20/6/12

Mưu Trí Thời Tần Hán - Phần V (KT): Dư Âm Của Đời Hậu Hán

Chương 81
Không Vào Hang Cọp, Không Bắt Được Cọp Con


Đã từng có công lao tỏ rõ uy lực của nước mạnh đối với các nước bên ngoài, từng có thời hoàng kim của con đường tơ lụa. Tuy vậy, các thành lũy lô cốt có ở khắp nơi trong nước lại cho mọi người thấy rằng, đây là một triều đại có nền kinh tế trung viên thuộc chế độ sở hữu đất đai. Phần lớn của cải không đem lại mức tăng trưởng của lực ngưng tụ, ngược lại khuynh hướng ly tâm trên chính trị ngày càng nghiêm trọng, các quan lại tranh giành quyền lực, độc đoán, chuyên quyền đã khiến triều chính lâm vào cảnh tăm tối trong một thời gian dài.
Nhà Hán là dân tộc chính của Trung Quốc. Triều đại hình thành tộc Hán là triều đại lần đầu tiên thống nhất, dung hòa với các dân tộc khác trong cùng đất nước, là triều đại giàu có và sáng tạo nền văn minh tinh thần. Vậy mà triều đại này đã tồn tại mấy trăm năm lịch sử, từ lúc còn trẻ khỏe đến khi về già, những thành tựu huy hoàng mà nó tạo ra được truyền lại cho đời sau.
Ban Siêu tuy sinh ra trong một gia đình dòng dõi viết sử, cha là Ban Bưu, anh cả là Ban Cố, đều là những sử gia nổi tiếng, riêng bản thân ông từ nhỏ đã thích học tập Trương Hiên đời Tây Hán trở thành nhà hoạt động đối ngoại. Thời Minh Đế, Đông Hán, ông tham gia cuộc chiến với quân Hung Nô, tướng quân lúc ấy thấy ông có tài bèn tiến cử với triều đình cho ông đi sứ Tây Vực.
Ban Siêu đem theo đoàn sứ thần ngoại giao Đông Hán đặt chân đến nước Thiện Thiện. Lúc đầu, quốc vương đối đãi rất thịnh tình, nhưng sau cứ lạnh nhạt dần. Ban Siêu nói với bộ hạ. "Các ngươi có biết tại sao quốc vương đối xử với chúng ta lạnh nhạt, vô lễ không? Theo ta nhất định là sứ thần Hung Nô đã tới đây khiến cho quốc vương không biết xoay sở ra sao”. Để kiểm chứng ông cho gọi người hầu đến, giả bộ đã biết hết mọi chuyện, hỏi: "Sứ thần Hung Nô đến đã mấy ngày rồi, không biết là nghỉ ở đâu?" Người hầu này vốn được lệnh giữ kín chuyện sứ thần Hung Nô, nghe hỏi vậy liền đem mọi chuyện ra kể hết.
Ban Siêu có tất cả 36 sứ sĩ, ông cho họ tập trung lại, uống rượu. Đang khi uống ngà ngà ông liền nói: "Mọi người đều giống như ta, đến đây từ Trung Nguyên xa xôi và đều vì muốn lập công với triều đình. Hiện nay, sứ thần Hung Nô đã tới đây, thái độ của Thiện Thiện quốc vương đối với chúng ta thì lạnh nhạt như vậy. Nếu như quốc vương dâng nộp chúng ta cho bọn Hung Nô thì e khó bề xoay xở, vậy mọi người tính sao?” Bộ hạ đồng thanh nói "Xung quanh chúng ta đều là nguy hiểm, sống chết gì chúng tôi cũng xin nghe Tư mã". Ban Siêu thấy tình hình đúng như dự kiến bèn nói: "Tốt, không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con. Hiện nay chỉ có một biện pháp đó là nhân đêm tối, nổi lửa đốt doanh trại chúng, làm cho bọn Hung Nô không biết được ta có bao nhiêu người, vừa thừa cơ tiêu diệt chúng luôn. Chỉ cần trừ khử được bọn sứ thần này quốc vương nước Thiện Thiện sẽ kinh sợ, như thế là lập công lớn rồi". Mọi người đều khen kế hay.
Sau khi trời tối, Ban Siêu dẫn theo sứ sĩ thuộc hạ tiến về doanh trại sứ thần Hung Nô. ông ra lệnh cho 10 sứ sĩ vác trống, thanh la nấp ở sau doanh trại Hung Nô, dặn họ khi thấy có lửa thì lập tức gõ trống, la hét. Số người còn lại cầm gươm, mũi tên mai phục ở phía tây. Ban Siêu châm lửa, lửa theo chiều gió cháy ngùn ngụt. Tiếng trống, la hét bốn phía khiến sứ thần Hung Nô sợ vỡ mật. Ban Siêu giết chết 3 người, quân mai phục giết được hơn 30 người, còn hơn 100 người bị lửa thiêu cháy.
Ngày hôm sau, Ban Siêu cho mời quốc vương tới cho xem thủ cấp của sứ thần Hung Nô, quốc vương sợ đến nỗi không nói được. Ban Siêu còn dùng nhiều biện pháp uy hiếp khác, cuối cùng đạt được mục đích, giành phần thắng, phần lợi về cho triều đình. Công lao của Ban Siêu chẳng mấy chốc đến tai hoàng đế, hoàng đế hết lời khen ngợi phong ông làm quân tư mã và lại cho đi sứ Tây Vực. Tướng quân định cấp thêm quân cho ông thì ông cười mà nói rằng: "Thần chỉ cần 30 người như lần trước là đủ, người đông, lại không nắm rõ tình hình chỉ thêm rắc rối".
Bất luận là quan trường, chiến trường hay thương trường, tinh thần "không vào hang cọp, không bắt được cọp con" thì người chỉ huy nào cũng phải có, nó vừa là dũng khí, vừa là trí mưu. Dựa vào tinh thần này cùng với tài sắp đặt mưu kế phi phàm, Ban Siêu đã giết được bọn sứ thần Hung Nô, lật ngược thế bị động của cả đoàn ngoại giao. Trên thương trường ngày nay, khắp nơi đều có cạm bẫy, nguy hiểm, làm thế nào để cưỡi lên đỉnh sóng, san bằng nguy hiểm, dùng sự can đảm và mưu trí hóa nguy thành an là điều thiết yếu của mỗi xí nghiệp, mỗi một lãnh đạo. Không có tinh thần: "Không vào hang cọp không bắt được cọp con" thì việc hóa nguy thành an chỉ là lời nói rỗng không.
Công ty dầu khí Shell của Mỹ là một trong những công ty về năng lượng lớn nhất thế giới. Nó có hơn 100 năm lịch sử, phạm vi kinh doanh phủ khắp hơn 100 quốc gia, khu vực. Tổng thu nhập của công ty năm 1990 là 107 tỉ đô la, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau công ty xe hơi General. Đối với những tập đoàn công ty lớn xuyên quốc gia như Shell, những rủi ro, thử thách phải đối mặt rất nhiều. Bởi vì tất cả những cái bất ngờ phát sinh trong kinh doanh, hoặc sự việc ngoài ý muốn đều ảnh hưởng trực tiếp tới công ty. Đối mặt với những thử thách ấy nhưng công ty luôn vững vàng. Hơn nữa lại còn chủ động đối đầu với thử thách, đưa ra dự tính về những tình huống có thể phát sinh, cố gắng hạ rủi ro tới mức thấp nhất. Vì vậy công ty thiết lập nên ba tuyến phòng đạo:
Thứ nhất là phân tán địa lý. Công ty có điểm thăm dò dầu khí và khí đốt thiên nhiên ở trên 50 quốc gia, có nhà máy luyện dầu ở 34 quốc gia, sản phẩm tiêu thụ ở trên 100 nước. Phương Đông gặp rắc rối đã có phương Tây hỗ trợ, thị trường phương Nam đen tối đã có phương Bắc gánh đỡ. Sự phân bố về địa lý này khiến cho rủi ro cũng được phân tán. Do đó nếu có ảnh hưởng tới sản xuất cũng không đến nỗi tuyệt mệnh. Thứ hai là đa dạng hóa sản xuất. Mặt hàng chính của công ty là dầu khí và khí đốt thiên nhiên. Thế nhưng ngoài hai mặt hàng chính này công ty còn kinh doanh gas, công nghiệp hóa chất, kim loại màu... Nếu như dầu khí, khí đốt gặp rủi ro thì các ngành này sẽ là cây cột chống đỡ.
Cách phòng thủ thứ ba của công ty là phản ứng nhanh trước những sự việc đột xuất. Thế cục thế giới thiên biến, vạn hóa, lực lượng chuyên môn tổ chức của công ty, luôn theo dõi sát sao tình hình kinh tế, chính trị của các nơi trên thế giới, kịp thời đưa ra những đối sách trước các biến đổi, làm tốt công tác chuẩn bị để thích nghi với biến đổi ấy. Do vậy cảm giác về "nguy cơ" hay rủi ro thường trực khắp nơi trong công ty. Các chi nhánh công ty ở các nơi mỗi năm đều phải tổ chức bốn lần diễn tập về tình huống đột ngột bị cắt đứt đường dây cung cấp dầu. Công ty có 122 đội thuyền lớn vận chuyển xăng dầu, nếu xảy ra chuyện gì, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có thể tiếp viện. Những cuộc diễn tập như thế gia tăng tốc độ năng lực ứng biến khi phát sinh tình hình ở các công ty con.
Cảnh giác trước sự cố, nguy cơ... khiến cho năng lực xử lý sự cố tình huống của công ty được tăng lên mạnh mẽ, chống chọi được với những cơn lốc biến đổi thường xuyên của kinh tế thế giới. Theo thống kê cũ, mấy năm qua, giá dầu bán ra của công ty luôn thấp hơn so với giá bình quân thế giới. Và điều này cũng góp phần lớn mang lại lợi nhuận cho công ty.
 
Chương 82
Lấy Sự Trong Sạch Của Mình Làm Gương


Thời Đông Hán An, Dương Chấn được phân đến quận Đông Thái nhận chức trông coi quận. Trên đường phải đi qua huyện Xương Lã. Huyện lệnh ở đây là tú tài Vương Mật vốn do Dương Chấn tiến cử với vua. Đêm hôm đó, Vương Mật ôm 50 lạng vàng dò dẫm tới thăm Dương Chấn. Ông vừa nhìn đã hỏi ngay "Cái này để làm gì?", đương nhiên là Vương Mật nói đến cái ơn tiến cử của ông năm xưa và sự mong báo đáp của mình và nhất định muốn Dương Chấn phải nhận số vàng.
Dương Chấn nghe xong, không nhúc nhích. Trước đây vì nghĩ đến tình bè bạn lâu năm mà ông tiến cử Vương Mật chứ quyết không phải mong có ngày được báo đáp. Thấy Vương Mật trước mắt làm như vậy, ông đành dùng lời bóng gió nói: "Trời ơi, lão bạn già này rất hiểu ông, nhưng sao ông lại chẳng chịu hiểu tôi một chút. Sao ông lại làm thế này?" Vương Mật biết đó là lời có hàm ý nhưng vẫn theo ý mình, lại còn nói "Đêm tối, không ai biết chuyện này đâu”. Dương Chấn nghe xong, cơn giận bốc lên, ông cảm tưởng như bị ai sỉ nhục vậy, liền nghiêm nét mặt nói "Trời biết, quỷ thần biết, ông biết, tôi biết, tại sao nói là không ai biết?' . Đến lúc này Vương Mật mới biết Dương Chấn là con người thanh liêm, chính trực, xem sự tham ác như thù, không bị lợi nhỏ trước mắt xiêu lòng, đành xấu hổ cáo lui.
Sau này, Dương Chấn lại nhậm chức Thái thú quận và vẫn giữ được phẩm chất liêm khiết, không nhận tiền của đút lót. Con của ông thường nhật cũng giống như ông vậy cuộc sống rất tiết kiệm, ăn rau dưa, đi bộ không dùng xe. Quan lại thời Đông Hán, không ít người lợi dụng chức vị của mình chiếm ruộng đất, của cải, mua chức tước, ngôi vị cho con. Cùng thời với ông, thậm chí lớn tuổi hơn ông số người tham lam như thế không ít. Mọi người hỏi sao ông không làm thế, ông trả lời: "Tôi muốn để cho hậu thế gọi con cháu tôi là phẩm chất chính trực, thanh liêm. Tài sản ấy còn chưa hậu hĩnh hay sao?" Lúc Dương Chấn đương chức, nhà Đông Hán đang ở hậu kỳ, chính trị đen tối, quan trường hủ bại, vậy mà Dương Chấn vẫn giữ trọn tấm thân trong sạch, thậm chí còn giáo dục được con cháu giữ đạo thanh liêm, quả là hạt ngọc giữa bụi trần.
Điều làm Dương Chấn vui lòng nhất là con cháu ông đều giữ được nếp nhà. Con Dương Chấn giống hệt như ông, thanh liêm, cương trực. Các cháu Dương Chấn là Dương Bưu đều là những bậc quan liêm khiết nổi danh lúc ấy.
Hình tượng cá nhân rất quan trọng. Nếu có được một hình ảnh đẹp thì công ty của anh sẽ như hổ thêm nanh, nếu ngược lại sẽ làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của công ty. Trong thương trường ngày nay, hình ảnh của một xí nghiệp hay công ty là vấn đề quan trọng. Mỗi một giai đoạn, hay sự kiện gì mà công ty đã có những việc làm không mấy tốt đẹp, nếu bị phát hiện ra thì chỉ còn cách cố gắng cật lực để bù lại, mới có thể tạo được hình ảnh đẹp trong lòng mọi người, tránh đi hậu quả trong tương lai.
Công ty Duban của Mỹ chuyên sản xuất đồ quân hỏa, vũ khí quân sự. Tuy rất giàu có nhưng lại bị gọi là "con buôn chiến tranh". Danh hiệu này quả là bất lợi cho công ty. Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, công ty nhận một công trình gọi là Mahattan, nghiên cứu chế tạo nguyên liệu vũ khí hạt nhân (lúc bấy giờ được coi là tối mật). Công trình này là để góp phần trị an quốc gia, lượng công việc nhiều, công sức bỏ ra lớn, cái giá phải trả thì đắt, nhưng thù lao công ty được trả chỉ là 0,1 tỉ đô la. Lúc đó công ty đã ký hiệp ước với chính phủ rằng: Công ty Duban sẽ phụ trách toàn bộ thiết kế theo yêu cầu kế hoạch, kiến tạo và đảm bảo vận chuyển an toàn, thù lao ngoài giá thành sẽ cộng thêm lợi nhuận thỏa đáng. Nhưng công ty định mức lợi nhuận là 0,1 tỉ đô la. Điều này làm người ta ngạc nhiên, bởi lẽ công ty Duban phải huy động 6 vạn nhân công bí mật vận chuyển một quãng đường 2.700 dặm Anh đến Haphoder của bờ Columbia, lại còn phải xây dựng nhà máy sản xuất mới phù hợp với nguyên liệu của công nghiệp chế tạo hạt nhân. Bỏ một giá lớn như vậy, chẳng nhẽ chỉ để thu 0,1 tỉ đô la lợi nhuận.
Hạng mục công trình Mahattan quả thực mang lại lợi nhuận cho công ty, cái lớn nhất là mang đến cho công ty Duban một danh tiếng hết sức cao quý, xóa bỏ biệt hiệu "con buôn chiến tranh trước đây", cải thiện một bước hình ảnh của công ty trong mắt quần chúng.
Đương nhiên cái lợi mà công ty thu được mang tính chất lâu dài, nếu nói về trước mắt thì nó đủ để làm thanh sạch hình ảnh công ty, về lâu dài nó có được những tài liệu bí mật vế kỹ thuật hạt nhân, sau này thu được một lượng lớn đơn đặt hàng của quân đội cũng như kinh phí nghiên cứu, sản xuất, lợi nhuận nhiều vô kể.
 
Chương 83
Thiên Biến Vạn Hóa


Thời An Đế nhà Đông Hán, huyện lệnh huyện Hoài là Ngu Hử sau khi phụng mệnh triều đình đi dẹp loạn quân được thăng chức. Đúng lúc ông nhận lệnh đến Vũ Đế nhậm chức Thái thú thì hay tin bọn giặc Di làm phản. Tuy lên đường nhậm chức nhưng trong lòng ông vẫn nghĩ đến chuyện dẹp bọn này.
Bọn Di hay tin Ngu Hử lên đường nhậm chức lập tức cho tập trung hơn ngàn binh mã đón chặn ở Trần Thương. Ngu Hử hay tin, trong bụng nghĩ: ta chỉ đem theo có số ít binh lính, cách đối phó duy nhất là dùng kế phô trương thanh thế để mê hoặc đối phương.
Ngu Hử cho dừng xe, thở khoan thai nói với bọn chặn đường: "Ta đã bẩm việc này với triều đình, chẳng bao lâu nữa chi viện binh sẽ tới". Bọn Di cho là thật bèn cho quân đi cướp bóc vùng lân cận, không gây khó dễ nữa. Ngu Hử nhân cơ hội ấy đi tắt đường nhỏ, cố gắng đi thật nhanh. Bọn Di thấy Ngu Hử bỏ đi, biết mình mắc lừa bèn lệnh cho quân truy đuổi. Ngu Hử lệnh cho thuộc hạ mỗi người làm hai cái bếp, cách một ngày lại tăng gấp đôi, cách hai ngày tăng gấp bốn, lại dùng khói bôi đen cứ như là đã dùng để nấu ăn vậy. Đồng thời đều tăng tốc độ hành quân, lúc đầu là 30 dặm, sau tăng lên 200 dặm một ngày. Người Di thấy số bếp của Ngu Hử không ngừng tăng lên, trong lòng càng thêm nghi hoặc, không biết Ngu Hử thực ra có bao nhiêu binh, không dám truy đuổi. Ngu Hử đã dùng biện pháp này mà uy hiếp khiến quân phản loạn phải rút lui, đến được nơi chậm chức. Chỉ với hơn 3.000 quân mà ông đã thắng thế hơn 1 vạn quân của bọn Di bằng trò chơi ú tim đó.
Ngu Hử lệnh cho quân thu lại tất cả những nỏ có tầm bắn xa, chỉ dùng nỏ ngắn. Khi hai bên vừa chạm trán, người Di thấy đối thủ sử dụng loại cung nỏ, mũi tên quá đơn gián, chẳng có gì đáng sợ bèn khinh địch, cho quân thẳng tiến. Khi quân của bọn Di đã tiến vào đúng phạm vi định sẵn, Ngu Hử lệnh cho tướng sĩ lấy nỏ dài ra, bắn tên như mưa xuống quân địch, khiến chúng thương vong cực lớn, buộc phải rút lui.
Ngày hôm sau Ngu Hử lại dùng một chiêu khác. Ông lệnh cho quân đội từ cửa thành phía đông diễu về cửa thành phía bắc, sau đó thay đổi quần áo và lại ra ngoài thành diễu hành. Cứ tuần hoàn nhiều lần như thế, quân của bọn Di bối rối không hiểu trong thành có bao nhiêu binh sĩ, không dám động binh tiến công. Ngu Hử đoán nếu địch không tiến thì sẽ rút, nên cho bố trí sẵn phục binh, quả nhiên quân của bọn Di bắt đầu phân tán, rút lui. Ngu Hử bèn hạ lệnh, quân mai phục xông ra như bầy ong, khiến cho chúng không kịp xoay xở, bị đánh tơi bời. Qua mấy lần dùng mưu kế, Ngu Hử đã diệt được mầm loạn, ổn định biên thùy. Những năm đầu của thời kỳ chiến quốc, khi Ngụy - Tề giao tranh ở Mã Lăng, quân sư nước Tề là Tôn Tẩn dùng cách giảm đi số bếp quân mà đại thắng quân Ngụy. Thời Đông Hán, Ngu Hử dùng kế tăng số bếp quân mà lừa được người Di. Thế mới biết binh pháp không ngừng thay đổi, chỉ cần giỏi phép biến hóa thì có thể từ cái hư thực bất định mà biến hoá ra trăm ngàn mưu kế. Biến pháp hư thực tuy là linh hồn của mưu lược binh pháp, nhưng lại được vận dụng trong rất nhiều lĩnh vực.
Giám đốc Sơn Bản Thôn Thạch của công ty D nước Nhật khi tham gia đàm phán một vụ làm ăn với một công ty xuyên quốc gia của Mỹ thì phía công ty Mỹ biết được công ty D đang phải đối mặt với nguy cơ phá sản, thế là họ cố tình ép giá, đòi mua toàn bộ sản phẩm của công ty với giá rẻ chưa từng có. Công ty D lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu không đồng ý công ty sẽ không có vốn để chu chuyển, nếu bán công ty sẽ bị thiệt lớn, sau này khó mà hồi phục lại được. Giám đốc Sơn Bản Thôn Thạch là người giỏi kiềm chế tâm lý mâu thuẫn. Sau khi đối phương trả giá quá thấp, ông cố làm ra dáng vẻ thờ ơ, bất cần gọi nhân viên đứng bên lại hỏi xem đã chuẩn bị vé máy bay đi Hàn Quốc chưa, lại nói thêm rằng: "Nếu đã chuẩn bị xong thì ngày mai tôi sẽ đi Hàn Quốc, ở đó còn có vụ làm ăn lớn cần giải quyết, còn việc mua bán ở đây có thành hay không, không quan trọng, tôi cũng không cảm thấy hứng thú lắm". Câu nói hư hư, thực thực này khiến phía Mỹ lo lắng, họ vội gọi điện thoại về Mỹ xin ý kiến. Thực ra sản phẩm của công ty D là mặt hàng thiết yếu của Mỹ, nhưng chẳng qua thấy công ty D đang lâm vào cảnh khó khăn nên muốn ép giá mà thôi. Nay thấy tình hình có vẻ thay đổi, hàng đến tay lại có nguy cơ tuột mất nên phía Mỹ quyết định mua hết số hàng với giá ban đầu.
Như vậy, dựa vào thủ pháp này mà công ty D hồi sinh trở lại lãnh đạo và đồng nghiệp trong công ty không ngớt lời thán phục tài mưu cao thủ của Sơn Bản Thôn Thạch.
 
Chương 84
Làm Tê Liệt Đối Phương, Đột Ngột Xuất Kích


Sau thời Hoàn Đế Đông Hán, trong chính trị nơi cung đình xuất hiện cục diện tranh chấp quyền lực giữa hoạn quan và ngoại tộc. Nguyên nhân là do hoàng đế kế vị tuổi nhỏ, không có khả năng chấp chính, nên hoàng thái hậu phải lâm triều. Hoàng thái hậu thường cho người nhà mình (cha, anh em ruột) làm phụ tá chính trị, dần dà như vậy dẫn đến sự độc chiếm đại quyền của ngoại tộc.
Sau khi hoàng đế đã trưởng thành, thấy mình không nắm được thực quyền, muốn thay đổi cục diện, đích thân chấp chính, lực lượng mà hoàng đế có thể dựa vào chỉ có hoạn quan. Hoạn quan vốn ở chung với họ, cùng sống một nơi, tuy quyền lực địa vị không cao nhưng đáng tin cậy. Thế là hoàng đế thường dựa vào hoạn quan để lấy lại quyền lực từ tay ngoại thích. Nếu như hoàng đế lại được thực quyền, hoạn quan trở thành công thần, có quyền lực cao nhất.
Bối cảnh như trên từng diễn ra nhiều lần ở Đông Hán. Lần nào cũng quyết liệt, dữ dội, kết cục chung thường là hoạn quan chiếm phần thắng.
Trong số các ngoại thích bá quyền thời Đông Hán phải kể tới Lương Ký. Quyền thế trong tay hắn lớn nhất, thời gian tại vị lâu nhất, hắn đã từng phế ba hoàng đế. Xung Đế 2 tuổi kế ngôi, 4 tuổi chết, Chất Đế 8 tuổi nối ngôi, 9 tuổi bị đầu độc chết, sau khi Hoàn Đế lên ngôi, mới lấy lại được triều chính từ tay hắn. Lương Ký chuyên quyền 20 năm, gia tộc có 7 người được phong hầu, 3 người làm hoàng hậu, 6 người là quý nhân, 2 người là tướng quân, trong họ tộc có 3 phò mã, đảm nhận các chức, các cấp quan có 57 người. Có thể nói là đỉnh cao của chuyên quyền ngoại thích.
Công nguyên 159, hai chị của Lương Ký qua đời, một người là hoàng thái hậu, một người là hoàng hậu. Hoàn Đế thấy hắn đã mất đi chỗ dựa bèn bí mật bàn mưu với hoạn quan thực hiện chính biến, đoạt lại quyền lực. Trong số quan lại có Đơn Triệu, Từ Hoàng vốn có tư thù với Lương Ký. Vua bèn cho triệu bọn họ đến mật thất bàn kế hoạch. Lương Ký biết tin hoàng đế và bọn này có cơ mưu bèn chuẩn bị điều động binh lính nhập cung túc vệ. Bọn hoạn quan lập tức lấy phù tiết, bao vây phủ của Lương Ký khiến cho hắn không kịp trở tay. Vợ chồng Lương Ký phải uống thuốc độc tự sát, toàn bộ gia tộc đều bị giết, những quan trong triều có liên quan đều bị định tội.
Bọn Đơn Triệu sở dĩ thành công là vì giữ được bí mật, hành động nhanh, bất ngờ, biết xử lý tình huống đặc biệt, giải quyết vấn đề triệt để.
Trên thương trường ngày nay thủ pháp này cũng rất có hiệu quả, đặc biệt là trong những tình huống khẩn cấp, những sự cố biến hóa ngoài dự kiến. Gặp những tình huống như vậy thứ nhất không được hoảng loạn, thứ hai phải tìm cơ hội, dùng phương pháp đột ngột, bất ngờ xoay đổi cục diện.
Trong tập đoàn tài chính ở Nhật Bản công ty Tam Tĩnh và Tam Lãng tuy cùng thuộc tập đoàn nhưng giữa hai công ty có sự đối lập gay gắt. Sự đối lập này xuất phát từ vấn đề cạnh tranh và có căn nguyên của nó.
Có một lần cạnh tranh công ty Tam Tĩnh bị thua thiệt và bị đả kích ghê gớm. Những sản phẩm công ty đều bị tồn kho, vốn không chu chuyển được, mở rộng sản xuất là điều gần như không có khả năng. Tuy nhiên, như vậy có thể coi là tuyệt mệnh hay chưa? Công ty Tam Tĩnh còn có một vũ khí bí mật, đó là kỹ thuật mới còn đang trong tình trạng bảo mật. Nội bộ hội đồng quản trị công ty thảo luận gay gắt về việc lợi dụng kỹ thuật mới này như thế nào để tự cứu mình. Không ít người chủ trương đem chuyển nhượng kỹ thuật này và hạ giá những sản phẩm đang tồn kho. Nhưng chủ tịch hội đồng quản trị Cái Điền Thọ không đồng ý. Ông làm theo cách của mình mặc dù gặp rất nhiều áp lực. Thứ nhất tuyên bố công ty ngừng sản xuất quyết định giảm phần lớn nhân lực khoảng hơn 90%, chỉ giữ lại cán bộ kỹ thuật cốt cán. Đồng thời thông qua báo chí tuyên bố cải cách đường lối kinh doanh để kịp chuyển đổi sản xuất. Biết tin này công ty Tam Lãng vô cùng đắc ý. Trong mắt họ công ty Tam Tĩnh coi như đã sập tiệm, phá sản. Đối với lĩnh vực này họ nắm chắc địa vị lũng đoạn, độc quyền, không còn đối thủ cạnh tranh. Thế là công ty Tam Lãng không chần chừ, tăng giá hàng vô tội vạ. Họ tự cho mình vị thế, thái độ "con gái hoàng đế không phải lo việc nhà", hơn nữa, sản phẩm lũng đoạn lo gì không bán được? Tư tưởng ấy phổ biến khắp giới lãnh đạo công ty.
Đúng lúc công ty Tam Lãng gần như quên đi đối thủ cạnh tranh thì trên thị trường sản phẩm mới của Tam Tĩnh xuất hiện khắp nơi như một phép thần thông. Vừa xuất hiện sản phẩm mới này đã đoạt ngay ngôi vị đầu bảng. Lúc này đến lượt Tam Lãng nếm vị quả đắng. Giống như Tam Tĩnh trước đây hàng hóa của Tam Lãng ứ đọng trong kho, toàn công ty như phát hoảng, không hiểu nguyên do từ đâu.
Hóa ra, trước đây công ty Tam Tĩnh thực hiện một loạt các bước lùi chỉ là tấm màn che phủ, làm cho Tam Lãng chủ quan, buông lỏng quản lý, cải cách sản phẩm, không quan tâm tới sản xuất và đó chính là cách làm tê liệt đối phương. Còn Tam Tĩnh công ty thì tập trung những tinh hoa kỹ thuật, đem thế mạnh là kỹ thuật mới còn bảo mật của mình ứng dụng trên sản phẩm mới, thông qua 2 tháng thử nghiệm cuối cùng đã giành được thành công.
Còn Tam Lãng thì sao? Giá cả lũng đoạn đã gây cho họ thiệt hại lớn, khi Tam Tĩnh đột ngột bật dậy cạnh tranh thì họ thất bại hoàn toàn.
 
Chương 85
Quyết Đoán Khi Chọn Lựa Nhân Tài


Bàng Tham trong thời gian làm quan ở quận Hà Nam, tuy là một chức vụ nhỏ bé nhưng khi quan huyện Hà Nam, Bàng Phấn tiếp kiến ông, thấy ông không phải là kẻ tầm thường bèn tiến cử ông làm Hiếu liêm, và nhậm chức tá hiệu lệnh. Chẳng bao lâu sau ông vi phạm pháp luật và bị tống giam lao dịch.
Hậu kỳ nhà Đông Hán, các dân tộc thiểu số mà đứng đầu là tộc Di ở vùng Lương Châu, Tây Bắc phát động làm phản. Triều đình dự định cử xa kỵ tướng quân Trịnh Trắc dẫn quân đi chinh phạt. Lúc đó Bàng Tham ở trong ngục viết một bức thư giao cho con là Bàng Tuấn dâng lên Thượng thư. Nội dung bức thư là: "Hiện nay dân ở vùng Tây Bắc nhân tâm bất an, quan phủ chinh phạt liên miên, lại thêm nạn mưa lũ ảnh hưởng đến nông nghiệp. Quân đội từ Trung Nguyên hành quân đến Tây Bắc lại gây thêm gánh nặng cho dân ở đây, binh dịch, phục dịch làm cho họ kiệt quệ. Thời giờ của nông dân phải dành cho quan quân, tiền bạc bị trưng thu hết, có ruộng mà không có người, trâu cày. Thần nghĩ dân ở đây đã suy kiệt rồi. Xuất binh lúc này không bằng để trăm họ nghỉ ngơi, người nam đi cày, người nữ dệt vải. Để họ sản xuất nộp tô, thuế, cho họ nghỉ lấy sức, sau đó xuất binh cũng chưa muộn".
Thật may là lá thư này lại đến tay ngự sử trung thừa Phàn Chuẩn. ông này tiến cử Bàng Tham với triều đình, ông nói: "Theo thần người trong ngục này chưa chắc đã bất tài. Năm xưa Hán Vũ Đế nghe lời khuyên miễn tội cho Ngụy Thượng lại bổ nhiệm ông ta làm thái thú quận biên ải, dẹp được loạn Hung Nô. Dùng một người tài có khi sẽ giải quyết ổn thỏa được một vấn đề lớn. Thần thấy tả hiệu lệnh Bàng Tham của Hà Nam quận mưu kế sâu sắc hơn người, không phải là loại tầm thường. Tuy phạm pháp bị giam, nhưng có thể để anh ta làm một chức nhỏ trong quân đội, như Vũ Đế ngày xưa sử dụng Ngụy Thượng vậy". Trịnh thái hậu nghe theo lời của Phàn Chuẩn, tha cho Bàng Tham và phong ông làm giám quân, lại truyền lệnh cho Trịnh Trắc giải quyết mâu thuẫn giữa nhà Hán và dân thiểu số bằng biện pháp hòa hoãn.
Đề bạt nhân tài, đôi khi cũng phải chấp nhận một số tật xấu của họ, không nên cấu toàn. Thế nhưng để làm được như Phàn Chuẩn tiến cử một người phạm tội thì quả phải có một dũng khí lớn. Trên thương trường hiện nay, không nhất thiết phải tìm người trong tù để tiến cử, mà điều cốt yếu là phải có lòng dũng cảm, sự quyết đoán. Cho nên việc Phàn Chuẩn tiến cử Bàng Tham chứng minh con mắt tinh đời và sự quyết đoán của ông đáng được khâm phục.
Công ty máy tính Apple của Mỹ là công ty có tiếng trong lĩnh vực máy tính. Tuy nhiên, những người sáng lập ra công ty tiền nhiệm chức tổng giám đốc và các thành viên chủ chốt trong tầng lớp lãnh đạo cao cấp của công ty hầu như chỉ là các chuyên gia trong lĩnh vực máy tính, bọn họ rất giỏi trong việc thiết kế, sáng chế ra các loại hình máy tính mới nhưng lại không biết gì về các lĩnh vực như quản lý, tổ chức, tiêu thụ sản phẩm.
Để thay đổi tình hình ấy, công ty quyết định dùng một khoản tiền hậu hĩnh bao gồm tiền lương hàng năm cộng với 200 vạn đô ra tiền thưởng để mời John Skulic tổng giám đốc công ty giải khát Pepsi Cola về công ty nhận chức tổng giám đốc.
Công ty giải khát Pepsi Cola là một công ty giải khát lớn, là đối thủ cạnh tranh trường kỳ của hãng Coca Cola. John Skulic trong thời gian dài lãnh đạo công ty này đã học và tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Ông tinh thông trong lĩnh vực tiêu thụ, hiểu biết về phương pháp quản lý xí nghiệp, do đó đã từng đóng góp cho công ty Pepsi Cola nhiều công sức. Chính nhờ ông mà công ty này rút ngắn được khoảng cách trên đường đua với Coca Cola. Dùng một khoản tiền lớn như thế để đổi lấy John Skulic, liệu có đáng không. Lúc bấy giờ trong công ty đặt ra nhiều câu hỏi nghi vấn. Nhưng tầng lớp lãnh đạo của công ty thì rất kiên quyết: "Nếu mời được một nhân tài số một như John Skulic về đây thì đúng là diễm phúc của công ty".
Quả nhiên, sau khi nhận chức, John Skulic không phụ sự trọng vọng của mọi người. Trong một thời gian rất ngắn ông đưa ra kế hoạch chiến lược phát triển công ty, lại còn trực tiếp đối mặt với những điểm yếu của công ty, tìm ra biện pháp sửa đổi. Trong một thời gian ngắn, diện mạo của công ty Apple đã thay đổi hẳn, lượng tiêu thụ gia tăng, lợi nhuận cũng tăng nhanh, toàn bộ nhân viên trong công ty đều phấn khởi.
 
Chương 86
Dám Khích Lệ, Dám Mạo Hiểm


Cuối thời Hoàn Đế Đông Hán, một số dân tộc thiểu số ở Trường Sa, Linh Lăng vũ trang nổi loạn. Sau khi triều đình cử quân đến đàn áp, phần lớn đều yên ổn, chỉ có bọn Phiên, Bặc là ngoan cố, trốn vào trong núi, thỉnh thoảng lại tổ chức cướp bóc, gây rối.
Triều đình cử Thứ Sử Độ Thượng đem quân đi chinh phạt. ông dẫn quân đến nơi, bọn thổ phỉ Phiên, Bặc sợ không dám xuất đầu lộ diện. Ông bèn cố ý nói cho số đông đều nghe thấy: "Bọn Phiên, Bặc này ở lâu trong rừng núi thành thổ phỉ hết rồi, chúng vừa biết cố thủ, lại biết cách tấn công, bây giờ chiếm cứ vùng đất hiểm cố thủ, quân ta từ xa đến lại mệt mỏi, phải đợi viện binh tới mới có thể tiến công chúng được. Nay cho quân nghỉ ngơi, luyện tập, đợi viện binh tới thành một đại hợp quân, thế như hổ xuống núi thì sẽ tấn công".
Thủ hạ của Độ Thượng ngày ngày rong chơi, săn bắn. Một hôm đợi cho doanh trại không có ai ông bí mật cho người đốt lửa, khiến cho lều trại cháy thành than. Binh sĩ chiều tối trở vế thất kinh, có người mang theo ít tư trang thì đều không còn nữa, ai nấy buồn bã, khóc than. Lúc đó Độ Thượng xuất hiện, ông bày tỏ sự phẫn uất, quát lớn: "Cái bọn thổ phỉ đáng ghét, thật to gan, lợi dụng lúc bản quan sơ suất dám vào đốt doanh trại. Nhưng cũng may là không có máu chảy, còn các tổn thất khác của anh em, chúng ta sẽ bắt bọn chúng đền bù". Quân sĩ như được đổ thêm dầu vào lửa, hầm hầm giận dữ chửi mắng thổ phỉ. Độ Thượng thấy thế liền thêm vào. "Tiền bạc của bọn thổ phỉ này mấy đời cũng không hết, chỉ riêng vàng bạc châu ngọc đã chất cao như núi. Ta đợi khi nào anh em khí thế sẵn sàng sẽ tiến công đánh bại bọn chúng. Đến lúc đó thiệt hại nhỏ của anh em hôm nay có đáng gì". Binh sĩ nghe xong đều nói tuân lệnh Độ Thượng điều binh, khiển tướng.
Ngày hôm sau, binh sĩ ôm lửa giận trong lòng, dũng cảm tấn công bọn Phiên, Bặc. Bọn này từ mấy hôm trước đã trúng kế của Đỗ Thượng, cho rằng binh sĩ mỏi mệt, viện binh chưa tới nên cứ ung dung, chẳng chuẩn bị gì, nên chẳng mấy chốc bị tiêu diệt gọn. Vấn đề phản loạn đã được giải quyết nhanh chóng nhờ mưu kế tài tình của Độ Thượng. Dùng kế đốt doanh trại để cổ vũ, khích lệ dũng khí, lòng quyết tâm của binh sĩ, kế này thoạt nhìn có vẻ mạo hiểm, nhưng trong cái mạo hiểm lại có cái hợp lý, nó có thể đem lại những kết quả ngoài mong muốn.
Cuối những năm 60, cùng với sự phát triển ngày càng nhiều của các ngành khoa học, các sản phẩm linh kiện nguyên đặc trưng các tiến bộ khoa học phát triển với tốc độ cao. Do tính chất là nhẹ, có giá trị cao, yêu cầu vận chuyển cao nên các sản phẩm này đòi hỏi một phương thức vận chuyển đặc thù: an toàn, nhanh. Lúc đó trường đại học Mỹ có một sinh viên tên là Smith đã bắt kịp yêu cầu thời đại. Trong bài luận văn của mình cậu trình bày tư tưởng xây dựng hệ thống vận chuyển bưu phẩm thâu đêm trên toàn nước Mỹ. Nhưng tư tưởng này bị các vị giáo sư cho là không thực tế và xếp loại C. Nhưng cậu sinh viên này là người dám mạo hiểm và cho rằng tư tưởng của mình không có gì là không tưởng. Năm 1969, sau khi hoàn thành quân dịch cậu trở về quê và bắt tay thực hiện ý tưởng thời sinh viên của mình, cùng mấy người bạn thân góp vốn 8.000 vạn đô ra thành lập công ty vận chuyển nhanh. Năm năm sau công ty này đã nổi tiếng toàn liên bang, có 14 chiếc phi cơ lập thành đội vận chuyển hàng không xuyên suốt 25 thành phố. Công việc chính của công ty là: 11 giờ đêm hàng tới thậm chí có lúc đến 1 giờ sáng, các máy bay ở mọi nơi trên nước Mỹ tập trung về thành phố trung tâm của Mỹ, bốc dỡ bưu kiện, cho người đi phân phát, sau đó lại nhanh chóng xếp những bưu kiện mới lên máy bay để bay đi các nơi khác. Sau khi đến các điểm địa phương dùng ôtô phân phát các bưu kiện này đến tay người khách hàng. Tất cả công việc kết thúc trước buổi trưa và được giám sát, chỉ đạo bằng hệ thống máy tính hiện đại.
Vạn sự khởi đầu nan, đây là việc mà trước đây chưa ai làm, những gian khổ ban đầu quả là khó tưởng tượng hết. Cái khó nhất là khách hàng có hạn, vận chuyển thì chi phí cao, cho nên bị lỗ. Nhưng Smith là người không sợ thất bại, hay mạo hiểm, cậu liền nghĩ cách mở rộng mặt hàng, tăng thêm chủng loại văn kiện. Từ đó khối lượng khách hàng tăng nhanh, chuyển lỗ thành lãi.
Khi một sự vật mới hình thành và được nhiều người hoan nghênh thì sự phát triển của nó là tất yếu. Ngày nay, nghiệp vụ vận chuyển nhanh liên bang của công ty ngày một lớn. Bình quân mỗi ngày vận chuyển 1.000.000 gói hàng, văn kiện. Lúc đầu chỉ có 14 máy bay, nay tăng lên 280 chiếc, và đội ngũ nhân viên là 570.000 người.
Nếu như lúc đầu Smith không mạo hiểm, sợ khó khăn thì loại hình vận chuyển nhanh này khó mà phát triển đến ngày nay. Có thể thấy, đối với bất kỳ việc gì, biết khích lệ bản thân, cổ động nhân viên, dũng cảm làm, không sợ mạo hiểm đều là những điều kiện tiên quyết dẫn đến thành công.
 
Chương 87
Mạnh Mẽ Vang Dội, Hành Động Trước Để Kiềm Chế Đối Phương


Thời Hoán Hoàn Đế, hoạn quan Trương Nhượng thế lực cực lớn, em trai là Trương Sóc làm huyện lệnh Dã Vương, ỷ thế anh trai, lộng hành bạo ngược, không có tính người, thậm chí sát hại cả phụ nữ có thai.
Thế nhưng hắn lại sợ một người, đó là Hiệu úy Lý Ưng. Lý Ưng quản lý vùng gần kinh thành, Trương Sóc cũng nằm trong địa phận do ông quản hạt. Quả nhiên những việc nghịch đạo, vô lương của Trương Sóc bị cáo đến tai Lý Ưng. Trương Sóc sợ quá vội đến trốn ở nhà anh trai. Lý Ưng đem theo quân đến bắt Trương Sóc áp giải về phủ, sau khi luận tội tuyên án tội chết và cho thi hành án. Việc này đối với Trương Nhượng như là: đánh chó dọa chủ, nên ông ta tìm cách tâu với nhà vua, xin trị tội Lý Ưng. Lý Ưng bị triệu vào cung, Hoàn Đế quát: "Tại sao xử chém Trương Sóc mà không tấu thưa". Lý Ưng bình tĩnh đáp: "Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Vệ Thành Công bị bắt đưa về kinh thành, quyển "Xuân Thu” do chính Khổng Tử viết có xác nhận chuyện này, sách "Lễ Ký” cũng nhắc đến công tộc phạm tội, lại còn bình luận thêm có thể khoan hồng nhưng quan chủ quản chấp pháp không nghe. Ngày trước Khổng Tử làm quan nước Lỗ, làm việc trong 7 ngày đã cho giết Thiếu Chính Mào". Lý Ưng sở dĩ phải viện đến kinh điển Nho gia và điển tích là vì thời bấy giờ tư pháp quan thường lấy các loại sách đó làm tiêu chuẩn để định tội. Thấy hoàng đế không có vẻ phản đối, Lý Ưng liền tiếp: "Thần làm việc 10 ngày mới định xong tội, tự cảm thấy chậm trễ, không ngờ lại bị khép vào tội làm quá nhanh. Thần biết tội của mình ở đâu, biết không tránh được cái chết, nhưng xin hoàng thượng cho thần 5 ngày để trừ khử nốt bọn đầu sỏ gây tội ác, sau đó thần sẽ xin chịu tội, đây là nguyện vọng lớn nhất của thần, mong bệ hạ soi xét".
Mặc dù biết Trương Nhượng tâu lời xúc xiểm, nhưng Lý Ưng không sợ hãi, trước khi chết còn xin được đi trừ khử bọn gây tội ác. Thái độ đó làm hoàng đế cũng không biết trách cứ vào đâu nên đành tha cho, Lý Ưng trước khi đi còn quay lại nói với Trương Nhượng: "Đây là quả báo của em trai ông, xử như thế có gì là quá đâu?"
Từ đó hoạn quan to, nhỏ, đều sợ hãi, đến cả ngày lễ cũng không dám ra khỏi cửa, hoàng đế hỏi nguyên do thì bọn chúng nước mắt lã chã đáp: "Sợ Hiệu úy". Đương nhiên, Lý Ưng rốt cuộc vẫn bị bọn hoạn quan hãm hại. Nhưng, từ việc này có thể thấy rằng, Lý ưng một mặt chí công vô tư, một mặt dùng lời lẽ hợp đạo lý biện minh, khiến cho hoàng đế và hoạn quan không thể bắt bẻ được, có như vậy mới thoát được họa. Cách dùng lời lẽ giảng giải đến chân tơ, kẽ tóc, không để sơ hở cho đối phương phản bác, cũng được gọi là trí mưu. Đương nhiên loại mưu này phải kết hợp với lòng dũng cảm cao độ, là mưu trí hành động trước để kiềm chế đối phương.
Ngày nay, thời gian là tiền bạc, hiệu suất là sinh mệnh. Không có một công ty, xí nghiệp nào mà lại không chú trọng tới hai mặt này. Cái quý giá của họ là dám đi trước thiên hạ. Đối với thời gian, họ luôn có tư tưởng chạy đua và những dự kiến trước rủi ro có thể gặp. Nhưng họ tuyệt nhiên không sợ mà luôn hành động trước để kiềm chế nó, đi trước thời gian, đi trước người khác.
Chủ nhiệm bộ phận khai thác sản phẩm của công ty Kpali, Mỹ là một người như vậy. Có lần ông tuyên bố, công ty trong vòng 12 tháng phải cho ra đời 6 loại sản phẩm mới. Nhiều người cho rằng điều này là không thể. Thế mà khi sắp hết thời hạn 12 tháng, 6 loại sản phẩm mới này đã ra đời. Có người nói rằng, nếu không tận dụng thời gian thì thậm chí 5 năm cũng chẳng làm được nhiều như vậy.
Còn có một lần, phó giám đốc công ty nghe được tin đối thủ của công ty đang nghiên cứu chế tạo một loạt máy quay cỡ nhỏ 8mm. Ông lập tức đi tìm kỹ sư của công ty nói: "Đối thủ của chúng ta nghe nói là đã có loại máy mới rồi". Người kỹ sư này vội vã vào phòng nghiên cứu, không ăn, không ngủ và sản phẩm mà anh cho ra đời sau 24 giờ là một phương pháp hoàn toàn mới có thể dùng để sản xuất máy quay hiện đại gấp nhiều lần của đối thủ.
Cũng có một trường hợp tương tự như vậy ở Ý. Vào tháng 12 năm 1978 hãng hàng không của Ý có chiếc máy bay chở khách DC bị rơi vỡ tan ở Địa Trung Hải. Giám đốc công ty vội gọi điện cho giám đốc hãng Boeing đưa ra yêu cầu đặc biệt: "Có thể nhanh chóng cung cấp một chiếc Boing chở khách 722 không?". Theo thông lệ để giải quyết một vụ mua bán phải mất 2 năm. Nhưng hãng Boeing đã điều chỉnh lại kế hoạch cho phù hợp với tình huống đặc biệt, giải quyết mọi thủ tục bán máy bay cho Ý trong vòng một tháng. Phía Ý rất cảm động, họ hủy bỏ hợp đồng đặt hàng với các đối tác khác mà chuyển hướng sang mua 9 chiếc máy bay chở khách Boeing cỡ lớn 747, giá cả đạt tới 0,575 tỉ đô la.
Hành động mạnh mẽ, nhanh chóng, sách lược này luôn giúp cho các công ty giành được uy thế, thu về lợi nhuận. Mỗi công ty, xí nghiệp cũng nên có tác phong và thói quen này.
 
Chương 88
Những Chấn Động Do Tuyên Truyền Có Hiệu Quả


Công nguyên 184 tại Trung Quốc nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của Hoàng Cầm. Đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nông dân có quy mô lớn và trình độ tổ chức cao như vậy trong lịch sử Trung Quốc. Công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa bị bại lộ do đó phải tiến hành trước so với kế hoạch. Tuy vậy cuộc khởi nghĩa vẫn giành được thắng lợi. Có được kỳ tích này phải kể đến công lao của nhà lãnh đạo Trương Giác. Ông đã dùng tín ngưỡng tôn giáo, chuẩn bị kỹ lưỡng, gian khổ trong một thời gian dài, nếu không làm sao tổ chức khởi nghĩa của ông giành được thắng lợi.
Trương Giác là người truyền bá cho đạo thái bình. Trong luận thuyết của đạo này có thể thấy rõ sự nhấn mạnh tư tưởng bình đẳng. Ví dụ, ông ví bọn phú hộ, cường hào với "loài chuột trong kho thóc, độc chiếm lương thực" không chịu phân phát, cứu giúp người nghèo đói. Ông chỉ ra rằng đối với bọn chúng chỉ có cách là dấy binh đến phá tan cửa kho thì mới có được thóc cho dân. Can đảm hơn nữa ông còn cho rằng kho tàng, quốc khố không phải là của nhà vua, hay triều đình mà là của muôn dân, trăm họ. Những lời tuyên truyền này có tác dụng to lớn khích lệ tinh thần sục sôi đấu tranh của nông dân. Được tôn là "đại hiền lương sư”, Trương Giác một mặt chữa bệnh cứu người, một mặt dùng thuyết lý đạo thái bình và một số tôn giáo khác để giác ngộ quần chúng, xây dựng lực lượng khởi nghĩa. Trải qua hơn 10 năm gian khổ, tận tâm, tín đồ của ông đã lên tới mấy trăm ngàn người, phân bố ở khắp nơi, bản thân ông được mọi người tôn sùng, ngưỡng mộ. Sau khi lực lượng đã đông đảo, ông liền tổ chức các đơn vị quân, gọi là các "phương”. "Phương” to có khoảng hơn vạn người, "phương" nhỏ có khoảng 6.000 đến 7.000 người, mỗi "phương” đều có người chỉ huy, tổng cộng có 36 "phương”. Người chỉ huy có nhiệm vụ truyền bá đạo thái bình, giữ yên nhân tâm binh sĩ và đưa ra các mật khẩu liên lạc "thương thiên đã chết, hoàng thiên đương vị tuổi tại can chi, thiên hạ đại cát". Trong đó, "thương thiên" ngầm chỉ giai cấp thống trị đương thời, "hoàng thiên" là chỉ lực lượng tín đồ đạo thái bình do Trương Giác đứng đầu (các tín đồ thường lấy khăn vàng quấn quanh đầu), "can chi" là chỉ năm 180, ngu ý rằng năm đó sẽ có điềm lành xảy ra cho cả thiên hạ. Ban đầu, cuộc khởi nghĩa dự định sẽ bùng nổ vào ngày 5 tháng 3 năm 180, sau này có kẻ mật báo làm lộ kế hoạch, nên cuộc khởi nghĩa diễn ra trước dự định hai tháng. Tuy rằng cuộc khởi nghĩa này cuối cùng cũng bị triều đình trấn áp, nhưng nó đã là một tia chớp giáng xuống triều đại nhà Hán đen tối và ghi một nốt sạn trong lịch sử.
Điều bổ ích rút ra từ cuộc khởi nghĩa này cho thương trường ngày nay là, khi muốn thực hiện một sự vụ, hay kế hoạch nào đó, khâu then chốt là phái biết lựa chọn phương pháp tổ chức tuyên truyền thật chu đáo, kỹ lưỡng. Bởi lẽ, công việc tuyên truyền quảng cáo chính là chiếc cầu dẫn đến thành công của bất kỳ công ty, xí nghiệp nào.
Akega nhà thiết kế quảng cáo cho xe hơi của hãng xe Ford. Để đạt được mục tiêu thu hút khách hàng gây một cơn sốt xe Horse trên thị trường, ông đã tiến hành một loạt các bước quảng cáo như sau:
Bước thứ nhất, ông tổ chức một cuộc đua xe cỡ lớn ở trung tâm thành phố, mời tất cả các chủ báo, tạp chí tới tham dự. Cho bọn họ mỗi người mượn một xe Horse và tiến hành đua. Kẻ thắng cuộc sẽ được một phần thưởng có giá trị. Đồng thời mời hơn 100 phóng viên tới sân đua để đưa tin, quay phim, chụp ảnh.
Bước thứ hai: ngay trước khi đưa xe Horse ra thị trường một hôm, ông cho đăng quảng cáo trên khắp các trang nhất của hơn 2.600 tờ báo. Hình quảng cáo là một chiếc xe Horse màu trắng, đang phóng như bay và hàng chữ lớn: "Thật không ngờ", dưới là hàng chữ nhỏ: "giá bán 2.368 đô la".
Cách quảng cáo này thật thú vị, nó vừa giới thiệu được với người tiêu dùng hình dáng, màu sắc, lại cả chất lượng, giá cả của xe một cách tự nhiên, hấp dẫn.
Bước thứ ba: Sau khi xe Horse được đưa ra tiêu thụ, ông cho chiếu một đoạn phim quảng cáo ngắn trên tivi. Nội dung đoạn phim miêu tả một chàng thanh niên mơ ước trở thành một tay đua xe hoặc một phi công phản lực. Và anh ta bắt đầu mơ ước của mình bằng chiếc Horse. Đoạn phim giàu ấn tượng này là dành cho những khách hàng không có thói quen đọc báo.
Bước thứ tư. Tại những bãi đỗ xe, ông cho dựng những tấm áp phích quảng cáo cỡ lớn. Mục đích là nhằm vào các đối tượng hay lái xe đi du ngoạn, kích thích ý định thay xe của họ.
Bước thứ năm: Tại 15 phi trường lớn nhất nước Mỹ và 200 nhà nghỉ, khách sạn cỡ lớn ông cho tổ chức triển lãm xe Horse với mục đích kích thích nhu cầu mua xe và thu hút con mắt khách ngoại quốc.
Bước thứ 6: Phát quà quảng cáo và tờ bướm giới thiệu tính năng của xe và các dịch vụ sau mua xe cho hơn triệu người đang sử dụng xe con. Đồng thời bày tỏ thái độ tận tình chu đáo đối với khách hàng của công ty.
Hiệu quả của một loạt các biện pháp tuyên truyền quảng cáo trên là công ty đã có 4 vạn khách đến đặt hàng trong ngày đầu tiên, vượt xa con số dự tính là 7.500 người. Về sau con số này tăng lên 20 vạn. Nhà thiết kế quảng cáo Akega nhờ đó mà danh nổi như cồn, được tôn là bậc kỳ tài. Và chẳng bao lâu sao ông được bầu làm tổng giám đốc công ty xe hơi Ford.
 
Chương 89
Trực Giác Phi Phàm


Cuối thời Đông Hán, có một học giả nổi tiếng tên là Thái Ung. Một lần ông tình cờ thấy có một người đốt một tấm gỗ trấu để nấu cơm. Từ trong tiếng lửa cháy phát ra một thứ âm thanh tuyệt hảo. Thế là ông xin mua lại miếng gỗ ấy đem về chế tác thành một cây đàn. Quả nhiên khi gảy, tiếng đàn nghe thật du dương, phi phàm. Chỉ có điều là trên đàn còn lưu lại vết cháy. Người đời vì thế gọi cây đàn là "đàn cháy đuôi".
Đôi tai thẩm âm của Thái Ung thật đặc biệt, có một không hai. Một lần hàng xóm mở tiệc rượu mời ông sang. Khi tiệc đã vào cuộc thì ông mới tới. Khách khứa đã uống ngà say, có một vị khách ngồi sau bức bình phong gảy đàn. Thái Ung lặng lẽ đến gần lắng nghe, càng nghe càng thấy dở, ông buột miệng: "Làm sao mà trong tiếng đàn lại ẩn chứa sát khí", thế là ông lập tức rời buổi tiệc về nhà. Chủ nhân thấy vậy vội sai đầy tớ đi hỏi nguyên do, người đầy tớ này cũng không hỏi rõ được đành trả lời: "Thái Ung vừa tới cổng đã vội quay về rồi". Ở trong vùng, Thái Ung là người có uy tín, nổi tiếng, việc ông bỏ về khiến cho chủ nhà thấy bẽ mặt. Thế là ông ta vội đuổi theo hỏi cho bằng được nguyên cớ. Lúc đó Thái Ung mới kể lại chuyện tiếng đàn có sát khí. Mọi người liền hỏi người khách đánh đàn, anh ta bèn kể lại, thì ra trong lúc đánh đàn anh trông thấy một con bọ ngựa đang đuổi theo một con ve, cơ hồ như sắp nuốt chửng con ve, mải theo dõi nên anh ta không biết tiếng đàn của mình cũng bị thay đổi theo. Mọi người nghe xong câu chuyện càng thán phục trực giác và đôi tai tài tình của Thái Ung. Cái tài này nhất định là phải được rèn luyện trong một thời gian dài và đương nhiên cũng có một phần do thiên phú. Trên thương trường ngày nay, trực giác, dự đoán cũng được đánh giá có vai trò quan trọng, có được trực giác chính xác, nhạy bén có thể từ việc nhỏ mà suy ra được việc lớn.
Thạc sĩ Hamo là một bậc kỳ tài như vậy. Nhờ trực giác mà nhiều lần ông phán đoán được các tin tức giúp cho việc kinh doanh thành công. Không lâu sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, quân đội Mỹ chấm dứt ký hợp đồng thuốc tân dược với chính phủ. Nhiều nhà kinh doanh thấy vậy cho rằng thị trường thuốc cung đã vượt cầu nên ra sức tinh giảm các dược sĩ và các nhà nghiên cứu hóa chất. Nhưng Hamo thì ngược lại, ông tuyển dụng thêm các dược sĩ, các nhà hóa chất, đẩy mạnh tích lũy nguyên liệu sản xuất. Bởi theo dự đoán của ông, việc bào chế thuốc bị giảm đi thì giá thuốc nhất định sẽ phải tăng. Quả nhiên, sau đó ít lâu thị trường lên cơn sốt thuốc tân dược.
Khi ở thị trường Busewi nước Nga, có lần ông vào một hàng tạp hóa mua một chiếc bút chì. Người bán hàng đưa cho ông một chiếc bút chì Đức và nói giá 0,26 đô la. ông kinh ngạc vì quá đắt chiếc bút này ở Mỹ chỉ có 0,03 đô la. Bằng cảm giác nhạy bén ông nhận ra thị trường Nga rất hiếm sản phẩm này, thế là ông quyết tâm mở một nhà máy sản xuất bút chì Đức tại Nga. Chẳng bao lâu sau ông xin được giấy phép, nhưng vấn đề khó khăn ở chỗ đối với lĩnh vực này ông hoàn toàn không thạo.
Để giải quyết khó khăn ông bèn đến nước Đức thăm dò công nghệ sản xuất. Thế nhưng công ty sản xuất bút chì Đức đang ở ngôi vị lũng đoạn nên giữ bí mật công nghệ sản xuất. sau một thời gian thăm dò ông biết được công ty có một tay kỹ thuật viên rất giỏi chuyên môn nhưng đang bị đả kích, bài trừ vì phạm kỷ luật. Ông bèn mời kỹ thuật viên này cùng ông tới Nga với mức lương hàng năm là 1 vạn đô la, cao hơn nhiều lần mức lương 200 đô la một tháng mà công ty Đức trả cho anh ta.
Sau đó ông về Mỹ tuyển chọn những kỹ thuật viên có tài trong nghề sản xuất bút chì sang Nga. Năm 1926 nhà máy của ông cho ra đời 0,1 tỉ chiếc bút chì, 9.500 vạn chiếc bút bi. Sản lượng này không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị trường Nga mà còn xuất sang hơn 10 nước khác như: Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc v.v...
Trong thời gian ở nước Nga, ông và em trai của mình thường đi la cà dạo phố, xem các cửa hiệu bán đồ cũ. Một lần ông phát hiện ra trong cửa hiệu có bán một chiếc đĩa sứ cổ rất đẹp mà giá chỉ có vài rúp. ông liền mua ngay, thực chất đó chính là đồ vật của Nga hoàng. Sau đó ông say mê đi lùng mua các loại đồ cổ này, vì ít người chú ý đến giá trị của nó nên ông mua được rất nhiều mà giá thì rẻ. Chỗ ông ở dần biến thành một viện bảo tàng. Nhiều người đến xem không giấu nổi sự ngạc nhiên thán phục. Sau đó được một tay chơi đồ cổ người Mỹ gợi ý ông liền xuất lô hàng này sang Mỹ với giá 45% thuế xuất khẩu.
Lúc này ở Mỹ nền kinh tế bước vào thời kỳ suy yếu (những năm 31) để giải quyết số đồ cổ của mình ông không làm theo cách truyền thống là gửi vào các bảo tàng mỹ thuật mà ông tự tay viết thư gửi cho các ông chủ cửa hàng lớn, nhờ họ bán hộ những đồ cổ quý giá này với khoản hoa hồng là 40%. Nhờ biện pháp này mà ông vượt qua thời kỳ kinh tế suy yếu một cách khá dễ dàng.
Trực giác thần kỳ đã mang đến cho Hamo con mắt nhìn đời tinh anh, thông tuệ, giúp ông thực hiện thắng lợi những vụ làm ăn kinh doanh mà người khác có mơ cũng không thấy
 
Chương 90
Sau Lưng Người Đàn Ông Thành Đạt


Lạc Dương Tử người Hà Nam có một người vợ nhan sắc rất tầm thường. Nàng họ gì, mọi người cũng chẳng quan tâm mà quen gọi là vợ Lạc Dương Tử.
Một lần Lạc Dương Tử đang đi trên đường thì thấy có vật gì trước mặt phát sáng lấp lánh. Anh lại gần xem thì hóa ra là một cục vàng to như chiếc bánh. Anh ta vội nhặt lấy đem về cho vợ xem. Nhà Lạc Dương Tử vốn bần hàn, bên vợ gia cảnh cũng khó khăn, thế nhưng vợ Lạc Dương Tử thấy vàng cũng chẳng vui mừng gì, trái lại còn buồn rầu. Nàng nói với chồng. "Ngày trước có một dòng suối tên là đạo tuyền, người có chí khí không uống nước của dòng suối này vì tên nó có ý là vụng trộm, thời Xuân Thu, Thúc Tề thà chết đói chứ không chịu ăn miếng ăn ô nhục. Số vàng này tuy không phải là vụng trộm hay ô nhục mà có, nhưng là thứ của người ta làm rơi. Chàng nhặt về nhà không sợ làm xấu đi phẩm hạnh của mình sao?" Lạc Dương Tử nghe vậy vô cùng xấu hổ, liền đem cục vàng bỏ lại chỗ cũ, còn mình thì bỏ đi xa tìm thầy cầu học.
Một năm sau Lạc Dương Tử trở về, vợ chàng quỳ xuống trước mặt hỏi nguyên do tại sao, anh ta đáp: "Đi xa lâu ngày nhớ nhà thì về". Vợ anh ta liềm cầm lấy con dao chạy đến bên khung cửi chỉ vào tám lụa đang dệt dở nói: "Con tằm ăn dâu nhả ra tơ, từng sợi, từng sợi tơ dệt lại với nhau mới thành một tấm, từng tấc, từng tấc kết lại với nhau mới thành một thước. Nếu bây giờ chặt ngang tấm lụa này đi thì chẳng phải công lao từ trước đều là bỏ đi sao. Chàng đi học cũng phải không ngừng tích lũy kiến thức, mỗi ngày học một chút ít kiến thức mới, sau này nó sẽ thành mỹ đức, tri thức của chàng. Nếu bỏ dở giữa chừng thì khác nào chặt ngang tấm lụa".
Lạc Dương Tử nghe lời vợ xúc động vô cùng. Anh ta quay trở lại chỗ thầy dạy, học liền 7 năm không trở về. Sau này Lạc Dương Tử có thi đỗ làm quan, hay có thành một nhà nho lỗi lạc hay không, sử sách không ghi và người đời cũng không biết. Chỉ có điều nếu anh ta không trở thành người nổi tiếng thì các sử gia có lẽ đã không chép tên vợ anh vào "liệt nữ truyền" của "hậu Hán thư".
Vợ Lạc Dương Tử thấy vàng không ham, khích lệ chồng chăm chỉ học tập. Lạc Dương Tử biết dẹp tự ái bản thân nghe lời vợ khuyên can. Cả hai đều đáng khen ngợi. Người ta thường nói: đằng sau một người đàn ông thành đạt, thường có một người phụ nữ hiền thục, thông tuệ. Người vợ là trường học cho người chồng. Đó là điều không phải chỉ có trong xã hội phong kiến xưa, mà ngày nay cũng gặp không ít.
Năm 1947, Liklaire đem vợ sang Mỹ định cư. ông bản thân ít học, những việc cơ bản nhất cũng không biết cách xử lý. Đến Mỹ, ông vào làm việc cho một công ty giao dịch chứng khoán, mỗi tuần được 50 đô la. Liklaire hạ quyết tâm, nhất định phải học thông thạo ngành này, ngoài việc chú ý theo dõi biến động giá trị hiện hành của cổ phiếu, ông còn tham khảo các sách nghiên cứu về cổ phiếu. Ông nghiên cứu những kinh nghiệm của các bậc tiền bối, và tự mình áp dụng vào thực tế. Sau 4 năm miệt mài ông đã trở thành nhà phân tích cổ phiếu của công ty. Ông âm thầm hạ quyết tâm phải có được một công ty trị giá 1 tỉ đô la trong vòng 10 năm. Ông tiết lộ kế hoạch của mình cho vợ biết. Vợ ông nói với ông một cách đầy hàm ý: "Em hy vọng rằng trước khi kiếm được 1 tỉ đô la thì anh hãy cứ làm công việc hiện nay của mình". Câu nói ấy có một chút không tin tưởng, nhưng nó có ý nghĩa khích lệ người chồng chú tâm vào làm tốt công việc mình đang làm để trở thành người tinh thông trong lĩnh vực chứng khoán.
Thực tiễn 10 năm sau chứng minh lời của Liklaire là không có tính khả thi. Ông vốn hy vọng rằng, dùng tài sản của công ty làm thế chấp để vay tiền đi mua một công ty khác, hoặc là lấy tài sản của công ty làm vốn cơ bản đi mua cổ phiếu của một công ty khác. Cách nghĩ thì có vẻ hợp lý, nhưng để làm được như vậy thì cơ hội cũng không nhiều.
Bỗng có một cơ may rất ngẫu nhiên, một công ty in chì lâm vào cảnh khó khăn, giá cổ phiếu của công ty liên tục hạ trong một thời gian dài. Qua tìm hiểu Liklaire được biết lý do là vì công ty không có tiền đồ phát triển, cổ đông giảm lòng tin. Thế là ông quyết định mua lại cổ phiếu của công ty với giá rẻ như cho không, trở thành chủ tịch hội đồng quản trị của công ty với số phiếu chiếm 53%. Sau đó ông đổi tên công ty là công ty Speed và tiến hành hợp tác liên doanh với một công ty in màu của Mỹ. Nhờ vậy giá cổ phiếu của công ty ông tăng nhanh, số lợi ông thu được tăng gấp mấy chục lần so với số vốn ông bỏ ra ban đầu. Sau đó ông lại quay sang liên doanh với công ty MMG ở New York, và vì biết tận dụng những cơ may, trong thời gian ngắn ông đã mua luôn công ty này. Với kế "kinh doanh liên hoàn" ông liên tiếp giành được những khoán lợi lớn. Các cổ đông của công ty MMG đa phần là các công ty liên doanh. Nhờ tinh thông ngành chứng khoán ông dần dần nắm được phần lớn cổ phiếu của các công ty đó, trong đó có công ty BTL. Và liên tiếp sau đó bằng cách nắm phần nhiều cổ phiếu ông đã khống chế được hàng loạt các công ty như: công ty may mặc, công ty xe hơi, công ty vật liệu xây dựng, công ty giày, công ty cơ khí...
Và số vốn trong tay ông lúc này đã vượt xa con số 0,1 tỉ đô la. Nhìn lại con đường mà ông đi, thấy rằng lời vợ ông nói quả không sai. Nếu ông không phải là một nhà tinh thông, kỳ tài trong lĩnh vực chứng khoán thì làm sao có thể gặt hái được những thành công lớn như vậy.
 
Chương 91
Quan Sát Tinh Tường, Dự Kiến Vượt Thời Đại


Trịnh Thái là người nghĩa khí cương trực. Hậu kỳ Đông Hán, hoạn quan chuyên quyền nên rất nhiều thái úy, tư đồ, tư không, những người nắm giữ chức vụ hành chính cao nhất mời ông ra làm quan, ông đều từ chối. Mãi đến khi đại tướng quân Hà Tiến ra phò tá triều đình, ông mới ra làm thị lang thượng thư sau này là thị ngư sử với hy vọng Hà Tiến sẽ diệt được thế lực hoạn quan.
Thế nhưng để làm việc này, Hà Tiến lại dự định mượn tay của Đổng Trác. Trịnh Thái biết con người Đổng Trác bèn khuyên Hà Tiến thay đổi chủ trương: Đổng Trác cường bạo, tàn nhẫn, không có đạo nghĩa, hiện nay hắn đang có nhiều dã tâm, tham vọng. Nếu đem việc triều chính giao phó cho hắn thì chẳng khác nào mở đường cho chí vọng hung tàn ấy, việc này sẽ đem đại họa đến cho triều đình. Nếu muốn tiêu diệt hoạn quan thì quyết không mượn tay loại người này". Sau đó Trịnh Thái còn chỉ rõ cho Hà Tiến thấy những nguy hiểm, vạch ra những việc cần làm gấp rút để thay đổi tình hình.
Đáng tiếc là Hà Tiến không nghe, Trịnh Thái rất thất vọng đành từ quan ra đi, ông nói với mưu sĩ thân cận của mình: "Con người Hà công thật không dễ phò tá". Sự việc xảy ra sau này quả đúng như lời Trịnh Thái. Bằng con mắt tinh tường ông đã nhìn trước được kết cục của sự việc.
Bất luận là lĩnh vực chính trị, kinh tế, hay quân sự, sự đánh giá, dự kiến trước những điều sẽ xảy ra là rất quan trọng. Trên thương trường việc quan sát tinh tường đôi khi giúp các nhà kinh doanh đoán trước được những yêu cầu thị trường để kịp thời điều chỉnh sách lược của mình.
Hami là nhân viên thông tin của một công ty dệt ở Indonesia. Ông là một tay kinh doanh có con mắt tinh tường, độc đáo. Có lần, ông đi công tác miền Nam, ngồi trên thuyền ông nhìn thấy có một cô gái khóc rất thương tâm, ông bèn lên bờ hỏi nguyên do. Cô gái nói, anh trai cô ở Thụy Sĩ gửi về cho cô một chiếc áo ngủ mùa hè làm bằng sợi kim tuyến vàng. Chiếc áo này không biết ai sơ ý làm cháy một lỗ nhỏ, cô đã đi khắp nơi, thậm chí nhờ người ra nước ngoài mà vẫn không tìm mua được chiếc áo giống như vậy. Nghe xong câu chuyện, Hami liền lấy 40 đồng ra đưa cho cô gái làm tiền cược và nói: "Cô tạm thời cho tôi mượn chiếc áo này, ba tháng sau tôi sẽ tặng cô một chiếc như thế này nhưng lành lặn". Cô gái kia bèn đồng ý.
Hami lập tức lên bờ, dùng đường vận chuyển bằng hàng không nhanh nhất gửi chiếc áo về công ty và thông báo với công ty trong vòng ba tháng phải sản xuất ra loại áo giống như thế, và trong vòng 80 ngày công ty của ông đã cho ra đời 2.000 chiếc áo ngủ mùa hè dệt bằng sợi kim tuyến, vừa tung ra thị trường đã bán hết sạch. Còn cô gái nọ thì cũng được Hami gửi tặng một chiếc áo mới. Thông qua quảng cáo, nhiều người lúc đầu định ra nước ngoài mua loại áo này đã tìm đến với công ty. Một lần khác, Hami đến vùng sơn trang của Indonesia, tại đây ông thấy rất nhiều nông dân đang vội vã dùng phương pháp thủ công để dệt các túi hương dùng cho nhà chùa thờ Phật. ông vội dò hỏi thì được người dân cho biết: ở vùng này mỗi năm lại tổ chức một lần lễ hội nhà chùa với quy mô rất lớn. Lễ hội phải dùng một lượng lớn các túi hương. Già trẻ, trai, gái trong làng dù có thay nhau làm cũng chỉ đủ một phần nhỏ cho người dùng. Hami đi đến làng bên cạnh, cũng thấy dân ở đây đang vội vã dệt túi hương.
Ông lập tức báo tin này về công ty. Công ty vội tập trung lực lượng, dùng máy móc sản xuất một lượng lớn các túi hương. Không đầy bảy ngày cho ra đời 100.000 chiếc kiểu dáng tinh xảo giá rẻ. Sau khi tung ra thị trường chưa đầy 10 ngày số túi hương này đã bán hết.
Tin tức, thời gian là tiền bạc. Làm thế nào nắm được thông tin, đua với thời gian vẫn luôn là mơ ước làm đau đầu các thương nhân. Thực ra, trước mắt bạn có lẽ có rất nhiều tín hiệu thông tin, vấn đề là bạn có con mắt nhạy bén để tận dụng và khai thác nó hay không?
Những năm giữa của thập kỷ 60, sapiphu là một trong những đại phú gia Hương Cảng. Ông làm ăn rất phát đạt trong ngành điện ảnh. Trong tay ông có hàng loạt các biên kịch, đạo diễn đã từng dựng nhiều bộ phim nổi tiếng, đào tạo ra những minh tinh sáng giá.
Mặc dù đang trong sự nghiệp huy hoàng, ông vẫn từng bước chuyển trọng tâm sang ngành truyền hình. Lúc đó truyền hình là lĩnh vực mới phát triển, chính phủ Hương Cảng tổ chức mời thầu kinh doanh cho loại vô tuyến không cáp. Mọi người không mấy quan tâm, nhưng với con mắt nhạy bén Sapiphu đã biết trước được tương lai phát triển mạnh mẽ của ngành này và theo ông nó sẽ còn vượt xa ngành điện ảnh. Nhiều người không thể lý giải được điều này, nhưng Sapiphu thì thấy rất rõ và ông quyết định bỏ thầu. Kết quả là ông và người hợp tác đã trúng thầu và trở thành ông trùm của ngành truyền hình Hương Cảng.
Cùng với sự thay đổi của thời gian, mọi người ngày càng khâm phục tài dự đoán của Sapiphu, "Tuần báo Á châu” kỳ đầu tiên năm 1990 đã có một bài viết về ông: "Từ ngày nay, nhìn lại sự chuyển mục tiêu sang truyền hình của Sapiphu có thể thấy đó là việc làm sáng suốt. Thời kỳ cực thịnh kéo dài suốt sáu bảy mươi năm của ngành điện ảnh đã bắt đầu đi xuống ở những năm 80". Sự vật nào cũng vậy, khi phát triển đến thời khắc huy hoàng nhất thì cũng là lúc bắt đầu tàn lụi. Ngược lại khi nó đang khởi động những bước đầu tiên, chỉ cần có tiền đồ phát triển, thì nó nhất định sẽ bước đến chỗ cực thịnh.
Cái gọi là "quan sát tinh tường" phải có được bởi một năng lực phi phàm và một con mắt nhìn thấu suốt. Trịnh Thái, Hami, Sapiphu là những con người như vậy. Trên thương trường ngày nay, ai có con mắt như thế thì sẽ đi đến đích chiến thắng trước.
 
Chương Kết
Linh Hoạt ứng Phó Với Biến Cố, Mưu Sự Tất Thành


Cuối thời Đông Hán, sau khi Hà Tiến bị bọn hoạn quan sát hại, Đổng Trác vẫn tiến về Trung Nguyên theo lời triệu của Hà Tiến lúc còn sống, đem cả vùng Trung Nguyên làm rối loạn. Lúc đầu Trịnh Thái phản đối việc Đổng Trác vào kinh thành. Hiện nay Đổng Trác đã tiến quân vào, lại thêm việc đã qua nên cho qua, nên ông đành dựa vào tài ăn nói, biện luận của mình, cố gắng giảm đi các thiệt hại.
Đầu tiên, ông cùng với bọn thị trung Ngũ kinh khuyên Đổng Trác cắt cử Viên Thiệu làm thái thú Bột Hải. Viên Thiệu là người chủ mưu và cũng là lực lượng chính tổ chức chính biến, tiêu diệt hoạn quan. Ông rất không hài lòng với việc Đổng Trác kéo vào kinh thành. Để ông trấn giữ bên ngoài, có lợi cho sau này khi muốn dùng lực lượng của ông đánh Đổng Trác. Quả nhiên, không lâu sau, Viên Thiệu, Tào Tháo cùng khởi binh chinh phạt Đổng Trác. Thấy vậy, Đổng Trác cũng tập trung binh sĩ chuẩn bị lâm trận. Trịnh Thái không muốn Đổng Trác xuất binh bèn nói: "Việc chính trị coi trọng nhân đức, chứ không phải đông người". Đổng Trác không vui đáp: "Nếu như vậy thì quân đội không có tác dụng gì hay sao? Trịnh Thái bèn giảng giải cho Đổng Trác nghe, nói những lời dễ lọt tai như người nhân đức không coi trọng việc chinh phạt, căn cứ luận điểm của ông là "vùng sơn đông không đáng để xuất binh đi chinh phạt". Ông đưa ra 10 lý do để thuyết phục:
1. Lực lượng của đối phương không mạnh do đó nên xuất nhiều binh sĩ.
2. Không chỉ trong quốc gia hay biên ải danh tiếng của tướng quân rất vang dội, mọi người đều kính nể.
3. Bọn Viên Thiệu, Trương Dao đều không có tài cầm quân, không phải là đối thủ của tướng quân.
4. Vùng Sơn Đông không có mưu sĩ đại tài như Trương Lương, Trần Bình.
5. Dù cho có bọn mưu cao nhưng chưa chắc đã trở thành mưu sĩ cho bọn Viên Thiệu.
6. Tướng quân thống lĩnh vùng Quan Trung, tướng sĩ dũng mãnh, thiên hạ vô địch.
7. Vùng Quan Trung tập trung nhiều dân tộc thiểu số, bọn họ rất dũng mãnh khi lâm trận, có bọn họ giúp sức thì khác gì hổ thêm nanh.
8. Bộ hạ của tướng quân đều một lòng trung thành, trung dũng song toàn, chinh phạt kẻ thù dễ như trở bàn tay.
9. Tướng quân nắm đại quyền quân đội trong tay, lại có lòng nhân đức, nếu cất quân chinh phạt, kẻ nào dám đối kháng.
10 Nho sĩ vùng Sơn Đông cũng không về phe bọn chúng thì làm sao chúng giành được thắng lợi.
Đổng Trác nghe lời ngọt, rất vui mừng, lại cho Trịnh Thái làm tướng quân. Chỉ sau này khi có người nói với Đổng Trác rằng Trịnh Thái quá khôn ngoan, thì Đổng Trác mới thu lại binh quyền của ông, ông giữ chức nghị lang. Mặc dù vậy lời nói của Trịnh Thái vẫn có tác dụng ngăn được Đổng Trác cất quân đi chinh phạt Viên Thiệu.
Trong bối cánh phức tạp, Trịnh Thái làm được việc khó khăn ấy quả là không dễ dàng. Cái mưu kế linh hoạt ứng biến của ông trên thương trường ngày nay vẫn rất cần. Tuy nhiên không nhất thiết dựa vào tài ăn nói, mà là tất cả các biện pháp ứng phó linh hoạt có lợi cho công ty, xí nghiệp thì đều có thể dùng được.
Người đứng đầu công ty máy tính Apple của Mỹ là Stiwan. Stiwan từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ lớn lên nhờ sự nuôi dưỡng của bố mẹ nuôi. Mặc dù bố mẹ nuôi đối xử rất tốt nhưng cậu bé Stiwan tính nết bướng bỉnh, lười học, thích cô độc, mới nhỏ tuổi mà đã dính vào ma túy. Bố mẹ nuôi đưa cậu vào trại cai ma túy, sau đó cho cậu học tiếp lên đại học. Nhưng khó thay đổi bỏ học giữa chừng, đi lêu lổng khắp nơi. Sau đó nảy ra ý định du ngoạn phương đông, và cậu đã sang Indonesia ở một thời gian dài. Vào năm 21 tuổi, đầu óc cậu chợt thức tĩnh, cậu quyết định trở về lập nghiệp trên đất nước mình. Tuy học hành không xuất sắc nhưng cậu lại rất thông minh và đặc biệt có năng khiếu với môn tin học, máy tính. Trở về nước cậu tìm lại một người bạn thuở nhỏ và cùng nhau lập nên công ty thiết kế máy tính. Ngay sau đó công ty cho ra đời thị trường loại máy tính Apple 1 và Apple 2, lập tức được người tiêu dùng ưa thích, lượng tiêu thụ tăng nhanh. Chưa đầy 3 năm công ty đã thu được hàng triệu đô la tiền lãi và ở tuổi 25, Stiwan đã trở thành triệu phú, Công ty Apple được xếp vào hàng các công ty nổi tiếng. Stiwan là thiên tài trong lĩnh vực máy tính, nhưng lại không hiểu biết gì về mặt quản lý. Cậu thiếu kinh nghiệm quản lý kinh doanh, không xem xét những phản ứng của thị trường đối với sản phẩm, lại thích can thiệp vào công việc hành chính, kinh doanh, cậu thường áp đặt ý kiến của mình cho người khác, tính khí lại nóng nảy, không thích nghe ai góp ý vì thế làm cho công việc trong công ty rối bời, phức tạp, ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của công ty.
Nhưng bản thân Stiwan cũng ý thức được sở đoản của mình nên cậu quyết định mời giám đốc điều hành của hãng Pepsi đến quản lý công ty, người này tên là Skali. Lúc đó đang là thời điểm huy hoàng của hãng nước ngọt Pepsi, nên Skali chần chừ không muốn đi, Stiwan dùng phép khích tướng nói: "Chẳng nhẽ anh muốn con anh sau này làm đứa đi bán nước đường sao?" mới thuyết phục được Skali.
Sau khi đến công ty, Skali thực hiện một loạt các nghiên cứu, điều tra và phát hiện ra rằng tất cả các yếu kém trong khâu quản lý đều xuất phát từ Stiwan, nếu không nhanh chóng cách ly, khai trừ anh ta ra khỏi tầng lớp quản lý thì công ty Apple sẽ bị sức cạnh tranh của công ty IBM đè bẹp. Bằng biện pháp ứng biến linh hoạt ông cho họp hội đồng quản trị công ty tuyên bố không tuyển dụng Stiwan vào ban quản lý, chỉ để anh ta chuyên tâm vào thiết kế máy tính. Đây có thể là lần đầu tiên trên thương trường nước Mỹ người sáng lập ra công ty lại bị khai trừ ra khỏi tầng lớp lãnh đạo quản lý. Việc này đã trở thành sự kiện xôn xao dư luận Mỹ những năm 1985. Mặc dù có nhiều sức ép phản đối nhưng cuối cùng thì Skali vẫn thành công trong việc đưa Stiwan ra khỏi vị trí quản lí. Lúc đầu Stiwan thiết kế một loại linh kiện máy tính có tên là Gold nhưng không dung nạp vào các loại máy tính thông dụng được, lúc bấy giờ thông qua nghiên cứu yêu cầu thị trường anh cho cải tiến chút ít thành loại Gold II có thể lắp đặt, ứng dụng cho các loại máy, vì thế được người tiêu dùng mua với số lượng lớn.
Như vậy, sự thành công trong thể chế quản lý, sách lược kinh doanh cũng như các mặt cải cách của Skali đã giúp cho công ty Apple đứng vững. Vì sự chấn hưng công ty, Skali không ngại hy sinh chức vụ quản lý của Stiwan. Điều này thể hiện sự quyết đoán và tính linh hoạt cao độ trong ứng biến và xử lý tình huống của ông.
Hết