinh tế Mỹ lúc này đã không
còn như 20 năm trước nữa, cuộc khủng hoảng năm 1857 không thể làm chấn thương
trầm trọng nền kinh tế Mỹ một lần nữa, mà nó chỉ kéo dài trong một năm thì nước
Mỹ đã dập tắt được khủng hoảng.
Khi thấy thực lực của nước Mỹ ngày càng mạnh,
tài chính ngày càng khó bị khống chế, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đặt
ra nhiệm vụ trọng tâm cho mình: kích động nội chiến và chia cắt nước Mỹ.
8.
Khởi nguồn cuộc nội chiến Mỹ: Thế lực tài chính quốc tế châu Âu
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc nội chiến chia
tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối yếu đã được các thực
tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm.
Bismarck - Thủ tướng Đức.
Lịch sử phát triển của nước Mỹ gắn liền với sự
can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất
chính là sự thâm nhập và lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước
Mỹ. Tuy nhiên, đây cũng chính là những điều ít được biết đến nhất.
Cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất xảy ra trên
chính lãnh thổ của mình trong lịch sử của nước Mỹ chắc chắn thuộc về cuộc nội
chiến Nam - Bắc. Cuộc chiến đổ máu kéo dài suốt bốn năm này đã lôi kéo 3 triệu
người tham gia, chiếm 10% nhân khẩu của nước Mỹ, 600 nghìn người tử trận, vô số
người tàn phế, một lượng của cải khổng lồ bị huỷ hoại trong ngọn lửa chiến
tranh, và vết thương mà cuộc chiến này để lại cho người dân đến nay sau hơn 140
năm vẫn chưa được hoàn toàn khôi phục.
Ngày nay, những tranh luận liên quan đến nguyên
nhân cuộc nội chiến Nam - Bắc phần lớn xoay quanh vấn đề đạo lý của cuộc chiến,
tức là loại bỏ sự hiện hữu của chế độ nô lệ, đúng như Sydney E. Ahlstrom đã nói
(nếu không có chế độ nô lệ thì sẽ không có chiến tranh. Nếu không có sự lên án
đạo đức đối với chế độ nô lệ thì sẽ không có chiến tranh”(30).
Nhưng thực tế, liên quan đến chế độ nô lệ tại Mỹ
trong thế kỷ 19, lợi ích kinh tế được xếp hàng thứ nhất, trong khi vấn đề đạo
đức lại đứng hàng thứ hai. Trụ cột kinh tế miền Nam thời đó chính là nền sản
xuất bông dệt vải và chế độ nô lệ, và nếu như phế bỏ chế độ nô lệ thì các chủ
trang trại buộc phải trả công cho những người nô lệ ban đầu theo giá trị trường
công lao động của người da trắng, và như vậy, toàn bộ sản nghiệp sẽ chịu hao
tổn, kết cấu kinh tế xã hội sẽ sụp đổ. Nếu nói chiến tranh là sự kế tục của đấu
tranh chính trị thì phía sau xung đột lợi ích chính trị chính là sự tính toán
lợi ích kinh tế. Trên bề mặt của sự tính toán lợi ích kinh tế này nổi lên sự
khác biệt về lợi ích kinh tế giữa hai miền Nam Bắc, nhưng bản chất của nó vẫn là
sách lược chơi trò “chia để trị” của các thế lực tài chính quốc tế.
Bismarck - Thủ tướng Đức, người có dây mơ rễ má
với dòng họ Rothschild - đã nói rất chính xác rằng “Không còn nghi ngờ gì nữa,
cuộc nội chiến chia tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối
yếu đã được các thế lực tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm”.
Thực chất, chính các nhà ngân hàng trục “London
- Paris - Frankfurt” là những kẻ ném đá giấu tay sau cuộc chiến Nam - Bắc của
Mỹ.
Để kích động cuộc nội chiến tại Mỹ, các nhà ngân
hàng quốc tế đã tiến hành việc hoạch định lâu dài, cẩn trọng và chu toàn. Sau
chiến tranh độc lập của Mỹ, nền công nghiệp dệt của nước Anh và các tầng lớp
chủ nô ở miền Nam nước Mỹ dần dần xây dựng được mối quan hệ làm ăn mật thiết
với nhau. Các nhà tài chính ở châu Âu đã nắm ngay lấy cơ hội này, thừa cơ bí
mật phát triển một mạng lưới các nhân vật chủ chốt có thể kích động được cuộc
xung đột Nam - Bắc trong tương lai. Ở miền nam thời đó, các đại diện đủ kiểu
của các nhà tài chính Anh hiện diện khớp nơi, và cùng với các thế lực chính trị
bản địa, họ tham gia hoạch địch các âm mưu, tạo ra đủ mọi loại tin tức cũng như
dư luận hòng tách khỏi liên bang. Họ đã khéo léo lợi dụng sự xung đột lợi ích
kinh tế về vấn đề chế độ nô lệ ở hai miền Nam - Bắc, không ngừng tạo ra căng
thẳng, xung đột và làm cho vấn đề thêm trầm trọng so với bản chất, và cuối cùng
đã thành công trong việc đẩy vấn đề chế độ nô lệ thành mâu thuẫn gay gắt không
thể dung hoà như nước với lửa giữa hai miền.
Các ngân hàng quốc tế đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ
còn chờ chiến tranh nổ ra là có thể vơ vét được những món lợi lớn. Trong quá
trình kích động chiến tranh, chiêu thức mà họ quen dùng là “bắt cá hai tay”,
bất kể ai là kẻ chiến thắng.
Những khoản nợ kếch xù của chính phủ phải chi
cho chiến tranh đều là bữa tiệc thịnh soạn nhất của các ngân hàng.
Mùa thu năm 1859, trong vai một người du lịch,
nhà tài phiệt ngân hàng nổi tiếng nước Pháp Salomon de Rothschild từ Paris đến
Mỹ. Ông là người điều phối chung mọi kế hoạch vốn có, đi lại giữa hai miền nam
- bắc, tiếp xúc với các nhân vật quan trọng trong giới chính trị và giới tài
chính Mỹ, đem mọi thông tin tình báo thu thập được chuyển về cho Nathaniel de
Rothschild đang trấn giữ ở London. Trong cuộc hội đàm với các giới chức miền
nam, ông đã công khai tuyên bố sẽ nỗ lực chi viện cho miền nam về mặt tài
chính, đồng thời bày tỏ sẽ tận lực giúp miền nam độc lập nhằm có được sự thừa
nhận của các quốc gia lớn ở châu Âu(31).
Đại diện ở miền bắc của ngân hàng quốc tế là
August Belmont - một nhân vật hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng gốc Do Thái
được mệnh danh là “vua của Đại lộ thứ năm” ở New York. Ông là đại diện của Ngân
hàng Rothschild Frankfurt, cũng là người có quan hệ thân thích với dòng họ này.
Năm 1829, khi mới 15 tuổi, August đã bắt đầu
kiếm sống trong lĩnh vực ngân hàng. Ông cũng đã bắt đầu làm việc cho Ngân hàng
Rothschild ở Frankfurt đồng thời sớm bộc lộ được khả năng tài chính thiên phú
của mình. Ông tinh thông các ngoại ngữ Đức, Anh, Pháp, Ý. Năm 1837, ông được
phái đến New York. Nhờ mua vào một lượng lớn trái phiếu chính phủ, nên Belmont
nhanh chóng trở thành nhân vật cấp cao của giới tài chính New York, và được
tổng thống tín nhiệm bổ nhiệm vào vị trí cố vấn tài chính. Ông đại diện cho
ngân hàng Rothschild ở Anh và Frankfurt đồng thời bày tỏ ý muốn ủng hộ tài
chính cho tổng thống Lincoln ở miền bắc.
Để tăng áp lực lớn hơn về mặt quân sự đối với
quân miền bắc, cuối năm 1861, nước Anh đã tăng thêm 8.000 binh lính đến Canada,
sẵn sàng chuẩn bị ứng phó với sự tấn công của quân miền nam đồng thời uy hiếp
chính phủ Lincoln ở biên giới phía Bắc. Năm 1862, liên quân Anh, Pháp và Tây
Ban Nha đã đổ bộ vào cảng Mexico, hoàn thành đợt tập kết ở biên giới phía nam
của nước Mỹ, khi cần thiết sẽ xâm nhập vào miền nam nước Mỹ và trực tiếp khai
chiến với quân miền Bắc. Ngày 3 tháng 10 năm 1863, Yelet - vị tướng Pháp lại
tăng thêm 30.000 quân, và chiếm lĩnh thành phố Mehico.
Khi chiến tranh mới nổ ra, đội quân miền nam
đánh đâu thắng đó, các cánh quân của châu Âu như quân Pháp đã mạnh lại càng
mạnh hơn, Lincoln đã rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Các ngân hàng đã tính
toán chính xác sự trống rỗng trong quốc khố của tổng thống Lincoln khi đó, và
chẳng còn cơ hội nào tốt hơn để kiếm một khoản lợi kếch xù từ cuộc chiến tranh
này. Kể từ khi cuộc chiến tranh với Anh kết thúc năm 1812, thu nhập quốc khố
của nước Mỹ thâm hụt nhiều năm liền, và đến trước khi Lincoln lên nắm quyền,
mọi khoản thâm hụt của chính phủ Mỹ đều được đem bán cho ngân hàng dưới hình
thức công trái, rồi ngân hàng lại chuyển tiếp cho Ngân hàng Rothschild ở Anh và
ngân hàng Paris (đây là một hình thức mua bán nợ chính phủ). Như vậy, chính phủ
Mỹ phải chi trả lợi tức khá cao, và những khoản nợ tích luỹ nhiều năm như thế
này đã tạo ra gánh nặng nợ nần cho chính phủ.
Các ngân hàng đã đề xuất ra một kế hoạch tài
chính trọn gói và đưa ra điều kiện của mình. Khi nghe đến khoản lãi yêu cầu từ
24% đến 36% của các ngân hàng, tổng thống Lincoln đã mời ngay các ngân hàng ra
khỏi cửa trong cơn tức giận bầm gan tím mật. Đây là một chiêu độc nhằm đẩy
chính phủ Mỹ rơi vào cảnh phá sản hoàn toàn, và Lincoln biết rằng người dân Mỹ
mãi mãi không thể trả hết khoản nợ hàng nghìn tỉ này.
9.
Chính sách mới về tiền tệ của Lincoln
Không có tiền thì không thể tiến hành chiến
tranh, mà nếu vay của ngân hàng quốc tế thì chẳng khác nào tự treo thòng lọng
vào cổ mình. Lincoln nghĩ trăm phương ngàn kế để tìm phương án giải quyết. Lúc
đó, Dick Taylor - một người bạn cũ của ông ở Chicago - đã đề xuất với Lincoln
một ý tưởng: chính phủ tự phát hành tiền tệ!
“Việc yêu cầu Quốc hội thông qua đề án này cũng
như vấn đề trao quyền cho Bộ tài chính ấn hành tiền tệ sẽ có đầy đủ hiệu lực
pháp luật nhằm giúp chi trả lương bổng cho binh sĩ sau đó sẽ giúp ông giành
được thắng lợi trong cuộc chiến mà ông tiến hành”.
Trả lời câu hỏi của Lincoln về việc liệu người
dân Mỹ cố tiếp nhận đồng tiền mới này hay không, Dick nói rằng “tất cả mọi
người đều sẽ không có sự lựa chọn nào khác trong vấn đề này, chỉ cần ông tạo
nên hiệu lực pháp lý đầy đủ cho loại tiền tệ mới này, chính phủ sẽ hoàn toàn
ủng hộ, và chúng sẽ thông dụng giống như một loại tiền đích thực, bởi vì hiến
pháp trao cho Quốc hội quyền phát hành và quyền quy định giá trị tiền tệ”.
Sau khi nghe xong đề nghị này, Lincoln tỏ ra quá
đỗi vui mừng, lập tức đề nghị Dick lập kế hoạch cho việc này.
Biện pháp hết sức mới lạ này đã phá vỡ cách làm
thường lệ của chính phủ là cần phải vay tiền và chịu lãi suất cao của ngân hàng
tư nhân. Loại tiền mới này sử dụng hoa văn màu xanh lục để phân biệt với tiền
của các ngân hàng khác và được lịch sử gọi là “tiền xanh”. Chỗ mới lạ đặc biệt
của loại tiền mới này nằm ở chỗ nó hoàn toàn không được bảo đảm bằng vàng hay
bạc, và lợi tức là 5% cho 20 năm.
Trong thời kỳ nội chiến, nhờ có sự phát hành của
loại tiền này mà Mỹ đã khắc phục được tình trạng thiếu hụt tiền tệ nghiêm trọng
của chính phủ ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Điều này đã huy động một
cách hiệu quả nhất tất cả các nguồn vốn của miền bắc nước Mỹ, tạo nên một cơ sở
kinh tế vững chắc cho chiến thắng cuối cùng trước quân miền nam. Đồng thời, nhờ
có giá thành thấp nên loại tiền này đã trở thành nguồn tích luỹ của ngân hàng
miền Bắc, tín dụng ngân hàng của miền Bắc cũng nhờ đó mà được mở rộng, các
ngành công nghiệp quốc phòng, xây dựng đường sắt sản xuất nông nghiệp và mậu
dịch thương nghiệp đều nhận được sự chi viện tài chính lớn chưa từng có so với
trước đó.
Việc phát hiện những mỏ vàng lớn những năm 1848
đã khiến cho nền tài chính Mỹ dần dần thoát khỏi cục diện bất lợi và cực đoan
do các ngân hàng châu Âu khống chế, và cũng chính nhờ vào sản lượng lớn những mỏ
vàng này nên loại tiền mới của Lincoln mới có thể được người dân tiếp nhận rộng
rãi, đặt cơ sở tài chính đáng tin cậy cho việc giành thắng lợi trong cuộc chiến
Nam - Bắc. Một điều nữa khiến người ta càng thêm kinh ngạc hơn là, loại tiền
mới do Lincoln phát hành không hề gây ra lạm phát tiền tệ nghiêm trọng kiểu như
trong thời kỳ diễn ra chiến tranh độc lập. Từ khi cuộc nội chiến nổ ra vào năm
1861 đến khi kết thúc vào năm 1865, chỉ số vật giá của toàn miền bắc Mỹ chỉ
tăng một cách nhẹ nhàng từ 100 lên 216. Xem xét quy mô và sự nghiêm trọng về
mức độ phá hoại của cuộc nội chiến so với những cuộc chiến có quy mô tương tự
khác trên thế giới, chúng ta không thể không nói rằng đây là một kỳ tích tài
chính. Ngược lại, miền nam cũng dùng phương thức lưu thông tiền giấy, nhưng
hiệu quả thì khác xa một trời một vực, chỉ số vật giá của miền nam trong cùng
một thời kỳ đã tăng từ 100 lên đến 2776(32).
Trong suốt thời kỳ nội chiến Nam - Bắc, chính
quyền Lincoln đã phát hành số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ. Nhờ. cơ chế vận hành
đồng tiền mới này tốt như vậy cho nên tổng thống Lincoln đã xem xét một cách
nghiêm túc việc pháp chế hoá vấn đề phát hành loại tiền tệ không thế chấp này
(Debt Free Money). Nhưng chính điều này đã như một đòn đau đánh vào lợi ích căn
bản của các nhà tài phiệt quốc tế.
Nếu như mọi chính phủ đều không cần phải vay
tiền của ngân hàng mà “thản nhiên” tự mình phát hành tiền tệ, thì sự lũng đoạn
của các ngân hàng đối với việc phát hành tiền tệ sẽ không còn tồn tại nữa, như
vậy không phải là ngân hàng đã trơ mỏ rồi sao?
Cũng vì thế mà ngay sau khi nghe được tin tức
này, tờ London Times đại diện cho ngân hàng Anh đã lập tức
dăng tải tuyên bố:
“Nếu như chính sách tài chính mới của Mỹ
(tiền xanh Lincoln) khiến người ta chán ghét được thực thi vĩnh viễn, chính phủ
có thể phát hành khống nguồn tiền tệ của mình. Chính phủ có thể hoàn trả hết
mọi khoản nợ đồng thời sẽ thu được những khoản tiền cần thiết để phát triển
thương nghiệp, sẽ biến thành một quốc gia phồn vinh chưa từng có trên thế giới.
Nguồn nhân tài ưu tú và mọi tài nguyên vốn có trên thế giới này sẽ chảy dồn về
bắc Mỹ. Quốc gia này cần phải bị phá huỷ, nếu không nó sẽ phá huỷ từng quốc gia
theo chế độ quân chủ trên thế giới”.
Chính phủ Anh và Hiệp hội Ngân hàng New York đã
bày tỏ sự phẫn nộ đòi hỏi phải thực hiện các hành động đáp trả. Ngày 28 tháng
12 năm 1861, họ tuyên bố đình chỉ chi trả bằng tiền kim loại cho chính phủ
Lincoln. Một số ngân hàng ở New York còn đình chỉ việc rút vàng của những người
gửi tiết kiệm bằng vàng, đồng thời tuyên bố huỷ bỏ việc chấp nhận dùng vàng mua
công trái của chính phủ. Các ngân hàng ở nhiều nơi trên nước Mỹ cũng rầm rộ
hưởng ứng. Họ đến Washington để đề xuất những phương án thay đổi vô nguyên tắc
đối với tổng thống Lincoln, đòi thực hiện lại những cách làm trong quá khứ, đem
những công trái có lợi tức cao bán cho các ngân hàng châu Âu; đem vàng của
chính phủ Mỹ gửi vào các ngân hàng tư nhân để dự trữ phát hành tín dụng, các
ngân hàng phát tài lớn; chính phủ Mỹ trưng thu thuế của các ngành công nghiệp
và người dân để chi trả cho chiến tranh.
Đương nhiên, tổng thống Lincoln đã cự tuyệt yêu
cầu hoàn toàn vô lý này của các ngân hàng. Chính sách của ông rất được lòng
dân, người dân Mỹ đã nô nức mua hết toàn bộ công trái, và căn cứ vào pháp luật,
các công trái này được sử dụng như là hiện kim.
Các nhà tài phiệt ngân hàng thấy kế sách bất
thành bèn nghĩ ra kế khác. Họ phát hiện thấy rằng trong luật phát hành tiền xanh
Lincoln của Quốc hội hoàn toàn không đề cập đến việc có nên dùng vàng để chi
trả lãi tức công trái hay không. Vì vậy, họ cho phép dùng loại tiền mới của
Lincoln để mua công trái, nhưng phần lợi tức phải được chi trả bằng tiền kim
loại. Đây là một bước trong kế hoạch hoàn chỉnh nhằm gắn kết đồng tiền mới của
Lincoln tại Mỹ với giá trị của vàng. Trong khi đó, các ngân hàng châu Âu tích
luỹ đồng bảng Anh nhiều hơn bất cứ đồng tiền nào thời đó và nhiều hơn so với
tiền vàng của Mỹ. Sự thoả hiệp giữa ngân hàng và Quốc hội Mỹ đã khiến cho thế
lực tài chính quốc tế lợi dụng việc khống chế tổng lượng xuất nhập khẩu vàng
đối với nước này để gián tiếp thao túng giá trị tiền tệ của Mỹ.
10.
Đồng minh Nga của Lincoln
Khi các quốc vương ở châu Âu đã chuẩn bị sẵn
sàng để đem quân sang chia cắt nước Mỹ, Lincoln lập tức nhớ đến kẻ thù truyền
kiếp của các quốc vương châu Âu - nước Nga. Lincoln đã phái đặc sứ cầu cứu Sa
hoàng Alexardre Đệ nhị. Khi nhận được thư của Lincoln, Sa hoàng không mở ra
ngay mà nâng nâng trên tay, rồi nói rằng: “Trước khi mở bức thư này hoặc biết
được nội dung của nó, chúng ta sẽ đồng ý trước với bất cứ yêu cầu nào mà bức
thư đề xuất(33).
Nguyên nhân Sa hoàng chuẩn bị tham gia quân sự
vào cuộc nội chiến Mỹ có mấy mặt sau đây. Thứ nhất, đó là sự lo lắng “môi hở
răng lạnh”, vì trong thời kỳ Alexardre đại đế trị vì, các thế lực tài chính
quốc tế từng quét sạch châu Âu đã gõ cửa điện Kremli. Học theo kinh nghiệm của
các quốc gia tài chính “tiên tiến” ở châu Âu, các ngân hàng cương quyết yêu cầu
thành lập ngân hàng trung ương tư hữu, và Sa Hoàng đã sớm nhận ra chiêu độc
trong việc này nên đã kiên quyết từ chối yêu cầu này. Khi nhìn thấy tổng thống
Lincoln - một nhân vật phản đối các thế lực tài chính quốc tế - rơi vào tình
cảnh nguy hiểm, Alexardre đệ nhị lo rằng, nếu không ra tay tương trợ, chẳng mấy
chốc mối nguy ấy sẽ ập đến với chính mình. Một nguyên nhân khác là ngày 3 tháng
3 năm 1861 trước khi nổ ra cuộc nội chiến Nam - Bắc ở Mỹ, Alechxandre Đệ nhị đã
tuyên bố pháp lệnh giải phóng nông nô, và về vấn đề này, cả Alexardre Đệ nhị
lẫn Lincoln đều có những quan điểm chung. Và còn một điều nữa là cuộc chiến
tranh Crimean của nước Nga vừa mới kết thúc năm 1856 đã đại bại dưới tay của
liên quân Anh - Pháp, vì thế nên Alechxandre Đệ nhị chưa nguôi chuyện rửa hận.
Chưa tuyên chiến, vào ngày 24 tháng 9 năm 1663,
dưới sự chỉ huy của tướng Liviski, hạm đội của Nga đã tiến vào cảng New York.
Ngày 12 tháng 10, dưới sự chỉ huy của tướng Popov, hạm đội Thái Bình Dương của
Nga đã đến San Francisco. Đối với hành động của nước Nga, Wales đã bình luận
rằng: “Họ đã đến khi miền nam đang ở vào lúc triều lên còn miền bắc ở vào thế
triều xuống. Sự xuất hiện của họ đã tạo nên sự do dự của Anh và Pháp, cuối cùng
đã cho Lincohn thời gian để xoay chuyển được cục diện”.
Sau khi nội chiến kết thúc, để chi trả khoản phí
tổng cộng 7,2 triệu đô-la Mỹ cho hạm đội nước Nga, chính phủ Mỹ đã chần chừ kéo
dài thời gian. Vì hiến pháp không trao cho tổng thống quyền chi trả chiến phí
cho chính phủ nước ngoài nên tổng thống Johanson khi đó đã đạt được thoả thuận
dùng chính vùng đất Alaska mua của nước Nga để chi trả khoản chi phí chiến
tranh. Trong lịch sử, vụ việc này được gọi là “Sự điên rồ của Seward”. Seward
là Bộ trưởng ngoại giao thời đó của Hoa Kỳ và đã bị dân chúng kịch liệt chỉ
trích khi bỏ ra 7,2 triệu đô-la để đi mua lại một vùng đất hoang hoá không đáng
một xu của Nga.
Cũng vì một nguyên nhân tương tự mà Alexardre Đệ
nhị đã bị hành thích vào năm 1867, nhưng vụ hành thích đã không thành công.
Ngày 1 tháng 3 năm 1881, Alexardre cuối cùng cũng chết vào tay một thích khách.
11.
Ai là hung thủ thật sự ám sát Lincoln?
Bismarck - vị Thủ tướng kiên cường và giàu lòng
hy sinh của nước Đức đã từng nhận xét một cách sắc bén rằng:
“Ông ấy (Lincoln) được quốc hội trao quyền
vay tiền thông qua việc bán khoản công trái cho người dân, như vậy thì chính
phủ và quốc gia sẽ thoát được khỏi cái bẫy cài sẵn của các nhà tài chính nước
ngoài. Trong khi họ (các nhà tài chính quốc tế) hiểu rõ được rằng nước Mỹ sẽ
thoát khỏi vòng khống chế của họ, thì ngày chết của Lincoln chằng còn mấy xa
xôi”.
Sau khi ra sắc lệnh giải phóng nô lệ da đen và
thống nhất miền nam, ngay lập tức Lincoln đã tuyên bố xoá toàn bộ các khoản nợ
chiến tranh mà miền nam đã phải gánh chịu.
Các ngân hàng quốc tế - đơn vị chu cấp phần lớn
tài chính cho miền nam trong suốt cuộc chiến - đã bị tổn thất nghiêm trọng vì
quyết định này. Để trả thù Lincoln, đặc biệt là để xoá bỏ chính sách mới về
tiền tệ của Lincoln, họ đã tập hợp các thế lực bất mãn đối với vị tổng thống
này, bí mật lên kế hoạch ám sát tổng thống. Với họ, chuyện chỉ đạo đám côn đồ
ám sát tổng thống thực tế không phải là một việc khó khăn.
Sau khi Lincoln bị ám sát, dưới sự thao túng của
các thế lực tài chính quốc tế, Quốc hội tuyên bố phế bỏ chính sách tiền tệ mới
của Lincoln, việc phát hành tiền tệ mới của Lincoln không được vượt quá giới
hạn 400 triệu đô-la.
Năm 1972, có người hỏi Bộ tài chính Mỹ rằng, với
số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ của Lincoln phát hành, chính phủ rốt cuộc đã
tiết kiệm được bao nhiêu tiền lãi. Sau mấy tuần tính toán kỹ lưỡng, câu trả lời
của Bộ tài chính là: nhờ tổng số tiền Lincoln tự phát hành cho chính phủ Mỹ mà
quốc gia này đã tiết kiệm được 4 tỉ đô-la lợi nhuận(34).
Cuộc nội chiến Nam - Bắc về căn bản là một cuộc
tranh giành lợi ích kịch liệt giữa các thế lực tài chính quốc tế cũng như những
người đại diện cho các thế lực đó và chính phủ Mỹ trong việc khống chế quyền
phát hành tiền tệ quốc gia cũng như chính sách tài chính tiền tệ của Mỹ. Trong
thời gian hơn một trăm năm sau cuộc nội chiến Nam-Bắc, đôi bên đã tiến hành
những cuộc chiến tàn khốc. Tổng cộng đã có 7 tổng thống Mỹ vì cuộc chiến này mà
bị ám sát, nhiều nghị sĩ bị thủ tiêu. Mãi đến năm 1913, việc thành lập hệ thống
ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ đã đánh dấu cho thắng lợi mang tính quyết định
của ngân hàng quốc tế.
Thật đúng như Bismarck đã nói:
“Cái chết của Lincoln là sự tổn thất nghiêm
trọng của thế giới Cơ đốc giáo. Nước Mỹ có thể không còn ai có thể đi lại con
đường vĩ đại của ông, còn các ngân hàng sẽ lại một lần nữa khống chế những ai
giàu có. Tôi lo rằng các ngân hàng nước ngoài với những thủ đoạn cao siêu và
tàn bạo sẽ giành được sự giàu có của nước Mỹ, sau đó dùng nó để huỷ hoại nền
văn minh hiện đại một cách có hệ thống”.
12.
Sự thoả hiệp chí mạng: “Pháp lệnh ngân hàng quốc gia” năm 1863
“Vai trò mà tôi đã đóng góp trong việc cho ra
đời pháp lệnh ngân hàng quốc gia là sai lầm tài chính nghiêm trọng nhất trong
cuộc đời. Sự lũng đoạn (cung ứng tiền tệ) mà nó (pháp lệnh ngân hàng quốc gia)
sản sinh ra sẽ ảnh hưởng đến tất cả các phương diện của đất nước này. Nó cần
phải bị phế bỏ, nhưng trước khi điều này xảy ra, đất nước này sẽ chia thành hai
phía, một bên là người dân, còn bên kia là ngân hàng, và tình huống này vẫn
chưa từng xuất hiện trong lịch sử của đất nước này”.
Bộ trưởng tài chính Mỹ Salomon (1861-1864)
Sau khi cuộc nội chiến Nam - Bắc bùng nổ,
Lincoln đã cự tuyệt khoản lợi tức cắt cổ từ 24% đến 36% của Rothschild và các
đại diện khác của họ ở Mỹ, chuyển sang trao quyền cho Bộ tài chính phát hành
“tiền giấy quốc gia” (United States Notes) của riêng mình, hay còn được gọi là
bạc xanh.
Pháp lệnh tiền tệ chính thức (Legal Tender Act)
được thông qua tháng 2 năm 1862. Pháp lệnh này trao quyền cho Bộ tài chính phát
hành 150 triệu đồng tiền xanh, liền sau đó vào tháng 7 năm 1862 và tháng 3 năm
1863, lại trao quyền cho Bộ tài chính phát hành thêm 150 triệu tiền xanh nữa.
Nói chung, trong thời kỳ nội chiến, tổng số tiền xanh được phát hành đã lên đến
450 triệu.
Việc phát hành tiền xanh của Lincoln chẳng khác
nào chọc vào tổ ong vò vẽ của ngân hàng quốc tế. Trước hành động này của tổng
thống, các ngân hàng được một vố đau như bò đá, nhưng ngược lại, tầng lớp nhân
dân và các ngành công nghiệp khác thì lại tỏ thái độ hết sức hoan nghênh đối
với loại tiền xanh này. Đồng tiền xanh của Lincoln được lưu hành mãi đến năm
1994 trong hệ thống tiền tệ của Mỹ.
Năm 1863, khi cuộc chiến đã bước đến hồi quyết
định nhất, Lincoln cần nhiều tiền xanh hơn nữa để giành được thắng lợi. Để được
trao quyền phát hành tiền xanh lần thứ ba, ông buộc phải cúi đầu trước các thế
lực ngân hàng trong Quốc hội để đưa ra một thoả hiệp quan trọng: ký vào pháp
lệnh “ngân hàng quốc gia” năm 1863. Pháp lệnh này trao cho chính phủ quyền phê
chuẩn việc cho Ngân hàng quốc gia (National Bank) phát hành tiền giấy với tiêu
chuẩn thống nhất. Những ngân hàng này trên thực tế sẽ phát hành tiền tệ quốc
gia của Mỹ. Một điểm hết sức quan trọng chính là những ngân hàng này dùng trái
phiếu chính phủ Mỹ làm nguồn dự trữ cho việc phát hành tiền giấy, và như vậy,
sẽ khống chế việc phát hành tiền tệ của Mỹ với các khoản vay của chính phủ, còn
chính phủ sẽ mãi không thể hoàn trả hết các khoản nợ này.
John Kenneth Galbraith - nhà kinh tế học lừng
danh người Mỹ - đã từng chỉ ra một cách sắc bén rằng: “Rất nhiều năm sau khi
cuộc nội chiến kết thúc, hàng năm, chính phủ lại không thể hoàn trả hết những
khoản nợ đã vay, cũng không thể bồi hoàn những khoản nợ đã phát hành ra, bởi
việc này có nghĩa rằng chẳng còn khoản nợ nào để làm thế chấp cho quỹ tiền tệ
quốc gia. Việc hoàn trả hết các khoản nợ cũng đồng nghĩa là đã phá huỷ toàn bộ
sự lưu thông tiền tệ, âm mưu của các ngân hàng quốc tế trong việc thiết lập một
mô hình ngân hàng ở Mỹ theo kiểu Ngân hàng Anh cuối cùng đã trở thành hiện
thực. Từ đây, lợi tức lâu dài từ các khoản nợ của chính phủ Mỹ sẽ chảy vào túi
các ngân hàng, và nó chẳng khác nào một sợi thòng lọng ngày càng siết chặt vào
cổ nhân dân Mỹ. Đến năm 2006, tổng vay của chính phủ Mỹ đã lên đến con số khổng
lồ 860.000 tỉ đô-la, bình quân mỗi nhà có bốn người phải gánh chịu một khoản nợ
quốc gia lên đến 112.000 đô-la, và tốc độ tăng trưởng tổng nợ cả đất nước Mỹ
trong mỗi giây là 20.000 đô-la! Khoản chi trả lợi tức của chính phủ liên bang
Mỹ đối với nợ quốc gia chỉ đứng sau ngân sách dành cho y tế và quốc phòng, và
đến năm 2006 sẽ đạt đến con số khổng lồ 400 tỉ đô-la Mỹ.
Bắt đầu từ năm 1864, các ngân hàng có thể đời
đời kiếp kiếp hưởng thụ bữa đại tiệc lợi tức từ khoản nợ quốc gia này của Mỹ.
Chỉ vì xem nhẹ sự khác biệt giữa việc chính phủ trực tiếp phát hành tiền tệ với
việc chính phủ phát hành công trái còn ngân hàng phát hành tiền, mà các nhà
ngân hàng đã tạo nên một sự bất công lớn nhất trong lịch sử loài người. Người
dân bị ép phải nộp thuế gián tiếp qua các ngân hàng, mà những khoản thuế này
chính là tài sản và tiền bạc do mồ hôi nước mắt của họ làm nên!
Mãi đến ngày nay, Trung Quốc là một trong số ít
quốc gia trên thế giới có chính sách phát hành tiền tệ do chính phủ trực tiếp
điều hành. Nhờ đó khoản lợi tức phải chi trả mà chính phủ và người dân đã tiết
kiệm được trở thành nhân tố quan trọng không thể thiếu khiến Trung Quốc có thể
phát triển nhanh và bền vững như vậy. Nếu có ai đó đưa ra đề xuất phải học hỏi
“kinh nghiệm tiến bộ” của nước ngoài, ngân hàng nhân dân cần phải dùng nợ quốc
gia của chính phủ làm thế chấp để phát hành đồng nhân dân tệ, thì người dân
Trung Quốc cần phải coi chừng.
Lincoln không phải là không biết đến nguy cơ đe
doạ vĩnh cửu này và dự tính rằng, sau khi thắng cử ở nhiệm kỳ kế tiếp vào năm
1865, ông sẽ phế bỏ pháp lệnh này, nhưng chỉ 42 ngày sau khi trúng cử, Lincoln
đã bị ám sát. Các thế lực ngân hàng quốc tế trong Quốc hội thửa thắng xông lên.
Họ cho rằng, cần phải loại bỏ đồng tiền xanh của Lincoln thì mới có thể kê cao
gối mà ngủ được. Ngày 12 tháng 4 năm 1866, Quốc hội đã thông qua “Pháp lệnh thu
hồi” (Contraction Act), hòng thu hồi tất cả các đồng tiền xanh hiện đang lưu
thông, và đổi lại thành tiền kim loại, sau đó gạt bỏ tiền xanh ra khỏi hệ thống
lưu thông, khôi phục chế độ bản vị vàng.
Ở một đất nước vừa thoát khỏi cuộc chiến điêu
tàn cần khôi phục, chẳng có gì hoang đường hơn là một chính sách kiểm soát gắt
gao tiền tệ. Lượng tiền tệ lưu thông 1,8 tỉ đô-la Mỹ từ năm 1866 (tức khoảng
50,46 đô-la Mỹ mỗi người), đã sụt giảm xuống còn 1,3 tỉ đô-la Mỹ năm 1867 (tức
44 đô-la Mỹ mỗi người), 600 triệu đô-la Mỹ năm 1876 (mỗi người 14,6 đô-la),
cuối cùng là giảm xuống còn 400 triệu đô-la Mỹ (mỗi người 6,67 đô-la) năm 1886.
Trong bối cảnh một nước Mỹ với nhiều vết thương chiến tranh cần chữa trị, một
nền kinh tế cần được phục hồi và phát triển, đồng thời tình hình dân số tăng
nhanh, nhưng lượng cung ứng tiền tệ lại thiếu hụt, đa số người dân đều cho rằng
sự thịnh suy là quy luật của phát triển kinh tế. Nhưng trên thực tế, việc thao
túng nguồn cung ứng tiền tệ theo kiểu khi buông khi siết của các ngân hàng quốc
tế mới là nguồn cơn thực sự của vấn đề.
Mùa đông năm 1872, các ngân hàng quốc tế đã phái
Ernest Seyd đem theo một khoản tiền lớn từ Anh vào Mỹ.
Bằng việc hối lộ các quan chức, Ernest Seyd đã
đạt được mục đích của mình: thông qua “pháp lệnh tiền đúc năm 1873” (Coinage
Act) mà lịch sử gọi là “pháp lệnh ngu xuẩn 1873”.
Đích thân Ernest Seyd đã soạn thảo pháp lệnh
này, và nó đã gạt bỏ tiền bằng bạc ra khỏi hệ thống lưu thông tiền tệ, và như
vậy, tiền vàng trở thành thứ tiền tệ duy nhất. Pháp lệnh này được ví như hiện
tượng phủ sương lên tuyết cho dòng lưu thông tiền tệ vốn đã thiếu hụt trầm
trọng. Sau khi xong việc, Ernest Seyd vênh váo tự đắc nói rằng: “Mùa đông năm
1872, ta đã làm một chuyến đến Mỹ, ta đã đảm bảo chắc chắn việc thông qua pháp
lệnh tiền đúc để phế bỏ tiền bạc. Cái mà ta đại diện là lợi ích của các vị chủ
tịch Ngân hàng Anh quốc. Đến năm 1873, tiền vàng đã trở thành loại tiền kim
loại duy nhất”.
Nhưng sự thật, tác dụng của việc loại trừ tiền
bạc ra khỏi lĩnh vực lưu thông tiền tệ quốc tế là nhằm để đảm bảo chắc chắn sức
khống chế tuyệt đối của các ngân hàng quốc tế đối với lượng cung ứng tiền tệ
thế giới, đồng thời đối phó với việc tăng cường khai thác các mỏ bạc trong khi
sản lượng các mỏ vàng ngày càng ít đi. Sau khi đã nắm giữ được việc khai thác
các mỏ vàng thế giới, đương nhiên ngân hàng quốc tế không muốn lưu lượng tiền
bạc mà họ khó khống chế được lại can dự vào địa vị bá quyền tài chính thế giới
của mình. Vì thế, kể từ năm 1871, bạc trắng đã được loại trừ đồng loạt ở các
quốc gia Đức, Anh, Hà Lan, Áo, Scandinavi, khiến lượng lưu thông tiền tệ của
mỗi quốc gia bị co rút lại, từ đó đã dẫn đến cuộc đại suy thoái kinh tế nghiêm
trọng kéo dài 20 năm ở châu Âu (Long Depression, 1873 - 1896).
Ở Mỹ, “pháp lệnh thu hồi” và “pháp lệnh tiền
đúc” đã trực tiếp gây nên cuộc đại suy thoái kinh tế từ năm 1873 đến năm 1879.
Trong khoảng thời gian ba năm này, tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ đã lên đến mức 30%,
người dân Mỹ đã cương quyết yêu cầu phải khôi phục lại thời kỳ lưu hành song
song tiền bạc và tiền xanh Lincoln. Dân chúng Mỹ đã thành lập các tổ chức tự
phát như hội bạc trắng (US Silver Commission), hội tiền xanh (Greenback Party),
thúc đẩy cả nước khôi phục lại chế độ lưu hành song song tiền vàng và tiền bạc,
phát hành lại tiền xanh Lincoln vốn được người dân rất hoan nghênh.
Báo cáo của hội bạc trắng ở Mỹ đã chỉ ra: “Sự
điêu tàn trong thời kỳ trung cổ là do nạn thiếu hụt tiền tệ và sự sụt giá gây
nên. Không có tiền tệ thì không có văn minh, còn nếu lượng cung ứng tiền tệ
giảm, văn minh tất nhiên sẽ tiêu vong. Lượng lưu thông tiền tệ kim loại của đế
quốc La Mã tương đương với 1,8 tỉ đô-la Mỹ, đến cuối thế kỷ 15, lượng lưu thông
tiền tệ kim loại của châu Âu chỉ còn lại 200 triệu đô-la Mỹ. Lịch sử đã chứng
minh rằng, không có bất cứ tai hoạ nào sánh bằng việc đế quốc La Mã trờ về thời
kỳ trung cổ”.
Nhưng trước những đòi hỏi của dân chúng Mỹ, Hiệp
hội các nhà ngân hàng Mỹ (The American Bankers Association) tỏ thái độ dứt
khoát lạnh lùng. Trong thư gửi cho các hội viên, các nhà ngân hàng đã nêu rõ
rằng:
“Cùng với sự hỗ trợ của các tờ báo danh
tiếng, đặc biệt là sự hỗ trợ của các tổ chức nông nghiệp và tôn giáo, chúng tôi
đề nghị quý vị hãy dốc sức để kiên quyết phản đối việc chính phủ phát hành tiền
xanh. Quý vị phải chấm dứt trợ giúp những ai tỏ ý ủng hộ chính phủ trong việc
phát hành tiền xanh. Hành động của chính phủ sẽ làm phương hại nghiêm trọng đến
lợi nhuận của ngân hàng cũng như lợi ích của những người cho vay như chúng ta.
Ngay lập tức, quý vị phải gặp gỡ với các đại biểu quốc hội trong khu vực của
mình và yêu cầu họ bảo vệ lợi ích của chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể khống
chế được luật pháp”(35).
Năm 1881, trong cảnh kinh tế tiêu điều, tổng
thống thứ 20 của Mỹ là James Garfield bước lên đài chính trị và đã nắm bắt được
điểm cốt yếu của vấn đề. Ông nói rằng:
“Ở bất cứ quốc gia nào, ai khống chế được việc
cung ứng tiền tệ thì người đó trở thành người chủ tuyệt đối của các ngành công,
thương nghiệp hiện có. Nếu hiểu rõ được rằng, hệ thống tiền tệ được kiểm soát
và khống chế một cách dễ dàng bởi một nhóm người, bạn sẽ hiểu rõ nguồn gốc của
nạn lạm phát và chính sách siết chặt tiền tệ”.
Chỉ mấy tuần sau bài phát biểu của mình, tổng
thống James đã bị Charles Guiteau - một tên “mắc bệnh tâm thần” ám sát vào ngày
2 tháng 7 năm 1881. tổng thống bị bắn hai phát và cuối cùng qua đời ngày 19
tháng 9.
Trong suốt thế kỷ 19, các ngân hàng quốc tế đã
thành công với sách lược “dùng quyền lực của đồng tiền thần thánh để thu được
vương quyền thần thánh”. Tại Mỹ, “quyền lực thần thánh của đồng tiền cũng dần
làm tan rã dân quyền thiêng liêng”. Sau những cuộc đối đầu kịch liệt kéo dài
hàng trăm năm với chính phủ dân cử của nước Mỹ, các ngân hàng quốc tế đã chiếm
thế thượng phong. Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ tử vong của các đời
tổng thống Mỹ còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ tử trận của thuỷ quân lục chiến Mỹ
trong chiến dịch Normadie.
Khi các ngân hàng nghênh ngang đắc ý tự cho mình
là kẻ nắm được pháp lệnh ngân hàng quốc gia năm 1863 trong tay thì mục tiêu
thành lập một ngân hàng tại Mỹ theo mô hình Ngân hàng Anh chỉ còn là việc trong
tầm tay. Như vậy, hình hài một ngân hàng trung ương tư nhân hoàn toàn khống chế
quyền phát hành tiền tệ của Mỹ - ngân hàng của các nhà tài phiệt - đã bắt đầu
hình thành.
CHÚ
THÍCH
(1) Abraham Lincoln, Thư gửi Wilham Elkins,
21-11-1864.
G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll
(The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002, tr.
393.
(3) Izola Forrester, Đạo luật ngu xuẩn (This One
Mad Act” - Boston: Hale, Cushman & Flint, 1937, tr. 359.
(4) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 458.
(5) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 459
(6) Adam Smith, Của cải của các quốc gia (Wealth
of Nation 1776, cuốn IV, Chương Một.
(7) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đã
biến nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin
Made New England Prosperous), 1941.
(8) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đã
biến nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin
Made New England Prosperous), 1941.
(9) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đã biến
nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin Made
New England Prosperous), 1941.
(10) Năm 1787, quốc hội Hoa Kỳ họp để thông qua
việc thay thế Điều khoản Liên bang bằng Hiến pháp.
(11) Hiến pháp Mỹ, điều 1, khoản 8.
(12) Thư gửi Bộ trưởng tài chính Albert Gallatin
(1802).
(13) Allan Hamilton, Cuộc đời của Alexander
Hamilton (The Intimate Life of Alexander Hamilton) - Charles Scribner's Song
1910.
(14) Arthur Schlesinger con, Thời đại của
Jackson (The Age of Jackson) - New York: Mentor Books, 1945, tr.6-7.
(15) Được viết cho Robert Morris vào 30/4/1781.
(16) Tuyển tập tác phẩm của Thomas Jefferson
(New York& Sons 1899), tập X, tr. 31.
(17) Tác phẩm của Thomas Jefferson (Willey Book
Company. 1944), tr. 749.
(18) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 474.
(19) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 475.
(20) Thomas Jefferson, Thư gửi John Taylor,
26-11-1798; in lại trong Tuyển tập tác phẩm của Thomas Jefferson, tập 10.
(21) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 476.
(22) Thomas Jeffcrson. Thư gửi Jamcs Monroe,
1/1/1815.
(23) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 476.
(24) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 479.
(25) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo
Jekyll (The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA
2002, tr.224
(26) Diễn văn khai mạc của tổng thống William
Henry Harrison, 4/3/1841.
(27) Michael F. Holt; Sự lên ngôi và sụp đổ cúa
Đáng Whig (The Rise and Fall of the American Whig Party) Jacksonian Politics
and the Onset of the Cilvil War) - 1999; tr. 292.
(28) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 486.
(30) Sydney E. Ablstrom, Lịch sử tôn giáo của
người Mỹ (A Religious History of the American People) - Yale University Press,
1972, tr. 649.
(31) Lịch sử người Do Thái trong cuộc nội chiến
(Jewish History in Civil War), Jewish -American History Documentation
Foundation, Inc. 2006.
(32) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại
đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University
of Wales Press, 2002, tr. 479.
(33) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into
Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.
(34) Abraham Lincoln and John F. Kennedy by
Melvin Sickler.
(35) Từ thông tư được hiệp hội các nhà ngân hàng
New York, Philadelphia và Boston ban hành, do James Buel ký và gửi từ địa chỉ
247 Broadway, New York vào năm 1877 cho các nhà ngân hàng trên toàn nước Mỹ.