20/6/12

Mưu trí thời Tùy Đường - Phần II: Cười Cợt Mà Khói Lửa Mù Trời

Chương 12
Nắm rõ tình hình chờ cơ hội khởi binh


Những năm cuối của sự nghiệp nhà Tùy, các cuộc khởi nghĩa của nông dân và cuộc đảo chính của quan lại nổi lên như vũ bão, trên toàn quốc có hơn một trăm đạo quân vũ trang muốn tiêu diệt nhà Tùy. Năm 617, tháng 7, cha con Lý Uyên và Lý Thế Dân chớp thời cơ khởi binh ở Thái Nguyên. Tháng 8, đánh bại Tùy tướng là Tống Lão Sinh ở Hoắc Ấp, tháng 9, vượt sông Hoàng Hà và giành được Đồng Quan; tháng 10, tấn công vào kinh đô nhà Tùy. Lúc đó, để che mắt thiên hạ, cha con họ Lý lập người nhà Tùy là Đại vương Dương Hưu lên làm vua. Tháng 3 năm 618, Tùy Dạng Đế đi tuần ở Giang Đô không về kịp kinh đô và bị giết trong cuộc binh biến, đến tháng 5, thì Lý Uyên ép Dương Hưu nhường ngôi vị và chính thức giương cờ hiệu của Đại Đường.
Tháng 11 năm 618, dẹp yên Tiết Nhân Cảo, bình định Long Hữu; năm 620, đánh bại Tống Kim Cương, Lưu Vũ Chu, bình định Sơn Tây và đánh bại Thiểm Tiên, bình định Giang Nam, năm 621, đánh bại Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, bình định Hà Nam Hồ Bắc; năm 624, đánh bại Từ Viên Lang... rồi thống nhất toàn đất nước, xã hội bắt đầu đi vào một trật tự ổn định.
Bị kẹp giữa vô số khối tập đoàn vũ trang nhưng cha con Lý Uyên dễ dàng như người đầu bếp giỏi thái thịt đã kiến lập nhà Đường trong khoảng thời gian tính theo tháng, chỉ trong vài năm đã dẹp yên toàn quốc thật đáng gọi là cha con Lý Uyên dùng kế quả rất diệu kỳ
* * *
Vào giai đoạn cuối của thời kỳ nắm quyền, Tùy Dạng Đế Dương Quảng luôn luôn nghi ngờ có người muốn mưu phản để đoạt mất ngôi vị của mình. Chỉ vì tin vào những điều thấy trong giấc mơ và lời sấm mà ông ta luôn nghi ngờ đề phòng đối với những người họ Lý, đặc biệt là những người họ Lý mà tên khi viết ra lại có ba dấu chấm thủy, thậm chí còn "giết nhầm hơn bỏ sót", đã giết sạch cả nhà quan đại thần Lý Hồn vì một lý do không rõ ràng. Khi đó, Lý Uyên - một vị quan trong triều biết mình đã phạm vào điều kiêng kỵ của Dương Quảng nên một mặt dùng tiền mua chuộc người khác nói tốt về mình trước mặt vua, mặt khác giả bộ khờ khạo, tỏ vẻ mình là một kẻ ngu trung.
Năm Đại Nghiệp thứ 12 (năm 616), Dạng Đế ban chiếu lệnh cho Lý Uyên đi trấn giữ vùng Thái Nguyên, đồng thời sai võ sĩ Vương Uy và Cao Quân Nhã đi cùng để giúp việc nhưng thực chất là để theo dõi đề phòng Lý Uyên làm phản.
Thái Nguyên bấy giờ là cả một trọng trách quân sự của toàn bộ quốc gia vì nơi đây cất giữ một số lượng lớn vải vóc và lương thực có thể đủ dùng trong 10 năm. Lý Uyên sớm có dã tâm cướp ngôi nên rất đỗi vui mừng khi được giao trọng trách đối với Thái Nguyên. Lúc này, con trai thứ của Lý Uyên là Lý Thế Dân cùng với các mưu thần của ông ta đều khuyên rằng phải nhanh chóng hành động để khỏi lỡ mất cơ hội tốt. Lý Uyên vẫn trấn tĩnh không hề manh động, thậm chí còn lớn tiếng dọa sẽ bắt Lý Thế Dân đi báo quan vì tội nói năng "phản động”.
Lý Uyên là một chính trị gia lão luyện, mặc dù ông ta vẫn tỏ ra bình tĩnh như không nhưng thực chất trong lòng đã suy đi tính lại từ lâu. Ông ta hiểu rằng nếu khởi binh khi thời cơ chưa chín muồi thì chỉ có thể tìm tới con đường chết. Cách đây không lâu, cuộc khởi binh phản Tùy với qui mô lớn của các nhà quý tộc do Dương Huyền Cảm đứng đầu mặc dù gây tiếng vang lớn và có mười mấy vạn người tham gia nhưng cũng chẳng được mấy ngày đã bị đàn áp một cách thảm khốc. Các cuộc khởi nghĩa của quan lại, cường hào ở địa phương diễn ra không ít, nhưng do lực lượng không tập trung thống nhất nên cũng không đem lại kết quả gì. Quân khởi nghĩa là nông dân cũng nhiều nhưng hầu như chỉ mang tính "vào nhà cướp của", chiếm núi xưng vương chứ chưa đoàn kết lại với nhau.
Lý Uyên nhận thấy rằng lực lượng phản đối vương triều nhà Tùy vẫn chưa đủ lớn mạnh. Vậy còn sức trấn áp của triều đình thì thế nào? Nhà Tùy vừa mới trải qua hai cuộc đông chinh lớn, tổn thất vô cùng nặng nề, lực lượng bị suy giảm, lòng dân phẫn nộ. Tuy nhiên cơ chế thống trị của triều đình vẫn chưa hoàn toàn bị suy yếu, nhất là lực lượng vũ trang lớn mạnh về cơ bản vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Lực lượng quân đội của Tùy Dạng Đế thật sự vô cùng lớn, trong cuộc đông chinh lần thứ nhất có thể điều động hơn 113 vạn quân thì lần này ông ta muốn huy động đội quân khoảng 70-80 vạn người đâu có khó gì. Vậy thì tại sao nhà vua vẫn có thể ung dung trong khi có vô số quân phán loạn như thế? Lý Uyên trong lòng đã từng nghi hoặc như vậy, nhưng rồi ông ta cũng tìm ra ngay lý do: Xung quanh Tùy Dạng Đế là một đám nịnh hần lúc nào cũng báo chuyện tốt đẹp mà không bẩm tấu chuyện không hay. Mà bản thân Dương Quảng cũng là một hôn quân ưa nịnh không thích nghe tin xấu.
Nếu vậy thì liệu bây giờ khởi binh thì lẽ nào nhà vua cũng sẽ không hề hay biết? Không thể có chuyện đó. Lý Uyên thừa biết, các cuộc khởi nghĩa của quý tộc, cường hào địa phương lúc bấy giờ hầu hết là do những người có địa vị không cao lãnh đạo nên ảnh hưởng không lớn. Chuyện Lý Uyên khởi quân thì lại khác, gia thế nhà ông ta lớn, tiếng tăm lẫy lừng, trong tay nắm giữ đại quân, lại giữ trọng trách đối với Thái Nguyên thì làm gì có tên nịnh thần nào dám giấu giếm cuộc binh biến động trời này? Tùy Dạng Đế làm sao có thể để quân đội nhàn rỗi mà không truy dẹp đến cùng? Lý Uyên không dám đi lại vết xe đổ của Dương Huyền Cảm.
Mọi tình hình đều cho thấy nếu khởi binh quá sớm thì khả năng thành công cực kỳ nhỏ , đồng thời khả năng lặp lại thất bại của Dương Huyền Cảm cực kỳ lớn. Lý Uyên đời nào dám mạo hiểm như vậy! Vì vậy, mặc dù bên trong đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ lâu nhưng vẻ ngoài Lý Uyên vẫn giả bộ như một kẻ trung thần.
Thế nhưng đến tháng 5 năm Đại Nghiệp thứ 13 (năm 617), bỗng nhiên Lý Uyên đã đồng ý theo yêu cầu của Lý Thế Dân mà ngấm ngầm sát hại mật thám của Tùy Dạng Đế là Vương Uy và Cao Quân Nhã, ngay lập tức quảng chiêu binh mã, dốc sức chinh chiến đánh dẹp và đã liên tiếp hạ được Tây Hà, Hoắc ấp, Lâm Phần, Giáng Quận, Long Môn..., khi đó mới là đầu tháng 11. Rồi Trường An chẳng mấy chốc cũng bị hạ, chỉ trong vài năm toàn đất nước đã được dẹp yên, cơ nghiệp trăm năm của nhà Đường đã được đặt định.
Lý do gì khiến Lý Uyên lựa chọn thời điểm này để hành động? Trước đây ông ta đã suy nghĩ rằng nếu khởi binh sớm sẽ không được, nhưng đồng thời ông ta cũng hiểu rằng: khởi binh muộn cũng sẽ không thành công. Tháng 7 năm 616, Tùy Dạng Đế tự cảm thấy thiên hạ đang thái bình nên lại muốn đi tuần ở Giang Đô, toàn bộ đoàn tùy tùng gồm văn võ bá quan và quân lính có đến 20-30 vạn người. Như vậy số lượng quân Tùy ở những nơi chủ chốt như Quan Trung, Trung Nguyên, Hồ Bắc... đã bị giảm đi rất nhiều. Đây là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho quân khởi nghĩa ở khắp mọi nơi. Mấy trăm người tham gia khởi nghĩa dần dần hội tụ lại và phân thành ba cánh quân hùng mạnh: Quân Ngõa Cương do Địch Nhượng và Lý Mật lãnh đạo, nghĩa quân Hà Bắc do Đậu Kiến Đức đứng đầu và nghĩa quân Giang Hoài của Phụ Công Hựu. Thế là quân Tùy bị cô lập thành ba nơi riêng biệt, không thể liên lạc với bên ngoài và cũng không thể tự bảo vệ được. Do lực lượng quân khởi nghĩa quá mạnh nên Tùy Dạng Đế không muốn và cũng không thể quay trở về Trường An. Thế có nghĩa là bộ máy thống trị của vương triều nhà Tùy trên thực tế đã hoàn toàn sụp đổ. Trước sức mạnh của ba cánh quân khởi nghĩa với hàng chục vạn nghĩa binh, lại thêm một số các nghĩa quân vừa và nhỏ khác, quân của triều đình đành bó tay bất lực, vương triều Tùy bị diệt vong chỉ còn là vấn đề thời gian.
Nếu như chưa khởi binh thì rõ ràng bị muộn, Lý Uyên thầm nghĩ, mấy cánh quân tất sẽ mạnh dần lên theo thời gian, nếu không tranh thủ thời cơ tốt này mà phát triển lực lượng quân mình thì tương lai sẽ không đủ tư cách thống trị thiên hạ, hoặc dù cho có thể xưng bá một phương thì cục diện thay đổi không nhiều. Chưa kể ngoài thành Phổ Dương đâu đâu cũng là chiến trường, các nghĩa quân ở khắp nơi đều nhằm mục tiêu vào các quan lại của triều đình trước, nếu đến giờ mà vẫn chưa khởi binh thì đường đường một viên quan trấn giữ tinh Thái Nguyên rồi cũng sẽ chỉ là vật hi sinh vô nghĩa của triều đình nhà Tùy mà thôi.
Phải thật bình tĩnh chờ cơ hội chín muồi, đã hành động thì phải thật nhanh chóng. Nếu không nhanh sẽ vuột mất thời cơ. Lý Uyên biết im lặng khi cần phải im lặng, khi ra tay cần dốc toàn lực, thật là một người biết tranh thủ thời cơ, biết nắm bắt cơ hội. Nắm rõ tình hình chờ cơ hội khởi binh là một biện pháp linh hoạt nhất trong quân sự. Kinh doanh thương mại trên thực tế cũng vậy, hành động sớm hay muộn thì đều có thể dẫn đến nguy cơ thua lỗ sập tiệm, vì thế cũng cần phải nắm rõ tình hình chờ thời cơ đến mới được hành động.
Khi chiến tranh Nam Bắc ở nước Mỹ sắp kết thúc thì giá thịt lợn cũng lên cao đến cực điểm. Ông Philip Amore người sáng lập của công ty Amore biết rằng có một cơ hội kiếm lời lớn sắp đến, một khi chiến tranh đã kết thúc thì giá thịt lợn sẽ lập tức trượt dốc từ đỉnh điểm cao nhất xuống thấp nhất mà giá cả có biến động lớn thì đương nhiên sẽ là cơ hội tốt cho các thương nhân kiếm tiền. Nhưng khi nào sẽ ra tay? Quá sớm hay quá muộn thì chẳng những mất công toi mà có thể mất mạng sống như không.
Ông ta không động tĩnh gì, chỉ chăm chú theo dõi diễn biến cuộc chiến sự, chờ đợi thời cơ đến.
“Cục diện Nam quân thất bại đã định", Amore đã phán đoán chắc chắn như vậy sau khi đọc các bản tin mới nhất trên báo chí. Nhưng ông ta không biết cụ thể cánh quân phía Nam sẽ cầm cự được bao lâu nữa. Amore càng chú ý đọc báo hơn. Một hôm ông ta bị thu hút bởi mẩu tin vắn: Một cha cố gặp mấy đứa trẻ tại doanh trại Nam quân, chúng mang rất nhiều tiền và hỏi thăm chỗ nào bán bánh mì và sôcôla. Chúng kể rằng cha của chúng đều là lính dưới quyền tướng quân Luke, và rằng đã mấy ngày nay không được ăn bánh mì, phải ăn thịt ngựa chán lắm rồi. Amore quăng vội tờ báo, trong bụng vui như mở cờ và lập tức ký một hợp đồng mua bán với chợ miền Đông: ông ta sẽ bán ra một lô thịt lợn với giá thấp hơn hẳn so với thị trường với điều kiện sẽ giao hàng chậm vài hôm.
Ông ta tính rằng: Việc Nam quân thiếu hàng viện trợ thì ai ai cũng biết, nhưng đại bản doanh của tướng Luke đã đến mức phải giết ngựa để ăn thì chứng tỏ chiến tranh sẽ kết thúc chỉ trong nay mai.
Amore đã đoán đúng thời gian, và nắm bắt được cơ hội tốt nhất. Trong khi bên mua vẫn còn đang vui mừng khôn xiết vì mua được lô hàng với giá hời thì cục diện chiến tranh và thị trường đều có những thay đổi căn bản. Mấy hôm sau giá thịt lợn đã hạ xuống tới mức bình thường nhất, Amore mua vào rồi bán ra ngay luôn như lúc còn chiến tranh theo đúng hợp đồng đã ký và đã hốt bạc triệu một cách dễ dàng.
Điều này không có gì là khó hiểu hết, Amore mà hành động chậm một tí là không được mà sớm một chút cũng không xong.
 
Chương 13
Ký sinh trên thân cây lớn


Tháng 5 năm 617, Lý Uyên - quan trấn thủ tỉnh Thái Nguyên của triều Tùy, vẫn đang giấu tài chợt thấy thời cơ đã chín liền khởi binh phản Tùy không chút do dự.
Khi đó ở Đông, Tây bộ lạc Đột Quyết đều đang rất mạnh, Thái Nguyên lại là nơi quân Đột Quyết thường xuyên qua lại. Để giải quyết mối lo này, Lý Uyên đã đích thân viết một lá thư cho bộ lạc Đột Quyết để cầu hòa với một giọng điệu vô cùng khúm núm, đồng thời mang tặng lễ vật hậu hĩnh với hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ. Khả hãn của bộ lạc Đột Quyết là Thủy Tất trả lời rằng: Lý Uyên phải tự mình lập ngôi Thiên tử thì người Đột Quyết mới cho binh mã tới viện trợ.
Biết một bộ lạc hùng mạnh như Đột Quyết cũng mong muốn Lý Uyên trở thành Thiên tử, tất cả các thuộc hạ tướng sĩ kể các văn thần mưu sĩ đều hoan hô nhiệt liệt, ai nấy đều khuyên Lý Uyên cần nhanh chóng lên ngôi hoàng đế. Lý Uyên lúc đó cũng đang mơ đến ngôi vị hoàng đế nhưng ông ta lại im lặng một cách khó hiểu và suy nghĩ một cách đăm chiêu.
Phong trào khởi nghĩa nông dân lan tràn khắp cả nước hầu hết bọn họ đều nêu cao ngọn cờ chính trị nhằm lật đổ triều Tùy khiến cho bách tính nghèo khổ của hôn quân Tùy Dạng Đế nô nức tình nguyện tham gia, thanh thế của quân khởi nghĩa ngày càng mạnh. Lý Uyên đương nhiên cũng muốn lật đổ ngay nhà Tùy, nhưng ông ta nghĩ, ông ta vẫn chưa phải là người của quân khởi nghĩa nông dân, bởi vì thế lực mà ông ta đang dựa dẫm là tầng lớp quý tộc, quan lại hào cường mới nổi danh. Hai thế lực này hoàn toàn khác nhau. Tầng lớp quý tộc có một ý thức "trung quân" sâu sắc, họ chỉ phản đối một ông vua và chỉ mong muốn thay "bạo quân hôn quân" bằng một "minh chủ hiền quân” chứ tuyệt đối không hề muốn lật đổ cả một chế độ chính trị. Hiện giờ triều đình nhà Tùy vẫn chưa sụp hẳn, quyền lực trung ương hữu danh vô thực, mà các quý tộc quan lại ở địa phương vốn có tinh thần nhà binh, thực lực của họ rất mạnh. Quân vũ trang mà họ nắm giữ để bảo vệ địa vị cát cứ của mình không hề thua kém đội quân chính quy của triều đình, bất luận là so sánh về binh khí được trang bị hay sức chiến đấu. Trong khi đó, quân khởi nghĩa nông dân trong tay chỉ có cuốc, thuổng, lực lượng lại phân tán nên không thể hòa nhập với lực lượng quý tộc kia được.
Hơn nữa, từ sau cuộc trấn áp phong trào Dương Huyền Cảm diễn ra một cách nhanh chóng, quyết đoán và tàn nhẫn, Dương Quảng còn căm hận sự phản loạn của tầng lớp quý tộc. Nhà Tùy tuy rằng sắp sụp đổ nhưng suy cho cùng đây vẫn là sự tồn vong của một chế đổ chính quyền quốc gia cho nên nếu Tùy Dạng Đế tập trung lực lượng tiêu diệt Lý Uyên thì e rằng tới lúc đó có thêm mười Lý Uyên cũng khó tìm được con đường sống.
Sau nhiều lần suy đi tính lại, Lý Uyên đã bác bỏ lời đề nghị của những kẻ thuộc hạ mà không những không tự mình xưng đế trái lại còn giương cao lá cờ "Tuân Tùy", tôn Tùy Dạng Đế làm Thái Thượng hoàng, lập Đại vương Dương Hưu - cháu của Dương Quảng và cũng là một quan trấn giữ - lên làm tân hoàng đế, đồng thời thay đổi chính sách cai trị, thay đổi cờ hiệu. Như vậy, đối với quân Đột Quyết mà nói, thanh thế của Lý Uyên càng lớn, dám tự lập theo ý mình, quân Đột Quyết sẽ chấp nhận lời cầu hòa của Lý Uyên mà không tùy tiện đem quân sang quấy nhiễu nữa, đồng thời còn ủng hộ một cách có điều kiện. Mặt khác đối với chính quyền nhà Tùy mà nói, mặc dù cũng nghi ngờ Lý Uyên có ý mưu phản, song lại thấy giương cờ hiệu tuân Tùy, vả lại hiện giờ quân khởi nghĩa nông dân phản tùy đang ngày càng đông tới mức không thể đối phó được thì nhà Tùy còn hơi sức đâu mà lo cản đánh Lý Uyên? Chính vì thế Lý Uyên đã bố trí được một lớp phòng ngự mỏng, đồng thời còn tranh thủ cơ hội phát triển từng bước và có kế hoạch một đội quân vây quét mà tương lai ông ta có thể chủ động chỉ huy bất kỳ lúc nào.
Điều quan trọng hơn đó là lá cờ hiệu tuân Tùy của Lý Uyên đã thu hút được số đông đám quan lại và quý tộc vốn mang đậm tư tưởng "trung quân". Hơn nữa đối với đám người này mà nói, việc Lý Uyên lập Đại vương Dương Hưu lên làm vua sẽ dẫn tới sự thay đổi lớn về trật tự quan lại trong triều, đây chính là một cơ hội thăng quan phát tài hiếm có của họ, kẻ nào đứng về phe Lý Uyên thì kẻ đó càng có nhiều cơ hội tiến thân. Thế là bao nhiêu kẻ thi nhau ủng hộ cho Lý Uyên khiến cho vây cánh và thực lực của ông ta mạnh lên rất nhiều.
Tất nhiên, Lý Uyên tuân Tùy chỉ là kế quyền lực thích nghi, ông ta coi nhà Tùy như một cây đại thụ đang trong quá trình mục nát nhanh chóng, bỗng dưng lại có một cái mầm đang trồi lên khỏi mặt đất rồi khéo léo đâm rễ cầm vào thân cây ấy mà hút no nước và chất dinh dưỡng trong thân cây (được ví với bọn quan lại, quý tộc trong triều). Cái mầm non ấy lại nương nhờ cây lớn che chắn gió mưa, thậm chí còn làm cho cái cây to tưởng rằng nó là một bộ phận của thân thể mình và cứ ra sức bảo vệ (ví với việc trong khi quân của họ Lý đang giao chiến với quân khởi nghĩa khác thì triều đình chỉ lo đánh dẹp quân khởi nghĩa mà tin lầm vào đội quân của Lý Uyên). Từ đó mà Lý Uyên càng có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển lực lượng của mình. Đợi đến khi vật đổi sao dời, Lý Uyên chỉ việc dùng chân đá khúc gỗ mục là triều Tùy kia đi mà dựng nên vương triều nhà Đường và lại càng được lòng dân ủng hộ.
Mượn thân cây lớn để sống ký gửi, quân Đường nhờ cách đó mà phát triển mạnh lên, Lý Uyên dùng kế mới tuyệt làm sao! Trong kinh doanh thương mại, đối với những doanh nghiệp nhỏ bé, những loại mặt hàng còn chưa có tiếng trên thị trường tất cả còn đang bị yếu thế, nếu muốn phát triển một cách nhanh chóng há chẳng phải cũng nên dùng kế "sống ký gửi trên thân cây lớn" hay sao?
Cuối những năm 50, thị trường mỹ phẩm dành cho người da đen của Hoa Kỳ bị công ty mỹ phẩm Fohley chiếm lĩnh toàn bộ, một nhân viên tiêu thụ sản phẩm của công ty này tên là George Johnson đã tách ra khỏi công ty để kinh doanh một mình và sáng lập ra công ty mỹ phẩm dành cho người da đen, Johnson với số vốn chỉ vỏn vẹn có 500 đô la và ba nhân công.
Johnson thừa biết công ty mỹ phẩm Fohley kia quá lớn, sản phẩm của họ rất có danh tiếng và sẽ không thể đủ sức cạnh tranh được. Sau khi suy tính kỹ càng, Johnson quyết định áp dụng biện pháp "sống ký sinh" để phát triển công ty của mình, và loại mỹ phẩm của công ty Fohley chính là cái thân cây mà ông ta muốn mượn.
Johnson tập trung lực lượng để sản xuất ra một loại kem trang điểm rồi làm quảng cáo tuyên truyền rằng: "Sau khi bạn dùng sản phẩm của công ty Fohley hãy bôi thêm một lớp kem trang điểm Johnson bạn sẽ thấy hiệu quả thật bất ngờ".
Công ty Fohley thấy bên kia làm "nghĩa vụ tuyên truyền" thì lấy làm mừng thầm, không hề phản đối hay can thiệp gì cả. Một số đồng nghiệp của Johnson thì tỏ ra rất bất bình và chỉ trích ông ta đã thổi phồng cho công ty Fohley. Ông ta chỉ cười mà nói: "Vì họ có danh tiếng lớn, tôi chỉ có cách là phải làm như vậy. Cũng như bây giờ có rất ít người biết tên tôi là Johnson nhưng nếu tôi được đứng bên cạnh tổng thống Mỹ thì tự nhiên mọi nhà, mọi người điều biết đến tôi. Tôi tuyên truyền như vậy thứ nhất là để cho sản phẩm của chúng ta có thể xuất hiện cùng với loại mỹ phẩm đã có uy tín từ lâu, rõ ràng là tâng bốc cho công ty Fohley nhưng thực chất là lại mượn danh của họ để tồn tại, uy tín sản phẩm của công ty chúng ta sắp có thể sánh với sản phẩm của Fohley rồi. Thứ hai, và cũng quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta có thể lấy thị phần của họ làm thị phần của mình. Trong quảng cáo rõ ràng có mách bảo ngầm rằng các khách hàng sử dụng mỹ phẩm của Fohley đều phải đồng thời dùng sản phẩm của Johnson thì mới thể có được hiệu quả thần kỳ. Vì thế quảng cáo như vậy thực chất là đem cơ thể yếu ớt của chúng ta đến sống ký sinh trên cây to vững chắc và giàu chất dinh dưỡng của Fohley. Đây chính là một kế sách tốt để chúng ta có được cơ hội phát triển nhanh chóng".
Quả nhiên người tiêu dùng đã tiếp nhận sản phẩm của Johnson một cách rất tự nhiên, thị phần của công ty ngày một lớn. Thậm chí chỉ sau mấy năm đã loại bỏ được phần lớn sản phẩm của công ty Fohley ra khỏi thị trường mỹ phẩm. Về sau Johnson đã có thể đường hoàng độc chiếm thị trường mỹ phẩm dành cho người da đen của Mỹ.
Thủ thuật của Johnson dường như chính là bản sao thủ thuật của Lý Uyên vậy, không khác một chút nào!
 
Chương 14
Tạm thời nhượng bộ để được giúp đỡ


Năm Đại Nghiệp thứ 11 đời Tùy Dạng Đế, Lý Uyên nhậm chức quan đại sử yên dân ở vùng Sơn Tây, Hà Đông và phụng mệnh dẹp yên đạo tặc. Đối với bọn đạo khấu tầm thường như Vô Đoan Nhi hay Kính Bàn Đà... thì chỉ cần một cái phẩy tay mà không hề tổn hao công sức, nhưng đối với quân Đột Quyết ở phía bắc, vì chúng có kỵ binh tinh nhuệ giỏi cưỡi ngựa bắn cung thì lại khiến Lý Uyên rất đau đầu, đã nhiều lần giao chiến mà thắng thì ít, thua thì nhiều. Quân Đột Quyết rất ngang ngược, không biết sợ là gì nên Lý Uyên luôn coi chúng là kẻ thù không đội trời chung.
Năm 616, Lý Uyên được sắc phong làm quan trấn thủ ở Thái Nguyên, quân Đột Quyết lại đang dùng hàng vạn binh mã tấn công vào thành trì Thái Nguyên, Lý Uyên đã phải sai bộ tướng Vương Khang Đạt dẫn hơn ngàn quân ra nghênh chiến mà vẫn thất bại thảm hại. Về sau phải khéo léo dùng kế nghi binh mới đuổi lui được quân Đột Quyết. Đáng ghét hơn là bọn đạo khấu Lưu Vũ Chu bất thình lình tiến đánh cung Phần Dương do Lý Uyên quản (là một trong những cung Tùy Dạng Đế hay di giá tới), bọn chúng còn bắt phụ nữ trong cung để dâng tiến cho Đột Quyết. Người Đột Quyết liền phong cho Lưu Vũ Chu làm Định Dương Khả hãn. Ngoài ra còn có bọn Quách Tử Hòa, Tiết Cử được sự ủng hộ và bao che của Đột Quyết nên thi nhau khởi binh gây chuyện, Lý Uyên phòng ngự một cách yếu ớt và lúc nào cũng có thể bị Tùy Dạng Đế mượn cớ không hoàn thành nhiệm vụ để lấy đầu.
Ai cũng nghĩ Lý Uyên ôm mối thù khắc cốt ghi xương sẽ quyết một trận sống còn với Đột Quyết. Không thể ngờ rằng Lý Uyên lại cho mưu sĩ là Lưu Văn Tịnh làm sứ giả sang bên Đột Quyết để xin làm bề tôi, còn hứa đem gái đẹp và ngọc ngà châu báu sang để tặng cho Khả hãn Thủy Tất.
Đến con trai của Lý Uyên cũng cảm thấy bị sỉ nhục trước hành vi nhượng bộ khúm núm của ông ta. Lý Thế Dân sau khi đã được kế vị ngôi vua vẫn chưa thể nào quên nỗi nhục đó: “Quân Đột Quyết ngang ngược, Thái Thượng hoàng (chính là Lý Uyên)... xưng thần với chúng, trẫm chưa có lúc nào thôi đau lòng!".
Lý Uyên thì "mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh", ông ta có kế hoạch riêng của mình, khúm núm nhượng bộ tuy bộ dạng hơi khó coi một chút nhưng có thể nhẫn nhịn, có thể tồn tại mới trở thành đại trượng phu.
Thì ra Lý Uyên đã căn cứ tình hình chung mà dứt khoát quyết định khởi binh phản Tùy. Thái Nguyên là một trọng điểm quân sự nhưng vẫn chưa phải là nơi lý tưởng để xây dựng cơ đồ vì thế muốn khởi binh thành một phong trào lớn bắt buộc phải tiến về phía tây vào Quan Trung. Đã vào đến Quan Trung thì Thái Nguyên lại là căn cứ địa không thể mất của đạo quân Lý Đường. Vậy phải làm thế nào mới có thể vừa giữ được Thái Nguyên vừa tiến công về phía tây một cách thuận lợi?
Lúc bấy giờ binh tướng trong tay Lý Uyên không quá 3-4 vạn người, cho dù có dốc toàn bộ lực lượng để giữ Thái Nguyên, ứng phó sự gây chiến bất kỳ lúc nào của Đột Quyết, đồng thời lại phải truy dẹp bọn đạo khấu vốn được sự nâng đỡ của Đột Quyết thì cũng đã sức tàn lực kiệt. Chưa kể nếu tiến đánh Quan Trung thì hiển nhiên không thể giữ quân ở lại để trấn thủ Thái Nguyên. Vì vậy biện pháp duy nhất là phải áp dụng chính sách cầu hòa, để cho Đột Quyết "ngồi mát ăn bát vàng” . Cho nên Lý Uyên đã không đắn đo nhượng bộ tự xưng làm ngoại thần, đích thân viết bức thư tay rằng: "Muốn đại cử nghĩa binh nghênh tiếp chúa thượng, lại muốn xin hòa với quý quốc như thời Văn Đế vậy. Đại hãn mà chịu đem quân tới tiếp ứng giúp ta hành sự ở phía nam thì thật may cho bách tính thoát khỏi nạn binh đao. Nếu chấp nhận hòa thì có thể ngồi không mà hưởng châu báu, đó chính là số mệnh của đại hãn”. Lý Uyên thỏa thuận với Đột Quyết cùng định kinh sư, đất đai thuộc về Đường công còn gái đẹp và lụa là châu báu thì dâng cho Khả hãn.
Lùi một bước thấy biển rộng trời cao. Khả hãn Thủy Tất hám lợi quả nhiên đã hòa hảo với Lý Uyên. Trong khoảng thời gian khó khăn nhất của Lý Uyên là lúc từ Thái Nguyên tiến vào Trường An, ông ta chỉ để Lý Nguyên Cát - con trai thứ ba của mình với một số ít binh mã ở lại chốt giữ Thái Nguyên, lại từ chỗ đang bị Đột Quyết xâm chiếm nay bọn Lưu Vũ Chu (trước vốn ỷ thế Đột Quyết làm càn) cũng đã bớt gây chuyện đi nhiễu. Lý Nguyên Cát vì thế mà đã có thể liên tục chuyển người và lương thảo từ Thái Nguyên ra tiền tuyến. Cho đến năm 619, khi Lưu Vũ Chu đánh Phổ Dương thì Lý Uyên đã kịp thiết lập nên vương triều nhà Đường tại Quan Trung. Lúc này vua Đường không những đã có thể đứng vững ở Quan Trung với một căn cứ địa là một vùng lãnh thổ rộng lớn, mà lúc này Lưu Vũ Chu không còn là đối thủ của Lý Uyên nữa, con trai Lý Uyên là Lý Thế Dân vừa xuất mã, chẳng tốn nhiều công sức đã thu phục được Quan Trung.
Ngoài ra, vì Lý Uyên cam lòng nhượng bộ nên đã nhận được sự giúp đỡ không nhỏ của Đột Quyết. Thủy Tất Khả hãn tặng cho Lý Uyên không ít ngựa và quân lính, Lý Uyên cũng nhân cơ hội này mà mua được rất nhiều ngựa chiến. Điều này không chỉ đặt nền móng cho việc củng cố sức chiến đấu của các kỵ binh mà còn tự nhiên làm tăng thêm thế lực cho Lý Uyên rất nhiều do hàng ngũ quân lính của Lý Uyên có thêm nhiều kỵ binh Đột Quyết vốn rất dũng cảm và thiện chiến.
Hành vi khúm núm nhượng bộ của Lý Uyên đã khiến mọi người không ai buồn đếm xỉa đến. Nhưng đối với tình hình bấy giờ thì đó lại là một kế sách hữu hiệu giúp cho đội quân nhỏ bé của họ Lý có thể bảo vệ bình an cho căn cứ địa hậu phương đồng thời lại có thể tiến về phía tây đánh chiếm Quan Trung một cách thuận lợi. Nếu nhìn xa hơn một chút, Đột Quyết sau này lại chả phải cầu hòa xưng bề tôi với vua Đường, Thủy Tất Khả hãn có khi còn phải nhảy múa phục tùng theo sự sai bảo của Lý Uyên!
Từ đó cho thấy, tạm thời nhượng bộ để có thể nhận được sự trợ giúp của đối thủ rồi không ngừng phát triển sau đó lật ngược tình thế khiến đối thủ phải khúm núm nhượng bộ với mình, là một mưu kế rất hữu dụng. Trong cạnh tranh buôn bán, hiện tượng này không phải là hiếm.
Năm 1983, giám đốc điều hành kiêm giám đốc công ty ôtô General của Mỹ là Smith đã đưa ra một quyết sách quan trọng sau khi đã suy nghĩ kỹ càng: Tách một xưởng sản xuất ôtô của công ty tại thành phố Fimebu thuộc bang California ra để sát nhập với công ty Toyota của Nhật để sản xuất Ô tô con hiệu Toyota. Khi đó xe Toyota của Nhật với chất lượng cao giá rẻ đã có mặt tại châu Mỹ. Được sản xuất ôtô ngay trên nước Mỹ là điều mà công ty Toyota hằng mong muốn, vì thế phía Mỹ vừa đề nghị thì phía Nhật đã đưa vội công nhân và thiết bị sang Mỹ để thiết lập nhà máy rồi.
Người Mỹ từ lâu đã rất ghét hãng xe của Nhật sang xâm chiếm thị trường và tước mất vị trí độc quyền trong cả nước về ôtô của họ, thế mà Smith lại công nhiên mời công ty của Nhật sang để sản xuất ôtô, đây chẳng phải sự hạ mình khiến "nước nhục vì mất quyền" thì cũng là bước nhượng bộ "cõng rắn cắn gà nhà". Vì thế khắp nước Mỹ, nhất là giới ôtô ai ai cũng tỏ ý phản đối và khiển trách Smith.
Rốt cuộc thì đây là cõng rắn cắn gà nhà, sự nhượng bộ đơn thuần hay là sự nhẫn nhục có dụng ý? Smith có dự định và cách nghĩ riêng của ông ta. ông ta hiểu rõ rằng sở dĩ giới ôtô Mỹ bó tay bất lực trước sự tấn công của ôtô Nhật, một lý do rất quan trọng đó là Mỹ trước đây quá khinh địch. Khi ôtô Nhật mới bắt đầu xuất hiện tại châu Mỹ thì dường như tất cả các hãng ôtô Mỹ đều cho rằng ôtô Nhật chẳng qua chỉ là thứ đồ chơi của những kẻ mới vào nghề, là thứ hàng hóa rẻ tiền mà thôi. Họ chưa có nhận thức và thái độ đúng đắn đối với những đặc điểm như giá rẻ, tính năng tốt và ít hao nhiên liệu của xe Nhật. Đến khi xe Nhật ngày càng bán chạy ở thị trường Mỹ thì nước Mỹ cũng chỉ biết ngồi nhìn mà không tìm ra được biện pháp nào. Đến nay, xe Nhật về mọi phương diện đều chiếm ưu thế, không thừa nhận điều đó thì quá ư tự cao tự đại. Tranh thủ sự giúp đỡ về kỹ thuật của Nhật để tăng cường thực lực cạnh tranh của hãng xe mình mới là con đường đúng đắn duy nhất để lấy lại thể diện và lấy lại lợi nhuận.
Vì vậy việc Smith cho sát nhập với công ty Toyota của Nhật, bề ngoài như có vẻ cõng rắn cắn gà nhà nhưng thực tế lại là một bước tiến "mời thầy giáo đến nhà", có vẻ như là hạ mình khúm núm trước hãng xe Nhật nhưng thực chất là tìm hiểu kỹ thầy, học tập thầy để rồi sau đó trò sẽ giỏi hơn thầy mà qua mặt thầy một cách dễ dàng.
Đến nay thì bất kỳ nhà sản xuất nào cũng đều biết, muốn cạnh tranh với xe Nhật thì buộc phải hạ giá thành và nâng cao chất lượng xe như ôtô của Nhật vậy, chỉ có cách đồng thời thực hiện hai nguyên tắc đó mới có thể giành được sức cạnh tranh trên thị trường. Và đến đầu những năm 80, công ty xe ôtô General của Mỹ đã khéo léo đi theo con đường này và có thể cạnh tranh được với xe Nhật, cuối cùng đã đứng vững được trên thị trường ôtô nước Mỹ và dần dần loại bỏ được xe ôtô Nhật.
 
Chương 15
Lấy lòng đối phương biến thù thành bạn


Sau khi Lý Uyên khởi binh ở Thái Nguyên thì chọn Quan Trung làm nơi phát triển lâu dài. Vì thế Lý Uyên dẫn đội quân lấy tên "Tiến thẳng Trường An lập đại vương" tiến về phía tây.
Lý Uyên tiến về Quan Trung ở phía tây sẽ phải đối mặt với ba điều khó khăn nguy hiểm. Thứ nhất là đại vương Trường An là Dương Hựu vẫn không tin Lý Uyên thật lòng “tuân Tùy" nên đã phái các tinh binh chặn đánh. Thứ hai, đội quân mạnh nhất Ngõa Cương sẽ truy sát giữa đường bất kỳ lúc nào. Thứ ba, quân Ngõa Cương vẫn có một bộ phận chủ lực dồn về Phổ Dương và luôn đe dọa tới căn cứ địa hậu phương của Lý Uyên.
Trong ba mối nguy hiểm trên, việc chặn đánh của quân Tùy đã trở thành hiện thực nhưng số lượng quân đội có hạn, căn cứ vào mọi dấu vết mà phán đoán thì nhà Tùy vẫn chưa có dấu hiệu tăng cường lực lượng để nghênh chiến. Nhưng hai mối nguy hiểm sau lại vô cùng đáng ngại, số binh lính Ngõa Cương gấp hơn mười lần của Lý Uyên, chỉ cần một trong hai mối đe dọa sau xảy ra sẽ khiến cuộc tiến quân vào Quan Trung của Lý Uyên bị thất bại nửa chừng, thậm chí có thể thất bại thảm hại đến không gượng dậy được nữa.
Lý Uyên vội vàng viết thư cho thủ lĩnh đội quân Ngõa Cương là Lý Mật để thông báo một cách tỉ mỉ về tình hình khởi binh đồng thời bày tỏ nguyện vọng tha thiết được tồn tại hữu hảo với quân Ngõa Cương.
Không lâu sau sứ giả mang thư trả lời về tới doanh trại nhà Đường. Lý Uyên sau khi xem thư thì lẩm bẩm rằng "thật ngông cuồng", trong lòng thì lại cảm thấy rất yên ổn.
Trong thư Lý Mật viết rằng: "Mặc dù không cùng một phe phái với huynh nhưng động cơ mục đích của chúng ta là giống nhau. Bắt đầu tay trắng cùng lập nên minh chủ cho các anh hùng tứ hải. Mong rằng hai bên cùng hợp lực đồng tâm, bắt Tử Anh ở Hàm Dương, giết Thương Hạnh ở Mục Dã, thế chẳng phải tốt hay sao? Nếu huynh không chê xin hãy đích thân dẫn vài ngàn quân tiến tới gần bờ sông gặp mặt để cùng giao kết hiệp ước, cùng nhau bàn chuyện, thật vinh hạnh biết bao!". Thì ra Lý Mật tự phụ có quân mạnh nên đã có dã tâm lớn làm minh chủ của mọi nghĩa quân phản Tùy. Thật ra trong thư ông ta đang thuyết phục Lý Uyên nhận lời đồng ý và mong Lý Uyên sớm trả lời.
Lý Mật đang có trong tay một quan ải hiểm yếu, gần đó lại có một kho giấu đầy vải vóc và lương thực nên có thể khống chế toàn bộ vùng Hà Nam. Phía đông thì có thể chặn đánh hoặc tiến công chớp nhoáng Tùy Dạng Đế ở Giang Tô, phía tây thì có thể đánh chiếm một cách dễ dàng nơi mà Lý Uyên vẫn coi là điểm xây dựng cơ đồ - đó là Quan Trung. Vì vậy Lý Uyên thừa biết Lý Mật đang quá ngông cuồng nhưng ông ta cũng có lý do để ngông cuồng.
Để hóa giải hai mối nguy hiểm sau cùng trên con đường tiến về phía tây, đồng thời biến kẻ thù thành bạn và mượn đại quân của Lý Mật để thanh toán ngay tại Hà Nam đội tinh binh chủ lực của Tùy Dạng Đế phái đi hòng cướp lại Trường An. Lý Uyên cười mỉm và nói với con trai thứ Lý Thế Dân: "Lý Mật tự cho là mình đã quá mạnh, hắn quyết không thể chỉ bằng một lá thư mà thuyết phục được ta. Hiện ta đang cần hòa với hắn, nhún nhường ca ngợi hắn tài giỏi, ngoài miệng giục hắn sớm xưng vương và tỏ ra là người đồng hành với hắn, như vậy hắn tất sẽ trở thành lính gác cho ta mạnh dạn tiến về phía tây. Đợi đến khi chúng ta vào được Quan Trung và củng cố lực lượng rồi, trong lúc hắn và Tùy Dạng Đế - hai hổ giao đấu một con chết một con bị thương, chúng ta chỉ việc đi thu chiến lợi phẩm mà thôi". Thế là Lý Uyên viết thư trả lời rằng: “Trời sinh ra thiên hạ tất phải có người cai trị, người cai trị hôm nay không phải là người anh em thì có thể là ai đây? Lão phu nay tuổi đã cao không gánh vác nổi việc đó. Xin nhận người anh em làm đại đệ, nguyện phò tá cho đệ đạt được tâm nguyện làm chủ thiên hạ"... Đại ý rằng hiện nay người có thể xưng đế chỉ có thể là Lý Mật huynh, Lý Uyên này đã ngoài 50 tuổi nên không có tâm nguyện đó, chỉ mong sao đến lúc lại được phong làm Đường công là mãn nguyện lắm rồi, hy vọng huynh có thể sớm đăng vị. Bởi vì những vùng xung quanh vẫn chưa bình định nên tạm thời chưa thể đến đó để cùng liên kết.
Lý Thế Dân xem thư rồi nói: "Thư này gửi đi xong thì Lý Mật tất sẽ dồn hết tâm trí phản Tùy, ta không còn phải lo lắng gì ở phía đông nữa rồi". Quả nhiên Lý Mật sau khi nhận được thư đã rất đỗi vui mừng nói với thuộc hạ rằng: "Đường công này mà chịu lui bước thì thiên hạ loạn mất".
Lý Uyên lấy lòng Lý Mật, nhún nhường khen ngợi hắn, không những tránh được nguy cơ bị Lý Mật tranh giành Quan Trung mà còn ngăn chặn được khả năng tăng viện cho Trường An của quân Tùy từ thành Lạc Dương, giúp Lý Uyên thuận lợi tiến về phía tây, từ đó đã đạt được mục đích "tay không chiếm Quan Trung”. Lý Mật trúng kế của Lý Uyên, hàng ngày trao đổi tin tức cho Lý Uyên mà không hề có ý định tiến công, chỉ chuyên tâm quyết đấu với triều đình nhà Tùy. Trong vài năm sau đó, Lý Mật đã tiêu diệt hết đội quân chủ lực tinh nhuệ nhất của triều đình Tùy, đồng thời bản thân cũng bị đánh chỉ còn lại 2 vạn binh mã. Còn Lý Uyên tranh thủ thời cơ thuận lợi đã phát triển thành người có thực lực nhất.
Mọi người ai cũng có sở thích riêng, cũng có nhu cầu được tôn trọng và được khen ngợi. Lý Uyên nhún mình khen Lý Mật rồi hết sức lấy lòng ông ta nên đã đạt được lợi ích lớn trong ngoại giao quân sự chính trị, đó là biến thù thành bạn và tiến quân thuận lợi vào Quan Trung. Ngài Fiderbec nhân viên của công ty điện lực cũng đã dùng biện pháp lấy lòng người khiến cho một bà lão ở một nơi cách xa ông hàng ngàn dặm rất vui vẻ ký kết với ông một vụ làm ăn lớn, giúp ông hoàn thành nhiệm vụ tiêu thụ điện sinh hoạt một cách thuận lợi.
Hôm đó, Fiderbec đến gõ cửa một nông trang trông có vẻ rất giàu có và gọn gàng. Lúc đó, bà chủ hộ Brown chỉ mở he hé một khe cửa. Khi biết được đó là nhân viên của công ty điện lực đến tiếp thị, bà ta liền đóng sập cửa lại. Fiderbec lại gõ cửa lần nữa, phải gõ rất lâu cánh cửa mới miễn cưỡng hé ra một khe hở, nhưng chưa kịp mở miệng thì bà lão đã mắng ầm lên một trận.
Sau một lượt điều tra, Fiderbec lại đến gõ cửa, cánh cửa vừa hé ra, ông ta đã vội vàng thanh minh: "Thưa bà Brown rất xin lỗi đã làm phiền bà, sự có mặt của tôi hôm nay không phải vì công ty điện lực mà chỉ là vì tôi muốn mua của bà một số trứng gà". Thái độ của bà lão đã khá hơn nhiều, cánh cửa cũng mở rộng hơn. Fiderbec nói tiếp: "Gà nhà bà trông thật đẹp, bộ lông của chúng mới đẹp làm sao. Chắc đó là giống gà X phải không? Bà có thể bán một số trứng không?". Cánh cửa càng mở to hơn, có tiếng hỏi lại rằng: "Làm sao ông biết được đó là giống gà X?". Fiderbec biết kế lấy lòng người đã thành công bước đầu bèn thành khẩn và cung kính trả lời: "Nhà tôi cũng nuôi giống gà này nhưng chưa bao giờ trông thấy chúng đẹp như những con gà do bà nuôi. Mà gà nhà tôi chỉ biết đẻ trứng. Những người xung quanh đây đều nói chỉ có trứng gà nhà bà là ngon nhất. Phu nhân, bà biết đấy, làm bánh gatô thì cần phải dùng trứng thật ngon. Hôm nay bà xã tôi làm bánh gatô, tôi chỉ biết chạy đến hỏi bà...". Bà lão bỗng mặt mày rạng rỡ vui vẻ hẳn lên và chạy từ trong phòng ra bên ngoài hành lang.
Fiderbec tranh thủ thời gian quan sát chung quanh, phát hiện nơi đây có cả một bộ nông cụ, đoán rằng của một người đàn ông nuôi bò sữa nên liền nói tiếp: "Phu nhân, tôi dám đánh cược rằng tiền kiếm được do bà nuôi gà chắc chắn sẽ nhiều hơn số tiền kiếm được do ông nhà nuôi bò sữa". Bà lão sung sướng quên hết nỗi bực dọc, vui tới mức suýt muốn nhảy cả lên, bởi vì chồng bà xưa nay cứ không chịu thừa nhận điều đó mà bà suốt ngày phải mang "chân tướng" sự việc đi kể cho mọi người nhưng lại chẳng có ai hứng thú.
Bà Brown lập tức coi Fiderbec là tri kỷ, không ngần ngại dẫn ông ta đi thăm quan trại gà. Fiderbec biết kế lấy lòng người đã hoàn toàn thuận lợi. Nhưng trong khi thăm quan trại gà, ông ta cũng không quên tìm ra những lời khen ngợi có giá trị.
Trong lúc tán tụng, ông ta được bà lão không hề giấu giếm mà truyền cho hết kinh nghiệm nuôi gà, ông ta tỏ ra là một học sinh ham học hỏi. Hai người họ trở nên rất thân thiện dường như có thể nói với nhau mọi chuyện trên trời dưới biển. Trong những lời ca ngợi, bà lão cũng hỏi Fiderbec nhiều về lợi ích của việc sử dụng điện. Fiderbec cũng nói tập trung vào việc nuôi gà, bà lão cũng nghe một cách chăm chú.
Hai tuần sau, tại công ty ông đã nhận được đơn đăng ký sử dụng điện của bà lão. Chẳng bao lâu, đơn đăng ký sử dụng điện của những hộ gia đình nơi bà lão sống đã liên tiếp được gửi tới Bà lão đã trở thành một người trợ giúp đắc lực cho Fiderbec.
 
Chương 16
Tiến quân không lui bước, quyết đoán phân định hơn thua


Từ thời Tần Thủy Hoàng, Quan Trung đã bắt đầu trở thành một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của cả nước. Sau này Hán Cao Tổ Lưu Bang cũng vì chọn Quan Trung làm nơi thống lĩnh thiên hạ rồi đánh dẹp phía đông nên đã thống nhất được toàn quốc. Nhà Tùy dựng kinh đô ở Trường An rõ ràng cũng coi Quan Trung là nơi căn bản để lập quốc.
Năm 617, Tùy Dạng Đế lại đi tuần phương Nam, Quan Trung bị bỏ ngỏ, lực lượng quân sự ở kinh đô và các vùng lân cận đều rất yếu mỏng, nhà vua và đa số quan lại triều đình đều đi đến Dương Châu - đây đúng là một thời cơ đánh chiếm Quan Trung ngàn năm có một. Phe cánh của Lý Uyên từ lâu đã muốn sáng lập vương triều mới dễ gì chịu ngồi yên để lỡ mất một cơ hội tốt. Họ đã bất chấp rằng mình vừa khởi binh xong thì lực lượng đã bị yếu đi nhiều, bắt đầu khởi hành từ Thái Nguyên tiến quân về Quan Trung với tốc độ nhanh nhất.
Những khó khăn gian khổ và những nguy cơ bị phục binh ở khắp mọi nơi không lời nào kể xiết. Phía trước thì có quân phục kích được phái đi từ Trường An, lại thêm cái rãnh trời Hoàng Hà, xung quanh là quân khởi nghĩa và thế lực của các chư hầu đều mạnh hơn lực lượng của ông rất nhiều - họ cũng đều có ý đồ giành chiếm Quan Trung để thống lĩnh thiên hạ, căn cứ địa hậu phương là thành Thái Nguyên thì lực lượng nhỏ nhoi cô độc, phía bắc lại đối mặt với thế lực của Đột Quyết và Lưu Vũ Chu... mỗi một nguy cơ bùng nổ đều có thể khiến cho kế hoạch lâu dài tiến quân vào Quan Trung của Lý Uyên bị thất bại nửa chừng, Lý Uyên trong lòng rối như tơ vò bởi trăm mối lo.
Điều thần kỳ mà Lý Uyên hy vọng đó là thời gian, ông ta hy vọng bằng cách hành động thật nhanh chóng thì có thể bù đắp cho sự thiếu thốn vế lực lượng và về mọi phương diện khác nữa. Không ngờ trời chẳng chiều ý người, khi bọn họ tới Giả Hồ Bảo định tiến công thị trấn quân sự Hoắc ấp (cách Giả Hồ Bảo chỉ hơn 50 dặm) thì trời mưa triền miên. Đường sá lụt lội rất khó hành quân và bắt đầu có dấu hiệu thiếu lương thực. Lại thêm một tin dữ: Lưu Vũ Chu câu kết với Đột Quyết sẽ lợi dụng sơ hở mà tiến đánh vào sào huyệt của Lý Uyên.
Lý Uyên ngước cổ nhìn lên trời mà than rằng: "Xem ra thời cơ vẫn chưa chín, đành phải lui quân về phía bắc!". Bùi Tịnh và những người khác đều tán đồng với ý kiến lui quân của Lý Uyên, họ cho rằng quân Tùy phái đại tướng vừa giữ Hà Đông, lại vừa khống chế được Hoắc ấp sau đó sẽ liên binh cùng dựa vào nơi hiểm yếu để cố thủ chờ đối phương đuối sức, nên quân ta không thể tiến quân nhanh chóng dễ dàng được, chỉ có thể lui quân về Hà Nam. Mà người bạn đồng minh của chúng ta Lý Mật ở phía đông tâm địa khó lường. Con người Đột Quyết tham lam khó mà tin tưởng, cho dù trước khi khởi binh chúng ta đã nhún mình nhượng bộ làm hòa với hắn nhưng ai dám bảo đảm rằng hắn sẽ giữ tín nghĩa mà ngày hôm sau không trở mặt? Lưu Vũ Chu vốn là kẻ lòng dạ đi theo Đột Quyết, nhân lúc người ta gặp nạn mà ném đá lấp cửa hang là thói mà hắn quen làm. Thái Nguyên là căn cứ địa duy nhất của chúng ta, hơn nữa gia quyến các tướng sĩ đều ở cả nơi đó. Vì thế chi bằng hãy lui quân bảo vệ căn cứ địa, chuyện lớn đợi sau này bàn tiếp vậy. Cuối cùng Lý Uyên đã quyết định ngày hôm sau sẽ thực hiện kế hoạch thoái binh.
Lý Thế Dân hay tin rút quân thì vô cùng sợ hãi, vội vàng tìm đến cha hỏi cho rõ với giọng rất phấn khích. Lý Uyên trong lòng hoài nghi lo lắng nên mập mờ thoái thác rằng: “Lương thực sắp hết, khó mà cầm cự tiếp được". Lý Thế Dân khuyên rằng "Bây giờ lúa ngô đầy đồng, làm sao có thể thiếu lương thực? Tùy tướng Tống Lão Sinh đang trấn giữ Hoắc ấp thì quá yếu, hễ đánh là thắng liền. Lý Mật đang có được kho lương thảo lớn là Lạc Khẩu chắc sẽ không đến tranh giành với ta. Lưu Vũ Chu và Đột Quyết vẻ ngoài nói hòa hảo nhưng thực tế trong lòng hoài nghi lẫn nhau. Lưu Vũ Chu tuy rằng muốn tranh giành Thái Nguyên với ta nhưng lại sợ căn cứ địa Mã ấp của mình sẽ bị Đột Quyết thừa cơ chiếm mất nên sẽ không dám khinh suất mà hành động bừa. Đột Quyết thì vừa làm hòa với ta cũng không đến nỗi phá bỏ hiệp ước ngay lập tức. Càng quan trọng hơn nữa là ý chí lớn trong đầu chúng ta muốn xây dựng một đại nghiệp mới. Đã có chí cầu dân lập quốc thì nên vào Hàm Dương trước để thống lĩnh thiên hạ. Nếu bây giờ vừa gặp trở ngại nhỏ đã vội thu quân thì chỉ e rằng các tướng sĩ vừa lấy được khí thế nay vì thế mà nhụt ý chí, đại sự hóa ra cũng chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi!".
Ý kiến của Lý Thế Dân không thắng nổi sự phản đối của đám mưu thần Bùi Tịnh, Lý Uyên vẫn quyết định rút quân. Lý Thế Dân chán nản buồn phiền ăn không ngon ngủ không yên, đến trước cửa trướng của Lý Uyên mà khóc ầm lên. Lý Uyên khoác áo bước ra khỏi giường, cho gọi con trai vào hỏi vì sao lại khóc lóc thảm thương như vậy. Lý Thế Dân vừa khóc vừa thưa: "Quân hành động vì nghĩa, chỉ có tiến mà không lui, tiến thì sống mà lui sẽ chết, làm sao có thể không khóc cho được!". Lý Uyên lo sợ hỏi làm sao có thể chết, Lý Thế Dân thưa rằng. "Tất cả mọi người đã quyết tâm, hành quân đang sục sôi nhuệ khí, một khi đã lui quân thì ai nấy đều chán nản mà mất đi nhuệ khí, khi đó quân Tùy sẽ thừa cơ truy đánh tới đây, quân ta tan tác há chẳng phải chỉ còn cách bó tay chờ chết ư? Các mưu thần chỉ ham sống bàn luận, làm sao có thể dễ dàng tin theo?".
Lý Uyên bỗng nghĩ tới tính quan trọng của ý chí tiến quân nên vội vàng nói: "Quân ta đã bắt đầu rút, làm sao bây giờ?". Lý Thế Dân đáp rằng: "Con xin lập tức đuổi theo họ!".
Lý Thế Dân rút roi giục ngựa phi qua đêm thì đuổi kịp. Hai ngày sau, rất nhiều lương thảo được chuyển vào doanh trại Thái Nguyên. Dường như ông trời muốn thưởng công cho tướng lĩnh dám nghĩ dám làm nên dần dần đã mây quang mưa tạnh và bắt đầu đã có thể nhìn thấy rõ ánh mặt trời. Lý Uyên lệnh cho quân sĩ hong khô và chuẩn bị binh khí, tránh những vũng lầy mà đi, qua ải chém tướng, bất ngờ đánh Quan Trung.
Lý Thế Dân chẳng ngại khó khăn gian khổ, không để tai những lời trách cứ của các mưu thần, dũng cảm quyết đoán, can đảm và hiểu biết hơn người, cuối cùng cũng giúp được quân Đường đang hăng hái nhanh chóng chiếm lĩnh được điểm trọng yếu Quan Trung. Thật khó tưởng tượng nổi nếu không có mưu lược tự tin quả cảm của Lý Thế Dân thì quãng lịch sử kiến lập vương triều Đường cũng như cả bộ sử Tùy Đường sẽ như thế nào.
Chỉ lo suy tính giữa được và mất mà không hành động quyết đoán tất sẽ bỏ lỡ mất cơ hội tốt, khiến bản thân lại rơi vào thế bị động.
Công ty nước khoáng Blue của Pháp hiểu rõ điểm này nên cho dù đang ở trong tình thế tuyệt vọng vẫn có thể sống lại từ cõi chết, biến nguy thành an nhờ sự can đảm, hiểu biết và chính sách quyết đoán.
Đầu tháng 2 năm 1990, cục quản lý lương thực và dược liệu Hoa Kỳ tuyên bố sau khi điều tra đã phát hiện trong "chai Blue" có tới hai ba phần là chất hóa học Benzene, nếu sử dụng một thời gian dài sẽ dẫn đến ung thư!
Sản lượng nước khoáng của Pháp luôn đứng đầu thế giới, Blue lại là hãng nổi tiếng của Pháp và vẫn được khen là loại nước khoáng ngon nhất. Hàng năm hãng này sản xuất 1 tỉ chai trong đó 60% được xuất khẩu ra nước ngoài. Tại Mỹ, Nhật và Tây âu, Blue đã trở thành một biểu tượng của nước Pháp. Đối với một sản phẩm có tiếng như vậy thì lời tuyên bố đanh thép về việc "có thể gây ung thư” của Mỹ khác nào như sự hủy diệt của trái bom nguyên tử! Cổ phiếu của công ty này trong một ngày đã giảm xuống 20%, những khách hàng trước đây vốn coi việc uống Blue là sự thưởng thức cao nhã lãng mạn nay loáng một cái đã coi Blue như một tai họa khủng khiếp, chỉ hận rằng không nhổ hết được lượng nước đã uống trả về cho nước Pháp.
Phải làm sao đây. Tập thể các nhân viên tài giỏi của công ty đang vắt óc tìm giải pháp, cả thế giới thì đang ngẩng đầu chờ đợi. Rất nhanh, Blue tuyên bố một quyết định động trời: “Thu hồi và tiêu hủy toàn bộ sản phẩm!". Đây rõ ràng là một hành động điên rồ.
Nếu nói sự phát hiện trong sản phẩm có hàm lượng Benzene quá cao là một trái bom nguyên tử hủy diệt đánh vào công ty thì quyết định "tiêu hủy toàn bộ sản phẩm" lại là hành động cứu sinh tuyệt địa, là một trận cuồng phong, một trái bom nguyên tử "lòng tin" đánh vào người tiêu dùng của Blue.
Quyết định dứt khoát lập tức có hiệu quả: giá cổ phiếu của công ty ngay ngày hôm sau đã tăng lên 2,5%.
Sau đó công ty lại tuyên bố nguyên nhân của sự cố: Trong quá trình xử lý làm sạch nước, do thiết bị lọc nước đến hạn mà chưa kịp thay - thuần túy là do lỗi kỹ thuật chứ quyết không phải do nguồn nước bị ô nhiễm.
Nước Pháp lại giành được thị phần cho Blue, 84% người tiêu thụ Mỹ quay lại sử dụng Blue. Sản phẩm của hãng lại chiếm lĩnh thị trường, nhưng so với trước đây, chỉ có thêm ba chữ "sản phẩm mới" còn tất cả mọi thứ vẫn y nguyên như mọi người từng biết đến.
Ít lâu sau Blue bắt đầu làm quảng cáo trên truyền hình. Một chai nhỏ màu xanh, một giọt nước trên miệng chai từ từ bám vào thành chai và lăn xuống như giọt nước mắt. Bên ngoài lồng tiếng rằng: Blue giống như một bé gái chịu tủi thân đang khóc, lại- có tiếng như giọng một người cha âu yếm an ủi rằng: "Chúng ta vẫn yêu con".
Một quyết sách quả đoán cuối cùng đã khiến người tiêu dùng lại yêu thích Blue như trước.
 
 
Chương 17
Tránh trận công kiên, dụ địch xuất chiến


Lý Uyên khởi hành từ Thái Nguyên, dẫn 3 vạn binh mã gấp rút tiến quân về phía tây nam, áp dụng mọi biện pháp linh hoạt nhằm đến nơi trước các đạo quân khác và chiếm điểm trọng yếu Quan Trung rồi phát triển lực lượng để đạt bằng được mục đích thống lĩnh toàn thiên hạ. Tuy nhiên vừa mới đến được trước cổng thành Hoắc ấp cách Thái Nguyên không xa thì Lý Uyên đã phải đối mặt với thử thách lớn, đó là những trận đánh công kiên dai dẳng rất lãng phí thời gian.
Thì ra Dương Hựu, cháu Tùy Dạng Đế đã biết tỏng Lý Uyên chỉ giả bộ tuân Tùy và có dụng tâm làm phản. Vừa biết tin Lý Uyên tiến quân về hướng Tây liền lập tức phái tướng quân Tống Lão Sinh dẫn 3 vạn tinh binh chốt tại thành Hoắc ấp. Hoắc ấp vừa là lá chắn đầu tiên chống đỡ mũi tấn công từ Thái Nguyên đồng thời cũng là căn cứ địa đầu tiên để tiến đánh Thái Nguyên. Đối với Lý Uyên đây rõ ràng là một cái đinh nhọn, chi có thể nhổ bỏ nó đi mà không thể đi vòng tránh nó.
Về lực lượng tuy rằng quân số của Lý Uyên và Tống Lão Sinh là tương đương nhau nhưng do quân lính của Lý Uyên vừa mới được tập hợp nên chắc chắn sức chiến đấu của họ không thể so bì với quân lính của Tống Lão Sinh được. Tống Lão Sinh lại đang chiếm giữ thành trì nên có địa thế rất thuận lợi, có thể chỉ cần cầm cự chờ đối phương đuối sức, đây rõ ràng là ưu thế tuyệt đối mà ông ta có được.
Phải làm thế nào ư? Phải lấy yếu thắng mạnh, thậm chí còn phải giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất! Lý Uyên và các mưu thần cùng họp bàn rất kỹ lưỡng. Cuối cùng Lý Uyên quyết định tránh không để xảy ra những trận đánh công kiên dai dẳng phí thời gian mà cần phải tìm ra biện pháp dụ Tống Lão Sinh ra ngoài thành rồi thừa cơ tìm điểm yếu và sơ hở của ông ta để tiêu diệt gọn.
Tống Lão Sinh cố thủ trong thành, nhất định không chịu ra ngoài giao chiến. Nhưng Lý Uyên biết rõ bản tính Tống Lão Sinh kiêu ngạo hay vội vàng khinh địch. Thế là Lý Uyên lệnh cho hai con Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân đem vài chục kỵ binh tiến cận thành vung roi dọa nạt, làm như thể sắp bao vây thành đến nơi, mặt khác lệnh cho tất cả các binh sĩ cùng đồng thanh lớn tiếng chửi mắng Tống Lão Sinh là đồ đần độn nhát gan vô tích sự.
Quả nhiên Tống Lão Sinh đã không chịu được, lập tức dẫn đại quân xông ra từ cửa Đông và cửa Nam thành để quyết đấu với Lý Uyên một trận sống còn.
Lý Uyên đang ở phía đông thành chờ hậu quân tới thì thấy Tống Lão Sinh mở cổng thành xuất chiến bèn lập tức lệnh cho hậu quân dốc sức đuổi tới, còn bản thân chỉ mang theo vài trăm binh lính phi tới giao chiến với Tống Lão Sinh. Hậu quân nhận được lệnh đã kéo tới, Lý Uyên và Lý Thế Dân cùng ra lệnh “Quân địch đã ra khỏi thành, hãy lập tức đánh úp và phải tiêu diệt chúng trước giờ ăn cơm?". Đoạn, lập tức bày binh bố trận. Lý Uyên và Lý Kiến Thành cùng dàn trận ở phía đông thành còn Lý Thế Dân cầm quân chờ sẵn ở phía nam.
Tống Lão Sinh dẫn quân và ra lệnh tấn công kịch liệt vào phía đông thành nơi mà Lý Uyên cùng Lý Kiến Thành đang chờ ở đó. Quân Lý Uyên không chặn được đối phương đang hừng hực khí thế nên rút chạy về phía sau. Tống Lão Sinh thừa thắng xông lên, dẫn đội quân chủ lực rời thành dốc sức đuổi đánh về phía đông.
Lý Thế Dân ở phía nam thành đang đứng trên cao lặng im quan sát diễn biến tình hình bỗng phát hiện Tống Lão Sinh rời bỏ thành đuổi đánh, thật ra lúc đó cánh bên và hậu quân đã lộ ra trước mắt ông ta, tức thì chớp thời cơ dẫn một bộ phận quân lính xông thẳng lên vây kẹp Tống Lão Sinh. Tống Lão Sinh đành phải quay ngựa lại giao đấu với Lý Thế Dân.
Lý Thế Dân dụ được Tống Lão Sinh ra đến trận địa rồi lại lệnh cho binh sĩ tùy tùng bất ngờ đồng thanh hô lớn: "Tống Lão Sinh đã bị bắt rồi! Quân Tùy cớ sao còn chưa đầu hàng? ".
Khi đó ở phía đông thành, quân Tùy đang giao chiến với Lý Uyên và Lý Kiến Thành bất phân thắng bại, bỗng nghe rằng chủ tướng đã bị bắt liền vội vàng quay đầu tháo chạy về thành. Cha con Lý Uyên thừa thắng đuổi theo như vũ bão, quân Tùy trong nháy mắt đã tháo chạy thẳng vào trong thành rồi đóng cửa lại.
Lúc này Tống Lão Sinh trở thành một cánh quân cô độc không có đường mà tiến lui, thấy cửa thành phía đông đã đóng nên định chạy quay về phía nam thì bị Lý Thế Dân liều chết chặn đánh, định quay về phía đông thì lại gặp đại binh của Lý Uyên và Lý Kiến Thành tiến đến càn quét. Chẳng mấy chốc, Tống Lão Sinh bị giết, số còn lại hoặc chết hoặc bị thương, thây xác phơi hàng dặm.
Lý Uyên lệnh cho quân sĩ ăn uống qua quýt rồi tiếp tục công thành. Vừa giành được thắng lợi nên ai nấy đều hừng hực khí thế, chẳng tốn mấy công sức đã đánh vào tận trong thành và giành thắng lợi hoàn toàn.
Lý Uyên lệnh cho yết bảng an dân, chỉnh đốn lại quân ngũ rồi lại vội vàng tiến về phía tây.
Trong quân sự, muốn tiêu diệt đối phương, chung quy đều phải dựa vào thực lực. Muốn lấy yếu thắng mạnh thì chỉ có thể dựa vào việc dùng trí dùng mưu. Bè phái Lý Uyên muốn tránh hao phí sức lực vào những trận công kiên nên dùng mưu trí để dụ địch và làm cho đối phương để lộ nhược điểm rồi giáng cho một đòn chí mạng, nhờ thế mà chẳng tốn nhiều công sức cũng giành được thắng lợi lại còn tranh thủ được khoảng thời gian vô cùng quý giá để tiến quân đến Quan Trung. Trong việc kinh doanh làm ăn, nếu coi thị trường như chiến trường thì chất lượng hàng hóa là yếu tố thực lực chủ yếu của nhà kinh doanh. Muốn chất lượng hàng hóa gây được ấn tượng tốt và chiếm được lòng tin của người tiêu dùng thì nhà kinh doanh đều phải đối mặt với những trận đánh công kiên, ở đâu cũng vậy cả. Đấy là chưa kể những nhà kinh doanh những mặt hàng cùng chủng loại đang tìm mọi cách để chiếm lĩnh địa bàn, củng cố trận địa, thì cần phải chiến đấu dài lâu. Đơn giản nếu đứng về phía người tiêu dùng mà nói thì đâu phải dễ gì mà phá vỡ ngay được phòng tuyến tâm lý như nghi ngờ, cổ hủ, không tín nhiệm hoặc chỉ dùng những mặt hàng đã có tiếng từ lâu.... Nhà kinh doanh phái sau khi dùng "chất lượng" đột phá những phòng tuyến trên mới có thể khiến sản phẩm của mình được người tiêu dùng ưa chuộng và luôn được tin dùng, qua đó càng chiếm lĩnh được thị phần lớn hơn.
Vừa bán vừa tâng bốc hàng của mình là chất lượng số một. Đây là một kiểu phản công chính diện nhằm phá vỡ phòng tuyến tâm lý của người tiêu dùng. Do phải thay đổi tâm lý khách hàng nên biện pháp tấn công chính diện xem ra rất hao công tổn sức mà hiệu quả lại không cao. Vì thế nhà kinh doanh biết làm ăn thì nên giống như Lý Uyên tránh những trận công kiên chính diện và dùng biện pháp "dụ địch xuất chiến", phải làm sao khiến khách hàng chủ động tìm đến và kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm, sau đó thì "tóm sống" khách hàng.
Trên đường quốc lộ một tiểu bang của nước Mỹ có một chiếc xe chở bánh mì đang phóng rất nhanh. Vì ở tiểu bang này vừa xảy ra lũ lụt nên vấn đề lương thực rất cấp bách, bánh mì bán rất chạy mà nơi nào cũng thiếu hàng. Thế là chiếc xe bánh mì đó chẳng mấy chốc bị những người đói khát phát hiện ra và vây lại từng đoàn. Mọi người cướp bánh mì trên xe mà đáng lẽ phải mua, nhân viên áp tải hàng thì nói thế nào cũng không chịu bán. Đám đông phẫn nộ dường như muốn xé nát anh ta.
Nhà báo tới. Người nhân viên áp tải hàng kể rõ nguồn cơn sự việc. Thì ra đây là bánh mì của nhà máy Caterin. Nhà máy này sản xuất bánh mì đi bán, nhưng đặc biệt trên mỗi chiếc bánh mì đều ghi rõ thời hạn bánh bị khô và qui định rằng quá ba ngày thì tất cả lượng bánh chưa bán được sẽ không được phép bán ra nữa. Số bánh mì trong xe chính là số bánh bị quá ba ngày mà người áp tải hàng đã thu hồi từ các cửa hàng bán bánh của hãng. “Không phải tôi không muốn bán”, nhân viên áp tải hàng nói. "Quả thực là bà chủ của chúng tôi qui định rất nghiêm khắc. Bà ấy qui định rằng bất luận vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, đều không cho phép bất kỳ ai đem bán bánh mì quá hạn sử dụng. Nếu như ai đó cố tình vi phạm, đem bán bánh mì quá hạn cho khách hàng thì nhất định sẽ bị đuổi việc. Nếu tôi bán bánh mì quá hạn cho mọi người thì há chẳng phải tôi tự đập bát cơm của mình sao?".
Sự "ngay thẳng thật thà" của anh nhân viên áp tải hàng khiến cho mọi người vô cùng kinh ngạc và kính phục, ai nấy đều rất cảm thông cho hoàn cảnh của anh ta. Nhưng cái mà những người đói khổ kia càng quan tâm hơn chính là những chiếc bánh mì ngon lành đã "quá hạn mà chưa "mất mùi" kia, họ chỉ muốn dùng miệng của mình để chứng minh những chiếc bánh mì kia là những thứ tuyệt vời nhất ở chính thời điểm này chứ tuyệt đối không phải là thứ hàng hóa "quá hạn" gì hết.
Nhà báo đại diện cho nguyện vọng của mọi người nói với anh nhân viên áp tải hàng. "Anh à, bây giờ đang là thời điểm nóng bỏng, anh hãy bán bánh mì cho mọi người, đừng để họ thất vọng!".
Anh nhân viên áp tải hàng với vẻ mặt thần bí ghé sát tai nhà báo nói: "Bán thì tôi tuyệt đối không dám, nhưng nếu là mọi người tự cướp bánh trên xe thì tôi mới không phải chịu trách nhiệm". “Thế chẳng phải là cướp giật hay sao?" nhà báo nói, "Bọn họ cướp bánh mì, song, vì lương tâm nên để lại một ít tiền tương đương, thế chẳng hóa thành mua như ăn cướp rồi sao?".
Mọi người ngỡ ngàng hiểu ra. Chớp mắt đã mua hết số hàng trên xe. Nhà báo cũng không quên chớp cơ hội chụp lấy một tấm ảnh tuyệt diệu để đăng báo, cảnh người dân tranh nhau cướp mua còn nhân viên áp tải hàng thì ra sức ngăn lại.
Bản tin trên báo phát biểu rõ rằng chất lượng bánh mì của hãng được khách hàng vô cùng tín nhiệm, chưa đầy nửa năm sau, lượng tiêu thụ bánh này tăng vọt hơn năm lần.
Nếu phân tích kỹ một chút, sự thành công huyền bí trong việc bán hàng của người áp tải bánh mì chẳng phải chính là tránh không thổi phồng trực tiếp về chất lượng ra sao mà là dụ mọi người chủ động đến và tự kiểm nghiệm chất lượng đó ư?
 
Chương 18
Tổng hợp ý kiến đám đông, một công đôi ba việc


Lý Uyên tiến quân đến Trường An, dọc đường đã đi nhanh như chớp tiêu diệt gọn thị trấn quân sự trọng yếu Hoắc ấp với 3 vạn tinh binh phòng thủ của triều đình. Một trận thắng lẫy lừng gây tiếng vang lớn tạo nên thế mạnh như chẻ tre, cứ thế liên tục đánh thắng những nơi hành quân qua như Lâm Phần, Giáng Quận, Long Môn - thành nào cũng đánh, người nào cũng phải hàng. Thế là hào kiệt Quan Trung nô nức xin theo, mỗi ngày những người thuận theo tâm ý Lý Uyên ra tòng quân không dưới hàng ngàn.
Lúc này có một người quê ở Phần Dương (nay là phía tây nam Vạn Vinh, Sơn Tây) tên là Tiết Đại Đỉnh hiến kế cho Lý Uyên rằng, không nên tiến công thành Hà Đông mà nên từ Long Môn qua thẳng sông Hoàng Hà chiếm lấy đại kho lương thực Vĩnh Phong (nay là cửa sông Vị Hà ở phía đông bắc Hoa âm, Thiểm Tây), sau đó "truyền hịch gần xa" là có thể ngồi chơi cũng có thể chiếm được Quan Trung. Hộ Tào Nhiệm Hoàn huyền Hà Đông cũng đưa ra ý kiến qua sông trước để chiếm Hán thành rồi áp sát Hợp Dương (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), sau đó tiến thẳng chiếm Vĩnh Phong, như vậy mặc dù chưa có được Trường An nhưng Quan Trung đã là vật nằm trong tay.
Lý Uyên định sẽ dùng mưu hành sự nhưng đa số các võ tướng đều tỏ ra rất không bằng lòng, họ nhất quyết muốn thừa thắng xông lên đánh một trận để thu phục Hà Đông. Lý Uyên đành phải dẫn quân chủ lực tiến sát Hồ Khẩu (nay ở bờ sông Hoàng Hà thuộc huyện Tây Nam, Sơn Tây), lệnh cho 6.000 binh vượt Hoàng Hà chuẩn bị đánh Hà Đông.
Trấn giữ thành Hà Đông là đại tướng quân triều Tùy Khuất Đột Thông. Khuất Đột Thông là người rất thiện chiến, thấy quân của họ Lý đã bao vây Hà Đông bèn lập tức ngay trong đêm dẫn vài ngàn tinh binh đánh tập kích vào doanh trại Lý quân, Lý Uyên phải liều chết phản kích mới đuổi lui được quân Tùy vào trong thành. Không lâu sau Lý Uyên phát lệnh tấn công kịch liệt thành Hà Đông nhưng vẫn bất lực vì thành trì kiên cố, tướng giữ thành quá ư dũng mãnh, quân Lý cứ đánh mãi mà không thắng nên đã lãng phí vô khối thời gian vàng bạc tiến quân Quan Trung.
Lúc này lại có thêm không ít người ở Quan Trung theo Lý Uyên đề nghị Lý Uyên phải nhanh chóng vượt sông, tiến về phía tây chiếm lấy Trường An. Thế là Lý Uyên phái triệu tập cuộc họp để bàn hướng đi.
Người phía Bùi Kỵ cho rằng Khuất Đột Thông khiển binh kiên quyết thủ thành, nếu bỏ qua hắn tiến quân đến Trường An, nhỡ Trường An khó chiếm đánh thì muốn thoái binh về phía đông tất sẽ bị Hà Đông chặn đánh, sẽ ngã xuống một vực sâu mà trước mặt sau lưng đều có địch. Vì vậy bắt buộc phải hạ thành Hà Đông trước mới có thể Tây tiến. Trường An vốn là đang muốn dựa vào Khuất Đột Thông làm quân tăng viện, một khi Hà Đông đã mất, Trường An tất sẽ nghe thấy mà kinh hồn bạt vía, khi đó hễ đánh là sẽ thắng.
Lý Thế Dân lại có cách nhìn nhận riêng: Dùng binh quý ở thời gian, thừa thắng tiếp tục tấn công là thuận theo ý nhiều người, hành quân về phía tây là thượng sách mà mọi người đều nghĩ đến. Người của Trường An sẽ trông thấy gió mạnh mà kinh sợ, có trí không bằng dùng mưu, dũng cảm không bằng quyết đoán, "làm được như vậy thì khác nào gây ra một chấn động bên tai". Ngược lại, nếu sai lầm mà lãng phí tháng ngày tại tòa thành kiên cố Hà Đông làm tiêu hao ý chí chiến đấu chắc chắn mọi người sẽ ly tán. Khi đó Trường An sẽ chớp cơ hội hoàn thành công tác phòng thủ, lại cố thủ chờ quân ta mệt mỏi. Chiến pháp như vậy chắc chắn sẽ thất bại. Còn nữa, các hào kiệt ở Quan Trung có ý theo quân ta nhưng vẫn chưa quy thuận, ta mà không kịp thời đến kết nạp thì sau một thời gian bọn họ sẽ trở thành kẻ thù hết. Đến lúc đó, bốn phía đều là quân địch, tiến đánh thì không thắng được mà thoái lui thì không có đường, có hối hận cũng không kịp nữa rồi.
Trong cuộc bàn cãi ai cũng cho rằng mình có lý nên rất sôi nổi ồn ào mà không đạt kết quả gì. Lý Uyên bỗng tuyên bố giải tán cuộc họp, thoáng cười nói rằng: "Ta đã có kế rồi".
Ngày hôm sau Lý Uyên lệnh cho một cánh quân nhỏ tiếp tục bao vây thành Hà Đông, chỉ vây mà không đánh với mục đích kiềm chế sức phòng thủ của Hà Đông, bản thân thì dẫn cánh quân chính nhanh chóng vượt Hoàng Hà, tiến thẳng Trường An.
Tại Triều ấp (Hà Tây), nay thuộc phía tây Đại Lệ, Thiểm Tây, Lý Uyên cho con trưởng Lý Kiến Thành và Lưu Văn Tịnh cùng Vương Trường Hài và vạn binh mã đóng chốt tại kho lương thực Vĩnh Phong để kiên thủ Đồng Quan, phòng có quân Tùy từ phía đông đến trước tăng viện cho Trường An; cho con thứ Lý Thế Dân cùng Lưu Huyền Cơ và Ân Khai Sơn lo phần việc ở vị Bắc rồi từ phía bắc áp sát Trường An, bản thân thì dẫn binh mã cuồn cuộn tiến về phía tây bằng con đường chính kéo thẳng tới Trường An.
Khuất Đột Thông thấy Lý Uyên đã đem quân chủ lực tiến đến hướng Tây bèn lệnh cho Ưng Dương lang tướng Khắc Quân Tố đảm nhiệm chức phòng thủ Hà Đông đồng thời phòng thủ Bạc Bản (nay là châu Tây Bạc, huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây), bản thân ông ta dẫn vạn quân chủ lực đến trợ giúp cho Trường An. Tuy nhiên Lý Uyên đã phòng bị từ trước, Khuất Đột Thông vừa ra khỏi Hà Đông đã bị quân Lý Kiến Thành đón tại Đồng Quan chặn đứng lại ngay ở phía đông Đồng Quan. Còn Lã Thiệu Tông là tướng quân do Lý Uyên cử ở lại bao vây thành Hà Đông lập tức chớp thời cơ phát lệnh tấn công thành. Khuất Đột Thông rơi vào thế tiến lui không có chỗ nên đã phải đầu hàng sau khi Lý Uyên chiếm được Trường An.
Lại nói về Lý Thế Dân được cha cử lo toan mọi việc ở Vị Bắc, dọc đường đã thu nạp số đông quân Tùy và các nghĩa quân nông dân, sau thời gian ngắn đã được mệnh danh là “Thắng binh cửu vạn". Thiết lập doanh trại tại Kinh Dương rồi bình định Phù Phong (nay là Phụng Tường, Thiểm Tây), ít lâu sau lại qua Vị Thủy và đóng quân tại Cố Thành Trường An (nay thuộc đông bắc Tây An, Thiểm Tây).
Lúc này, những người trong họ tộc nhà Lý Uyên như con gái Lý Thị, con rể Đoạn Luân, em họ Lý Thần Thông cũng khởi binh hưởng ứng và còn thu nạp được một số nghĩa quân ở một số vùng lân cận, số người lên tới 10 vạn, chiếm được một số nơi như Lan Điền, Châu Chí, Võ Công, tạo nên vòng vây ba phía đông - nam - tây đối với Trường An.
Ngày 4 tháng 10 năm 617, Lý Uyên đã tiến đến cận thành Trường An và đóng quân tại phía tây bắc Xuân Minh (một trong ba cửa thành phía đông Trường An). Trước đó hai ngày, Lý Kiến Thành cũng dẫn quân từ Đồng Quan đuổi kịp đến Trường An và đóng tại Trường Lạc cung.
Đến lúc này Lý Uyên đã có trong tay đại quân hơn 20 vạn người và đang vây chặt Trường An. Ngày 27 tháng 10, Lý Uyên hạ lệnh tấn công thành. Cháu Tùy Dạng Đế, Đại vương Dương Hiệu mang tiếng là quan trấn giữ Tây Kinh, thật ra mới 3 tuổi không hề có chủ kiến gì. Thủ hạ của Đại vương là quan đại thần Sử Vệ Thăng sợ hãi vỡ mật mà chết. Chỉ còn tướng quân Âm Thế Sử dốc sức chống đỡ nhưng đã như rắn mất đầu nên chẳng thể làm gì được. Lý Uyên chiếm được Trường An dễ như bỡn.
Lý Uyên có thể thuận lợi đánh thắng Trường An là nhờ tính đúng đắn của quyết sách ở Hà Đông. Phía Bùi Kỵ chủ trương đánh Hà Đông trước, Lý Thế Dân lại muốn Quan Trung trước. Lý Uyên đã quyết định giữ lại một bộ phận lính để giám sát và chặn đánh quân Tùy ở Hà Đông, còn quân chủ lực thì tiến thẳng phía tây. Bề ngoài tưởng chừng Lý Uyên đứng ra làm người hòa giải áp dụng biện pháp dung hòa, thực ra đó là diệu kế tổng hợp ý kiến của đám đông, tiến hành một công đôi ba việc. Qua mấy lần giao đấu, Lý Uyên hiểu rằng Khuất Đột Thông vẫn là một tướng Tùy tinh nhuệ lại đang trấn giữ thành trì vững chắc bên sông Hoàng Hà, nếu cứ tiếp tục vây đánh thì không biết chừng nào mới giành được thắng lợi. Bỏ qua Hà Đông mà hướng về phía tây, chỉ cần thấy Trường An có chuyện là Khuất Đột Thông chắc chắn sẽ đến chi viện, lời cảnh báo "trước mặt sau lưng đều có địch" tất sẽ biến thành hiện thực. Quyết sách của Lý Uyên chu đáo từ đầu đến đuôi, vừa tranh thủ được thời gian quý báu lại vừa thu nạp kịp thời đại quân khởi nghĩa ở Quan Trung, đồng thời sau khi hạ được Trường An, Lý Uyên lại nhân cơ hội ép Khuất Đột Thông đầu hàng, có được tướng giỏi lại vừa có được căn cứ địa cực kỳ quan trọng để có thể tiến lên phía trước. Thật đúng là một bước tiến làm xoay chuyển mọi tình thế.
Cách làm "tổng hợp ý kiến đám đông, một công đôi ba việc" cũng chính là cách ứng xử thông minh trong việc làm ăn buôn bán.
Tại bang Michigan của Mỹ có một nhà máy ôtô tên là Asimobi, tình hình kinh doanh của nhà máy đang xấu đi và lâm vào tình trạng phải đóng cửa. Giám đốc nhà máy quyết định cải thiện khâu tiêu thụ nhằm làm thay đổi cục diện. Áp dụng biện pháp tiêu thụ như thế nào là tốt nhất? Giám đốc suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của nhà máy, chú trọng vào sự sống còn của nhà máy, phân tích đánh giá nghiêm túc và so sánh các thủ thuật tiếp thị của các đối thủ cạnh tranh cũng như của các loại hàng hóa khác. Cuối cùng tổng hợp mọi biện pháp, giám đốc đã mạnh dạn đưa ra phương án tiếp thị “mua một tặng một". Hiện nhà máy đang tồn một lô xe con vẫn chưa kịp bán đi, tiền thuê không thể quay vòng mà giá thuê kho trữ hàng ngày một tăng. Vì vậy trong quảng cáo nói rõ: ai mua một chiếc ôtô con hiệu "Tozasi" sẽ được thêm một xe hiệu "South" miễn phí.
Cách tiếp thị mua một tặng một đã có từ lâu và cũng nhiều nơi sử dụng. Nhưng thông thường chỉ tặng miễn phí một số mặt hàng giá trị không lớn. Ví dụ như mua vô tuyến tặng một đồ chơi nhỏ, mua máy ảnh tặng một hộp đựng máy ảnh... Phương thức tiếp thị tặng thêm cho khách hàng một chút lợi nhỏ có tác dụng tiêu thụ sản phẩm rất nhanh. Nhưng lâu dần có nhiều người sử dụng cách này nên khách hàng cũng không còn nhiều hứng thú nữa.
Tặng quà và tiền hoa hồng cho khách hàng cũng là một cách tiếp thị đã cũ nhưng giá trị món quà và khoản tiền hoa hồng vẫn tương đối thấp nên không đạt hiệu quả lớn đối với người tiêu dùng.
Nhà máy ôtô Asimobi, tìm hiểu kỹ càng các biện pháp tiếp thị, tìm ra ưu nhược điểm và cố gắng hết sức khắc phục những khuyết điểm khiến khách hàng nhàm chán, mạnh dạn đề ra biện pháp xuất chúng: Mua một chiếc ôtô tặng một chiếc ôtô , quả nhiên gây kinh động lòng người, khiến nhiều người vốn đã nhàm chán với kiểu quảng cáo này phải mở to mắt, đâu đâu cũng bàn luận xôn xao. Rất nhiều người sau khi biết tin đã chẳng quản đường xa mà đến tận nơi xem sự thể ra sao. Cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của hãng chả mấy chốc đã đông kịt người. Những chiếc xe tồn đọng trước đây không ai thèm hỏi tới nay lại được bán đi với giá 2 .500 đô la, trong quảng cáo một mực nói rằng mua một chiếc ôtô được tặng miễn phí một chiếc "South" mới.
Hãng này tiếp thị như vậy tương đương với việc mỗi chiếc xe được bán rẻ đi 5.000 đô la, liệu có phải là lỗ vốn?
Không những không lỗ vốn mà hãng này còn có thêm nhiều điểm thuận lợi. Bởi vì lô xe đó mà sau một năm không bán được thì lợi tức hao phí, lệ phí thuê kho cùng với phí bảo dưỡng đối với mỗi chiếc xe cũng xấp xỉ với số tiền nói trên. Mà bây giờ xe đã bán hết, tiền vốn nhanh chóng quay vòng, đã có thể tiếp tục sản xuất qui mô lớn, số người dùng xe hiệu "Tozasi" tăng lên rất nhiều, danh tiếng của hãng lớn thêm lên, tỉ lệ chiếm lĩnh trên thị trương cũng cao hơn; lại xuất hiện thêm một hiệu xe mới - xe "South". Hãng xe này nhờ việc "tặng quà , mà nổi tiếng, cuối cùng đã có thể độc lập trụ vững. Nhà máy mô Asimobi từ đó đã cải tử hoàn sinh, kinh doanh càng phát đạt.
 
Chương 19
Tránh lúc địch hăng, đánh khi địch nản


Tháng 8 năm 618, Lý Thế Dân dẫn quân đến Long Tây giao chiến với Tiết Nhân Cảo.
Tiết Cử, cha Tiết Nhân Cảo vốn là một hào sĩ ở Long Tây, giữ chức quan hiệu úy của Kim Thành phủ. Sau nhờ biết nắm bắt thời cơ hành sự nên có trong tay vài chục vạn quân và làm chủ hoàn toàn Long Tây, thanh thế vang dội. Lúc mới đầu tự xưng là Tây Tần Bá Vương, sau lại xưng là Tần Đế. Tiết Cử chết thì Tiết Nhân Cảo kế thừa ngôi vị. Tiết Nhân Cảo giỏi cưỡi ngựa bắn cung, võ dũng hơn người, được mệnh danh "chấp vạn quân địch", đã từng tham chiến trăm trận, mỗi trận đều báo tin đại thắng. Tháng 6 năm 618 đánh bại đại quân Đường do Bát tổng quản dẫn đầu, giết luôn Đường đại tướng quân Lý An Viễn, bắt sống Hoằng Cơ, giết và bắt tù binh hơn một nửa số sĩ tốt quân Tùy.
Tiết Nhân Cảo cũng định tiến công Trường An, tất nhiên không coi Lý Thế Dân ra gì. Lý Thế Dân vừa mới chiếm đóng ở Cao Giá (nay ở phía bắc Trường Vũ, Thiểm Tây), Tiết Nhân Cảo vội phái tướng quân dũng mãnh Tông La Hầu đem quân xông tới đại bản doanh Triết Giá (nay thuộc phía đông bắc Kinh Xuyên, Cam Túc), đứng ở phía trước trướng của Lý Thế Dân dương oai diễu võ, gọi tên khiêu chiến.
Lý Thế Dân không chút phản ứng, nghiêm lệnh cho tướng sĩ phòng thủ cho chắc, không được manh động, trái lệnh sẽ bị chém đầu.
Nhưng Tông La Hầu không hề nản, ngày nối ngày đều ra khiêu chiến, thậm chí còn chửi mắng, quân Đường tức tối không chịu được, ai nấy nắm chặt nắm đấm, hận rằng không được lập tức xuất mã quyết một trận sống còn. Chỉ vì quân lệnh như sơn nên đành phải tìm Lý Thế Dân thỉnh chiến.
Lý Thế Dân tuyên dụ cho các tướng sĩ "Quân ta vừa bị thất bại, sĩ khí hao tổn mà đối phương đang thừa thắng xông lên chắc chắn là đang ở thời điểm mạnh nhất. Quân ta bắt buộc phải cố thủ chặt chiến lũy để nuôi dưỡng nhuệ khí, tránh lúc địch đang hăng. Đợi đến lúc nhuệ khí địch giảm xuống mới có thể đánh một trận thắng.
Các tướng sĩ nghe lệnh cứ bán tín bán nghi, nhưng không tiện tranh luận với Lý Thế Dân đành cố gắng chịu đựng, người nào về chỗ người nấy. Ai ngờ hôm nay không đánh, ngày mai không đánh, thế là đã năm, mười ngày trôi qua, Lý Thế Dân vẫn không thay đổi thái độ, từ tướng quân cho tới sĩ tốt đều nóng máu sôi gan như một ngọn núi lửa chực phun trào, ai nấy đều sẵn khí khái muốn nhanh chóng được quyết chiến một trận với Tiết quân, có chết cũng cam tâm.
Bỗng nhiên có một tướng lĩnh dẫn vài trăm kỵ binh từ phía địch kẻo đến xin hàng Lý Thế Dân. Vị tướng này nói ông ta tên là Lương Hồ Lang, vì trong doanh trại đã cạn lương thực, biết chắc sắp bị quân Đường tiêu diệt nên đến trước để xin hàng. Lý Thế Dân căn cứ mọi tình hình để phán đoán, thấy lời Lương Hồ Lang nói là thật, bèn lệnh cho hành quân tổng quản là Lương Thực dời từ trên cao xuống Thiển Thủy Nguyên dựng trại và khiêu chiến Tiết quân, dụ địch ra đánh.
Tông La Hầu vui mừng quá đỗi, lập tức dẫn quân chủ lực tới đánh Lương Thực. Lương Thực thì lợi dụng địa thế hiểm trở mà kiên thủ. Tông La Hầu đánh mấy ngày không thắng nên sốt ruột vô cùng cứ vòng qua vòng lại và càng bất chấp tất cả mà phát lệnh tấn công.
Lúc này Lý Thế Dân lại lệnh cho hữu võ hầu đại tướng quân Bàng Ngọc xuất trận tại phía nam Thiển Thủy Nguyên. Trước khi đi còn quan tâm dặn dò: nếu Tông La Hầu dẫn quân tới đánh thì phải quyết tâm đánh với hắn đến cùng, không được bỏ chạy.
Bàng Ngọc phụng mệnh đưa quân đến Thiển Thủy Nguyên dàn trận. Chiến trận vừa dàn xong thì Tông La Hầu đã bỏ qua Lương Thực mà kéo đến đem theo rất nhiều binh mã vây chặt Bàng Ngọc để đánh từ bốn phía. Bàng Ngọc hô lớn "Nguyên soái liệu địch như thần, nhất định sẽ có quân chi viện, các huynh đệ chớ có sợ hãi, phải quyết tâm tiêu diệt địch! Ta cũng quyết không sống một mình!". Nói xong thì thúc ngựa dẫn đầu quân xông vào giữa quân Tông La Hầu chém giết. Các thuộc hạ của Bàng Ngọc đã phải chờ đợi hơn hai tháng, mong mỏi có cơ hội để quyết chiến, nay đã ở vào tình thế như vậy mà không quyết chiến thì chỉ còn đường chết, thế nên tất cả đều hăng hái noi gương Bàng Ngọc dũng cảm xông lên, lấy một chọi mười.
Máu chảy đầu rơi không kể xiết, ông trời nhìn thấy phải buồn lòng. Quân Đường anh dũng, quân Tiết người đông, nhất thời khó mà phân biệt cao thấp. Nhưng Bàng Ngọc thừa biết nếu dựa vào thực lực thì có anh dũng đến đâu cũng không chọi nổi nhiều người, vì thế chẳng mấy chốc đã trông thấy rõ thế yếu của quân Đường. Bàng Ngọc đang lo lắng trong lòng, bỗng thấy các sĩ tốt trong đám quân của Tông La Hầu cứ thi nhau tháo chạy, có một đại soái quân Đường tay cầm trường mâu bỗng đột ngột xuất hiện, đằng sau lại có thêm vài mãnh tướng đang hăng hái ứng viện Bàng Ngọc. Bàng Ngọc thấy người đang tiến đến không phải ai khác mà chính là đại soái chinh phạt phía tây Lý Thế Dân lần này đến bình định Long Hữu.
Bàng Ngọc và các tướng sĩ hứng khởi lạ thường cùng nhau kết hợp với chủ soái đánh địch, bên ngoài lại cổ quân Đường tiếp ứng, trong ngoài dồn đánh. Quân Tiết đang lớn mạnh như sơn bỗng nhiên tan tác chi còn lại những sinh mạng cuối cùng đang bị bắt, bị giết.
Trong chiến dịch này, thế lực Lý Thế Dân so sánh với thế lực của quân địch thì rõ ràng là không bằng nên phải dùng cách "tránh lúc quân mạnh, đánh khi quân rệu rã". Trước tiên dưỡng binh, dụ quân địch cầm cự được hai tháng, đợi khi quân địch lương thực thiếu thốn, ý chí giảm sút, chỉ muốn quay về nhà thì sẽ dụ địch giao chiến. Sau đó bất ngờ xuất kỳ binh, đánh nhanh thắng lớn, triệt để bẻ gãy ý chí quân địch. Dưỡng quân hai tháng thì có thể đạt được hiệu quá trong khoảnh khắc diệu kỳ. Đối diện với hoàn cảnh này, cần phải đạt được hiệu quả tốt đẹp, với cách chống giặc này của Lý Thế Dân thì có thể xem là thượng sách.
Một số công ty của Nhật và một số công ty Mỹ tiến hành một cuộc đàm phán lớn về kỹ thuật. Khi đàm phán bắt đầu, một đại biểu cấp cao phía Mỹ đưa ra một đống lớn tài liệu đủ loại về thông số kỹ thuật, vấn đề cần thương lượng, phí tổn... rồi thao thao bất tuyệt nói những ý kiến phía công ty mình mà chẳng hề để ý đến phản ứng các đại biểu của các công ty bên Nhật. Nhưng thực tế thì đại biểu của phía công ty bên Nhật Bản cũng chẳng hề phát biểu gì mà chỉ ngồi chăm chú lắng nghe, ghi chép.
Sau khi phía Mỹ thuyết trình mấy tiếng đồng hồ liễn hỏi ý kiến trưng cầu của đại biểu Nhật Bản. Dường như những đại biểu bên phía Nhật Bản đã bị khí thế ào ạt của Mỹ làm cho trở nên hoang mang, khiếp sợ. Họ chỉ biết lặp đi lặp lại không ngừng: "Chúng tôi chẳng rõ ", “chúng tôi còn chưa chuẩn bị kỹ càng ", “chúng tôi còn chưa có thông số kỹ thuật", "xin hãy cho chúng tôi thời gian để còn chuẩn bị". Thế là lần đàm phán đầu tiên kết thúc một cách không đầu không cuối như vậy.
Vài tháng sau, lần đàm phán thứ hai lại được mở ra. Phía các công ty Nhật Bản có lẽ cho rằng đoàn đại biểu đi đàm phán lần trước không cân sức nên đã đổi toàn bộ thành viên. Đoàn đàm phán mới đến nước Mỹ làm phía Mỹ lại phải lần nữa trình bày lại nội dung mà lần trước họ đã trình bày. Chẳng ngờ kết quả cũng như lần đàm phán trước với lý do “chuẩn bị không đầy đử" "còn cần phải nghiên cứu lại" để kết thúc cuộc đàm phán.
Về sau, lần đàm phán thứ ba cũng kết thúc với những lý do tương tự từ phía các công ty Nhật Bản. Khi vòng đàm phán thứ ba lại kết thúc một cách không rõ ràng như vậy, ông chủ của công ty phía Mỹ không kìm nén được giận dữ, cho rằng trong lần làm ăn này phía Nhật không có thành ý coi nhẹ kỹ thuật và cơ sở của công ty mình nên đã đưa ra thông điệp cuối cùng: Nếu sau nửa năm nữa mà phía Nhật vẫn còn tình trạng như thế thì sẽ xé bỏ hợp đồng hợp tác giữa hai bên. Vì thế, đoàn đàm phán cũng bị công ty phía Mỹ giải tán, phong tỏa toàn bộ tài liệu đợi nửa năm sau đàm phán.
Không ngờ, chi vài ngày sau phía Nhật Bản đã đưa toàn bộ những thành viên đã từng tham gia các cuộc đàm phán trước đó rầm rộ bay đến Mỹ. Công ty phía Mỹ vô cùng kinh ngạc trước sự việc vừa xảy ra vội vàng triệu tập những thành viên của đoàn đàm phán mà nay đã tản mỗi người một nơi quay về để một lần nữa ngồi vào bàn thảo luận.
Lần đàm phán này, thái độ của phía Nhật Bản hoàn toàn khác trước, họ mang đến một số lớn các tài liệu, thông số có sức thuyết phục cao, bản kê chi tiết tất cả các hạng mục có liên quan đến kỹ thuật, sắp xếp hợp tác, nhân sự, nguyên liệu... thậm chí còn hết sức tỉ mỉ và rất vững chắc cho phía Mỹ xem rồi đưa cho họ bản hợp đồng hợp tác để phía Mỹ ký vào.
Người Mỹ trong một phút hồ đồ đã chẳng tìm ra một điều gì sai sót trong bản hợp đồng nên đành phải ký. Chẳng cần nói bản hợp đồng này có lợi như thế nào thì ai cũng biết rồi.
 
Chương 20
Truy đuổi tàn quân đến cùng


Mùa đông năm 618, Lý Thế Dân âm thầm chịu đựng sự khiêu chiến và nhục mạ, chỉ sau khi thành Cao Giá chỉ giữ được không đầy hai tháng Lý mới lãnh đạo kỵ binh bất ngờ đánh vào đội quân Tông La Hầu diễu võ dương oai. Đội quân Tông La Hầu được lãnh đạo bởi "Tần Đế" Tiết Nhân Cảo gồm toàn những quân tinh nhuệ. Bản thân Tông La Hầu cũng là một vị tướng lĩnh dũng mãnh nhưng thấy mình đang rơi vào thế cục thua mười mươi nên đành phải theo đám bại binh tiến vào vùng rừng hoang.
Lý Thế Dân không rời khỏi yên cương ra sức thúc quân truy kích, đội quân hùng hậu cuối cùng cũng cắt bỏ bớt đi bộ binh mà chọn lấy 2.000 kỵ binh tinh nhuệ, đích thân dẫn đầu truy đuổi với tốc độ cao nhất. Tông La Hầu vì tính mạng của mình nên sợ hãi vô cùng chẳng còn biết đông tây gì nữa, Lý Thế Dân cứ thế ào ạt truy đuổi về đến Triết Giá (nay là đông bắc Kinh Xuyên, Cam Túc).
Thành Triết Giá là trấn thủ của "Tần Đế” Tiết Nhân Cảo. Tiết Nhân Cảo có biệt danh là "Vạn nhân đích", có hàng vạn tướng lĩnh tài giỏi, dùng toàn bộ vùng đất rộng lớn Bảng Thạch để làm căn cứ, thực lực vô cùng hùng hậu đã từng trong 6 tháng đánh quân nhà Đường thua tan tác do Bát tổng quản lãnh đạo. Một vị tướng sĩ là chú của Lý Thế Dân thấy Lý Thế Dân chỉ đem theo 2.000 kỵ binh tiến đánh Triết Giá không thể không lo sợ bèn vội vàng khấu đầu khuyên can: "Quân của ta tuy có thể đánh bại được Tông La Hầu nhưng Tiết Nhân Cáo anh dũng, lại được lợi thế thành trì kiên cố, không thể vọng động. Xin hãy hạ lệnh thu quân tạm thời nghỉ ngơi, đợi thương lượng xong rồi hãy quyết định hành động” .
Lý Thế Dân bèn đáp: "Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi, thế cục ngày hôm nay đã rất rõ ràng, không thể bỏ qua. Xin chú đừng nhiều lời! , Nói đoạn thúc binh khiển mã lập tức tiến đánh Triết Giá.
Quân Tiết Nhân Cảo bày binh bố trận bên ngoài thành Triết Giá chờ đợi với mục đích chặn quân của Lý Thế Dân ở bên kia sông Kình.
Hai bên lâm trận, chưa giao đấu ở tuyến đầu thì không ít tướng lĩnh của Tiết Nhân Cảo đã vượt sông Kình sang đầu hàng Lý Thế Dân. Tiết Nhân Cảo thấy tướng sĩ không còn ý chí chiến đấu nữa vội vàng rút binh vào thành cố thủ.
Chẳng lâu sau, trời đã xế tà, đại quân của Lý Đường đã truy kích đến bèn hợp lực vây quanh hào dưới chân thành liên tục ào ạt công kích. Quân tinh nhuệ của Tông La Hầu càng ngày càng suy giảm, đến nửa đêm, những tướng lĩnh giữ thành lần lượt ra đầu hàng. Quân Tiết Nhân Cảo trí cùng lực kiệt không còn cách nào khác phải mở cổng thành cho Lý Thế Dân, quân Đường đánh bại Tây Tần, thu được vùng đất Bảng Thạch to lớn.
Sau khi Lý Thế Dân chiến thắng, không ít tướng lĩnh thuộc hạ hỏi ông: "Sau khi chiến thẳng Tông La Hầu, lại bỏ bớt bộ binh, không dùng công cụ gì để đánh thành, chỉ dùng kỵ binh truy kích, rồi chẳng phải phí sức lực bao nhiêu mà chiếm được thành Triết Giá là bởi làm sao?”. Lý Thế Dân đáp: "Quân của Tông La Hầu lãnh đạo đều là bọn thô lỗ vùng tây bắc, vũ dũng vô mưu. Chúng ta chỉ dựa vào may mắn mới đánh bại được chúng, nhưng chỉ là làm chúng tan tác mà số quân bị bắn chết thì không nhiều. Nếu lúc đó chúng ta không truy đuổi đám tàn quân thì chúng tất sẽ chạy được về tới đại bản doanh Triết Giá, chẳng khó khăn gì Tiết Nhân Cảo cũng phục hồi lại được đám tàn quân trở nên dũng mãnh, sau đó cố thủ trong thành, chúng ta có muốn tấn công cũng khó. Chi bằng mượn cơ hội này truy kích đám tàn binh đến cùng làm cho chúng hết lối quay về thành, chỉ có thể từ xa đánh lại, như thế thành Triết Giá đương nhiên sẽ suy yếu. Tiết Nhân Cảo cũng bị dũng khí của quân ta làm cho khiếp sợ chẳng kịp nghĩ ra mưu kế gì được chỉ còn nước đầu hàng. Chúng ta truy đuổi đám tàn quân đến cùng nên chiến thắng mới đến dễ dàng như vậy".
Quân sĩ nghe xong không thể không phục, đồng thanh nói: “Đại vương mưu trí hơn người, thành khó mấy cũng hạ được".
Rõ ràng, mọi người vẫn nghĩ, đã là tàn binh rồi thì chẳng còn nguy hiểm gì hà tất phải đuổi đến cùn? Nhưng những người thực sự có trí tuệ lại không cho là như vậy bởi vì truy đuổi đến cùng đám tàn binh lại là một cách cực kỳ hiệu quả.
Hai mươi năm trước đã có người làm một thống kê vui: Đem toàn bộ số chai Coca Cola đã bán xếp theo chiều thẳng đứng thì chiều dài của nó bằng 5 lần đến và về từ trái đất đến mặt trăng, hoặc nếu xếp thành một con đường rộng 7,5 mét thì có thể quấn 5 vòng xích đạo.
Coca Cola là sản phẩm với hương vị và bao bì độc quyền, nhãn mác tinh đẹp, quảng cáo ấn tượng, qua mấy đời vất vả kinh doanh nay đã trở nên thịnh hành toàn cầu, chiếm thị phần cực lớn trên thị trường. Già trẻ đều thích uống Coca Cola, hơn nữa mạng lưới tiêu thụ mạnh mẽ khiến cho nó có mặt khắp nơi trên thị trường. Đây gọi là công kích không ngừng.
Đối với một công ty số một trên thế giới mà nói, tất cả các tập đoàn nước giải khát đều là bại tướng của họ, đều là tàn quân không đường thoát. Đối với những kẻ bại trận không có khả năng chống trả thì Coca Cola có thái độ coi thường cho rằng mình chỉ cần giữ vững ngôi vị của mình, không cần phải “cạn tàu ráo máng” .
Không ngờ Coca Cola vừa có biểu hiện lơi lỏng thì vô số “tàn quân" lại gượng dậy được, thậm chí một số trong đó còn trở thành "đạo quân" mạnh bắt đầu khiêu chiến đến cùng ngôi vị độc tôn của Coca Cola, bắt đầu xâu xé lãnh địa độc tôn của vương quốc Coca Cola trong đó công ty Pepsi ra đời sau Coca Cola 2 năm lại trở thành một "đạo quân" hùng mạnh.
Trong cuộc chiến thứ hai, lượng tiêu thụ của Pepsi chưa bằng một phần tư của Coca Cola. Pepsi đã đánh trúng vào tâm lý tự cho mình là "anh cả" của Coca Cola, dựa vào đặc trưng văn hóa của hiện tượng thay thế càng ngày càng nổi bật từ sau cuộc chiến lần thứ hai, nhất là từ những năm 60 trở lại đây, Pepsi đã đoán đúng ý nguyện của thanh niên muốn phản kháng kịch liệt, phân biệt ranh giới rõ ràng với thế hệ những người lớn tuổi, đề ra hàng loạt các khẩu hiệu quảng cáo như: "Ngày nay đối với những người tiêu dùng tự nhận mình là thanh niên, Pepsi chính là sự lựa chọn tốt nhất của các bạn", "Pepsi - sự lựa chọn của thế hệ mới” nên đã đoán được tâm lý của thanh niên muốn chạy theo mốt thời trang, muốn thoát khỏi cách sống của thế hệ trước, đồng thời cũng thu hút được những người già và trung niên muốn thể hiện mình vẫn còn tràn đầy sức trẻ. Trong các phương thức quảng cáo của mình Pepsi luôn thể hiện chủ đề nổi bật là thanh niên hăm hở, thả sức uống Pepsi, từ đó thúc đẩy sự lựa chọn dùng Pepsi của thanh niên, kích thích ham muốn được dùng của họ, xây dựng vững chắc hình tượng trẻ trung của sản phẩm.
Đối mặt với sự tiến công hùng hổ đầy vẻ hăm dọa của Pepsi, Coca Cola đang trên "ngai vàng" cũng bủn rủn cả chân tay, tỏ rõ sự bất lực. Sự phòng ngự tiêu cực liên tiếp dẫn đến sự hao binh tổn tướng, mất dần thị trường của Coca Cola. Đến năm 1985 thị phần của Pepsi đã vượt trên cả Coca Cola, gấp 1,5 lần Coca Cola.
Tình hình đã có những biến đổi đầy kịch tính, lúc đó Coca Cola trở thành kẻ bại trận. Nhưng Pepsi vẫn không hề có ý buông lỏng, một mực truy đánh đến cùng ngay trước hôm Coca Cola tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập. Pepsi đã “đuổi”, đến tận cửa nhà Coca Cola, khơi dậy một cuộc quyết chiến với khí thế rầm rộ.
Pepsi đã tiến hành một cuộc trắc nghiệm ngầm về mùi vị sản phẩm, kết quả là đa số người tiêu dùng đều rất thích Pepsi chứ không phải là Coca Cola!
Đây có thể coi là một cuộc tử chiến về chất lượng "ngắm đúng sào huyệt"! Song trong buổi lễ mừng 100 năm ngày thành lập đó Coca Cola đã thất bại thảm hại!
Pepsi vẫn không chịu buông lơi như cũ, thừa thắng xông lên, tiến hành một cuộc tô vẽ trên quy mô lớn trong cuộc cạnh tranh này. Coca Cola muốn tránh cũng không được, quyết định bắt đầu nghiên cứu chế tạo ra một phương pháp phối chế mới - nhất thiết phải thắng được Pepsi về chất lượng khẩu vị, sau đó vào tháng 4 năm 1985 đột nhiên tuyên bố sẽ thay đổi phương pháp phối chế đã dùng suốt 99 năm qua, áp dụng phương pháp vừa nghiên cứu thành công, đồng thời tuyên bế sẽ lập một kỷ lục mới trong ngành thức uống của Coca Cola dựa vào phương pháp mới. Chuyện này đã trở thành một bản tin gây chấn động toàn cầu.
Không ngờ đây lại là một nước cờ sai lầm dẫn đến việc chữa lợn lành thành lợn què: Coca Cola vốn là cùng sinh trưởng với nước Mỹ và từ lâu đã trở thành biểu tượng của tinh thần văn hóa dân tộc của nước Mỹ, thay đổi cách pha chế thì rõ ràng đã làm tổn hại đến tình cảm của rất nhiều người tiêu dùng. Mỗi ngày công ty Coca Cola nhận được vô số những bức thư và 500 cú điện thoại phản đối, thậm chí còn mở ra một cuộc biểu tình phản đối. Công ty Coca Cola đã thật sự trở thành một "kẻ bại trận" cùng đường từ "ngôi vua".
Pepsi lại vẫn "thừa thắng truy đuổi tàn quân", họ đã ngay lập tức làm quảng cáo phát liên tục 3 tháng liền trên truyền hình và đã giành được những khách hàng thường xuyên yêu thích Coca Cola, thay đổi địa vị vốn rất uất ức từ bao lâu nay.
Công ty Coca Cola đang ở trong bước đường cùng lại phải đối mặt với đòn truy kích "tàn nhẫn" như vậy cũng đã nhanh chóng tỉnh ngộ ra. Vì thế mà trong lúc tìm đường tháo chạy luôn luôn tìm cách mượn cớ phản kích để khôi phục địa vị huy hoàng. Một cuộc chiến lại bắt đầu. Mà trước khi tiến hành cuộc truy kích triệt để, cuộc đại chiến cạnh tranh đó luôn luôn như là lúc "vở kịch mới bắt đầu", chưa biết ai thắng ai thua mà chỉ có thể thấy ai là người thực sự truy kích được tàn quân, giết chết những tế bào có khả năng làm cho đối thủ đã lụi bại lại sống dậy.
Coca Cola lại bắt đầu phấn chấn, hăng hái trở lại, dốc toàn lực vào cuộc "huyết chiến gian khổ” hơn.
 
Chương 21
Dốc toàn lực lượng, nắm bắt cơ hội


Sau khi Lý Uyên kiến lập triều Đường và củng cố Quan Trung, lực lượng có thể chống chọi với Lý Đường chỉ có hai thế lực lớn là của Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức, vì vậy Lý Uyên thừa thắng rời Quan Trung hướng thẳng phía đông bình định Trung Nguyên, thống nhất toàn quốc.
Không ngờ vào tháng 4 năm Vũ Đức thứ 2 đời Đường Cao Tổ (năm 619), Đột Quyết xúi giục Lưu Vũ Chu phát lệnh đánh Đường, tiến công Tiên Thứ (nay là Tiên Thứ thuộc tĩnh Sơn Tây), tập trung đánh Thái Nguyên. Quân Đường phải tăng viện mấy lần mà vẫn bị đại bại. Trấn giữ Thái Nguyên là Lý Nguyên Cát trong đêm dẫn bầu đoàn thê tử tháo chạy đến Trường An. Lưu Vũ Chu men theo phía nam Phần Thủy, Phổ Châu (Châu Trị nay thuộc Lâm Phần, Sơn Tây) tiến quân, hầu như không thành nào không phá. Tháng 10 lại qua Phổ Châu, Cối Châu (nay là Dực thành ở Sơn Tây). Cùng thời gian đó, một nông dân người Hạ Huyện tên là Lữ Sùng Mậu vì phản đối quân Tùy thực hiện vườn không nhà trống nên đã tập hợp quân khởi nghĩa cùng hưởng ứng với Lưu Vũ Chu. Vương Hành Bản trước cũng là Tùy tướng đang ở Bạc Bản cũng nhân cơ hội câu kết với Lưu Vũ Chu. Vì thế thành Hà Đông của nhà Đường trong phút chốc đã bị thất thủ.
Được tin Thái Nguyên thất thủ, Lý Uyên vô cùng kinh hãi: “Cường binh Phổ Dương có tới hàng vạn, lương thảo có thể dừng cả 10 năm, một nơi hưng thịnh như vậy mà phải mất vào tay bọn chúng” . Lại một Hà Đông, Quan Trung bị đe dọa, lòng người hoang mang nhụt mất chí phòng thủ. Lý Uyên thấy “quân đạo tặc mạnh như vậy thì ta khó lòng mà chống cự” , đành phải "hy sinh phía đông Hoàng Hà, thận trọng gìn giữ Quan Trung vậy", có vẻ như hy vọng thống nhất Trung Nguyên đã bị dập tắt.
Lý Thế Dân thì lại không chịu buông xuôi mà cho rằng chỉ cần nỗ lực giành giật lại Hà Đông để tranh thủ tình hình có lợi ban đầu là có thể giữ được. Đoạn, không ngại nguy hiểm, hăng hái xung phong: "Không lấy lại Hà Đông thì Quan Trung sau này cũng sẽ cùng chung số phận, càng không thể nói đến việc thống nhất đất nước. Nguyện xin dẫn 3 vạn tinh binh đi bắt Lưu Vũ Chu, dẹp tan quân đạo tặc, chiếm lại thành đã mất".
Đây là một trọng trách vô cùng nguy hiểm, gian khó mà hy vọng lại cực nhỏ, nhưng Lý Thế Dân vẫn quyết lợi dụng khoảng thời gian tháng 11 năm nay sông Hoàng Hà đóng băng, dẫn quân vượt qua sông đến đóng quân tại Bách Bích (nay là phía tây nam Tân Triết, tỉnh Sơn Tây) - nơi có thể trông thấy thuộc hạ của Lưu Vũ Chu là Tống Kim Cương mà phẫn nộ.
Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) vừa bị Đậu Kiến Đức đánh bại nay quy hàng theo Lưu Vũ Chu. Hắn trở thành em rể của Lưu Vũ Chu, lần này xuống phía nam đánh quân Đường hắn luôn đi tiên phong, qua ải chém tướng dễ như trở bàn tay.
Lý Thế Dân thừa hiểu rằng đối với một kẻ thù hung mãnh như vậy, chỉ có thể bằng cách tranh thủ lúc có thời cơ thuận lợi mới có thể tiêu diệt; khinh suất manh động thì chỉ có thể là đi lại vết xe đổ. Vì vậy, sau khi định quân ở Bách Bích, chăm ngựa mài binh, sẵn sàng chiến đấu, chỉ cho bộ phận nhỏ binh mã ra quấy nhiễu, còn quân chủ lực kiên quyết không ra đánh, nằm im chờ cơ hội. Tống Kim Cương ra sức công thành nhưng Lý Thế Dân vẫn nằm im bất động, chỉ dùng cung bắn tên để đuổi lui quân địch.
Tháng 12, Lý Thế Dân cho một đội quân dùng chiến thuật “địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến" liên tục gặp thuận lợi và giành thắng lợi liên tiếp. Tướng lĩnh nhà Đường sốt ruột phát ngứa chân tay, thi nhau thỉnh chiến. Lý Thế Dân lại nhận thấy thời cơ chưa đến nên bỏ ngoài tai tất cả và ra nghiêm lệnh nằm im tịnh thủ Bách Bích.
Mãi tới tháng 4 năm sau, Tống Kim Cương mặc dù có tinh binh mãnh tướng nhưng rồi nhuệ khí cũng giảm. Lương thực dự trữ trong kho đã hết, hiện hoàn toàn duy trì bằng cách đi cướp bóc, lại thấy Lý Thế Dân cố thủ không chịu đánh, không có cách nào giành thắng lợi sớm nên đành cho bọn Tầm Tương đi sau yểm trợ để tản về phía bắc. Khi đó Lý Thế Dân mới chụp lấy cơ hội phá cổng thành, quyết đánh không tha.
Lý Thế Dân đuổi kịp và đại phá quân Tầm Tương tại Lữ Châu (nay là Hoắc Huyện, tỉnh Sơn Tây). Sau đó không một phút chậm trễ, tiếp tục đuổi theo, một ngày đêm hành quân hơn 200 dặm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ. Đuổi đến Cao Bích Lĩnh (nay thuộc phía nam Linh Thạch, tỉnh Sơn Tây) thì quân Lý Thế Dân cũng hết lương thảo, sĩ tốt cũng mệt mỏi nhiều. Lưu Hoằng Cơ vội kéo dây cương ngựa của Lý Thế Dân nói rằng: "Đại vương đánh giặc, suốt từ phía bắc tới đây là đủ rồi còn định đuổi tiếp, không thiết sống nữa hay sao?! Hơn nữa quân sĩ đói mệt, cho dù thế nào cũng phải chờ lương thảo tới. Đợi quân sĩ no bụng có đủ dũng khí rồi đuổi tiếp cũng chưa muộn mà!". Nhưng Lý Thế Dân bảo: "Tống Kim Cương cùng đường tháo chạy, quân lính đang phân tâm. Phải biết rằng lúc này đang là cơ hội hiếm có để giành thắng lợi nhưng cũng dễ dàng bị tuột mất. Cơ hội đang ở trước mắt, đâu có thời giờ nghĩ đến chuyện mệt mỏi đói khát? Nếu chờ lương thảo tới, một khi cơ hội đã mất đi thì khi đó có hối cũng muộn rồi!”. Nói rồi lại giục ngựa đuổi theo, đuổi đến Tước Thử Cốc (nay là Hiệp Cốc ở phía tây nam Giới Tức, tỉnh Sơn Tây), trong một ngày giao đấu với Tống quân 8 hiệp, bắt giết hơn vạn người, Tống Kim Cương hồn bay phách lạc lại tiếp tục tháo chạy.
Lý Thế Dân hai ngày chưa được nghỉ ngơi, ăn uống. Lúc đó chỉ còn một chú dê nhỏ nên hạ lệnh đem giết thịt. Tướng sĩ cũng đang rất đói lại phải nhanh chóng tiến quân về phía bắc. Tống Kim Cương trong tay chỉ còn hơn vạn binh sĩ, vừa mới đến thành Giới Hưu, không thể ngờ rằng Lý Thế Dân đã đuổi đến nơi nên vừa lâm trận đã bị đánh bại bỏ lại binh mã tháo chạy về phía bắc.
Lý Thế Dân đang tìm cách chiêu hàng thuộc hạ của Tống Kim Cương là Uất Trì Cung và Tầm Tương thì có người vào báo: Lưu Vũ Chu ở Tịnh Châu (tức Thái Nguyên, thấy Tống Kim Cương bị thất bại hoàn toàn sợ Lý Thế Dân đuổi đến nên đã tháo chạy về phía bắc. Nghe tin, Lý Thế Dân vội vã dẫn kỵ binh ngày đêm bắc tiến. Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương quả thật bị sợ hãi vô cùng chi biết đem hơn 100 kỵ binh nhằm hướng Đột Quyết mà đi, về sau bị bỏ mạng ở Đột Quyết.
Vùng Hà Đông lại quay về với Lý Đường, một lần nữa thế tranh hùng hướng Đông của nhà Đường lại xuất hiện.
Lý Thế Dân không hổ danh là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử. Ông vận dụng mưu lược, chờ đợi, nắm chắc thế cục không sợ hiểm nguy, khó khăn, không màng mệt, mỏi, không tiếc sinh mệnh của mình. Ông đã trở thành một nhân vật cực kỳ kiệt xuất và tài trí.
Không chi có một người như vậy, trong thế giới thương nghiệp cạnh tranh khốc liệt cũng có người đã dùng lực mỏng của mình để nắm lấy thời cơ thích hợp, đó là ông chủ hãng tàu Onasiss.
Onasiss vốn là một kẻ trắng tay và cũng là một kẻ thường dân vô danh tiểu tốt, thế mà một bước ông đã trở thành một trong những người giàu nhất thế giới, dùng tỉ đô la mua được nhiều tài sản lớn như đoàn tàu thương mại lớn nhất thế giới, đảo Skerbiao trên biển Ainia, vài xưởng đóng tàu, hơn 100 công ty... có thể nói bí quyết của ông là cần mẫn tìm cơ hội, nắm chắc chắn cơ hội đó và trong thời khắc then chốt dám bỏ đồng tiền cuối cùng của mình ra cho cơ hội đó.
Không chịu bằng lòng với cuộc sống nghèo khó, 6 tuổi Onasiss đã lênh đênh phiêu bạt trên biển tới Hy Lạp. Đến Buenos Aires cậu bèn đi tìm việc làm. Cậu được làm thợ hàn, mỗi ngày làm việc chăm chỉ 16 tiếng, cuối cùng cậu đã để dành được một khoản tiền. Không bằng lòng với cuộc sống bình thường, cậu bắt đầu đi tìm cơ hội cho một việc làm tốt hơn. Cậu cũng tìm được một chân nhân viên trong công ty điện thoại. Không lâu sau cậu cũng bỏ luôn công việc lý tưởng này bởi cậu muốn đi tìm cơ hội cho một doanh nghiệp có thể phát tài lớn.
Onasiss kiên trì để kiếm tìm cơ hội, dũng cảm nắm bắt cơ hội và cậu cũng đạt được thành công nho nhỏ. Đến năm 24 tuổi cậu đã có 100.000 đô la, đồng thời làm tổng lãnh sự của chính phủ Hy Lạp đóng tại Buenos. Thế là cậu được tiếp xúc với thuyền bè và lại tiếp tục tìm cơ hội của một ông chủ tàu.
Năm 1929, các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, cục diện kinh tế bị lâm vào cảnh hỗn loạn và tuyệt vọng nhưng với Onasiss thì đây quá là cơ hội trời cho. Giống như lần trước tự mình bước vào thương trường, Onasiss vứt bỏ những gì mình đang có, tập trung 20.000 đô la để mua 6 chiếc thuyền chở hàng. Ai cũng cho rằng Onasiss là một gã ngốc nghếch, yên lành làm một ông chủ thì không muốn lại vứt tiền xuống biển, ai lại đi mua thứ mà lúc đó ai cũng nghĩ là sẽ chẳng ngóc đầu lên được đó là ngành vận chuyển hàng hải. Sau đó, chiến tranh thế giới lần hai nổ ra, cuộc chiến tranh đã thổi một làn hơi thần kỳ vào ngành vận chuyển hàng hải, chi trong một đêm 6 con tàu sắt của Onasiss đã biến thành một núi vàng. Chiến tranh kết thúc cũng là lúc Onasiss trở thành kẻ có tiền có thế, trở thành một ông chủ tàu lớn.
Cuộc chiến tranh thế giới lần hai kết thúc để lại một đống đổ nát, các thương gia đặc biệt là các chủ tàu đang còn hoang mang bất yên không biết phải xử trí thế nào, Onasiss bèn chế tạo một số lớn các tàu chở dầu bởi ông biết rõ kinh tế sẽ dần hồi phục và phát triển, hơn thế nữa dầu hỏa và năng lượng sẽ là mục tiêu lớn nên ông đã cho tung ra một số lớn tàu chở dầu.
Quả nhiên, không lâu sau, tàu chở dầu của Onasiss trúng quả lớn khiến cho ông trở thành một người giàu có như ngày hôm nay.
Onasiss không bao giờ cảm thấy tự hài lòng, luôn luôn để ý kiếm tìm cơ hội phát tài, và khi cơ hội đến thì ông nắm chặt trong tay. Vì thế tiền bạc của ông không ngừng được tăng thêm, ông chủ tàu lớn mãi mãi là danh hiệu dành cho ông.
Cơ hội giống như sao băng trên trời, chỉ lóe sáng rất nhanh nhưng ánh sáng lại tuyệt đẹp, đại bộ phận người đều chậm chân để theo dõi được luồng ánh sáng kỳ diệu đó, chỉ có những người toàn tâm, toàn ý kiếm tìm cơ hội mới nhận thấy, chiêm ngưỡng được thứ ánh sáng ấy và cũng chi có những người không chậm bước, biết toàn tâm, toàn lực nắm lấy cơ hội mới có thể đuổi kịp ánh sáng của nó. Đó chính là những người thông tuệ siêu phàm như Lý Thế Dân, Onasiss.
 
Chương 22
Quyết đoán thế cục, biết liệu rõ tương lai


Năm 620, nhà Đường đang ở thế ổn định, đã khống chế được một số vùng đất rộng lớn: Bàng Thạch, Hà Đông, Ba Thục... đối thủ chính chỉ còn Vương Thế Sung ở Lạc Dương và Đậu Kiến Đức ở Hà Bắc. Nhà Đường liền phái sứ thần sang câu kết với Đậu Kiến Đức nhằm giữ thế trung lập. Sau đó, vào tháng 7 liền ra lệnh cho Lý Thế Dân thống lãnh 7 đại quân, 25 đại tướng và hơn 100.000 binh mã tiến đánh Lạc Dương với mục đích tiêu diệt thành Lạc Dương của Vương Thế Sung.
Ngay lúc đầu, thế của quân Lý Thế Dân như chẻ tre, vô cùng thuận lợi, đến tháng 9 họ đã quét sạch được cứ điểm ngoại vi, vây khốn Lạc Dương. Lý Thế Dân muốn đánh nhanh hạ gục thành nhưng không ngờ Vương Thế Sung dựa vào thế thành cao hào sâu cố thủ kiên quyết, dằng dai mãi đến đầu năm sau mà thế cục chẳng mấy sáng sủa là bao. Tướng sĩ mệt mỏi, kiệt sức lại thêm nhớ nhà nên đều muốn quay về phía tây. Ngay cả Đường Cao Tổ Lý Uyên ở nơi xa xôi cũng nhận thấy thành Lạc Dương khó đánh bèn mật lệnh cho Lý Thế Dân lui quân. Nhưng Lý Thế Dân vẫn giữ vững lòng tin rằng sẽ hạ bằng được thành Lạc Dương nên một mặt hồi đáp Đường Cao Tổ xin lui thời gian rút binh, để tiếp tục vây thành, mặt khác hạ lệnh cho các binh sĩ đang chán nản: "Ngày nào thành Lạc Dương chưa bị hạ thì chưa thể lui quân, ai dám bàn lùi chém ngay không tha", quân sĩ đành phải miễn cưỡng ở lại bên ngoài thành Lạc Dương mà không dám ỉ eo than vãn.
Trong lúc tinh thần binh sĩ đang giao động, tiến thoái lưỡng nan thì đột nhiên có tin báo từ phía đông: Đậu Kiến Đức - người vừa câu kết với nhà Đường đã dấy hơn 100.000 binh hòng hỗ trợ Vương Thế Sung. Quan Châu - vùng mới thu phục đã rơi vào thất thủ, các huyện bên như Huỳnh Dương, Dương Địch đã lần lượt bị mất. Quân Đậu Kiến Đức đang ngày đêm hướng về thành Lạc Dương thẳng tiến.
Thì ra, Vương Thế Sung thấy quân Đường vừa khởi binh liền chạy đến chỗ Đậu Kiến Đức xin cứu viện. Đậu Kiến Đức muốn duy trì thế chân vạc giữa ba nước thì nước mình mới được an toàn nên một mặt đồng ý lời yêu cầu của Vương Thế Sung, một mặt phái người khuyên Lý Thế Dân bày binh bố trận tấn công Lạc Dương. Lý Thế Dân đã không để tâm đến sứ thần, một mình tấn công Lạc Dương. Đậu Kiến Đức nhìn thấy thành Lạc Dương rơi vào thế nguy khốn liền sợ nếu Vương Thế Sung thất thủ thì lực lượng của nhà Đường càng lớn mạnh, đến lúc đó thì vận mệnh của mình khó tránh khỏi hiểm nguy nên vội vã dấy binh ngày đêm đi cứu viện.
Tướng sĩ quân Đường vừa nghe tin, thần sắc lập tức biến đổi khắp nơi xảy ra bàn tán. Can Vũ, Khuất Đột Thông, Phong Đức đều cho rằng thành Lạc Dương đánh lâu không thắng, tướng sĩ chán nản muốn quay về. Bây giờ quân Đậu tiến tới, quân cường lực thịnh, nếu quân Đường vẫn tiếp tục lưu lại bên ngoài thành Lạc Dương sẽ bị kẹp giữa quân Đậu và quân Vương thì thập phần nguy hiểm. Tốt nhất là rút về Tân An cố thủ đề phòng quân Đậu và Vương hợp sức tiêu diệt.
Trong thời khắc nguy hiểm, Lý Thế Dân suy tính kỹ càng sau cùng đồng ý với chủ trương của một số người lưu lại quyết tâm vây thành. ông cho rằng, Vương Thế Sung đang giữ phía đông thành Lạc Dương, quân sĩ rất đầy đủ, quân sĩ toàn những người tinh nhuệ. Bây giờ thực lực đang giảm sút chỉ do lương thực thiếu thốn mà thôi. Đậu Kiến Đức đích thân dẫn quân đến tăng viện, đương nhiên quân cường lực mạnh. Nếu sợ hãi rút lui để cho hai người hợp sức với nhau, dùng lương thực vùng Hà Bắc để nuôi dưỡng tinh binh thành Lạc Dương, như thế chiến tranh thống nhất Trung Quốc vừa bắt đầu coi như bị thất bại. Mà trên thực tế, trong lúc đen tối nhất cũng có thể có ánh sáng le lói cuối đường hầm. Vương Thế Sung đơn độc cố thủ giữ thành, quân tàn, lương thực hết, không khó khăn gì có thể kiềm chế được. Quân Đậu Kiến Đức vừa chiến thắng, quân sĩ đang trong lúc tự mãn sinh lười biếng. Nếu quân đội của ta dám nghênh đón trước, giữ lấy cửa Hổ Lao thì có thể chẹt được yết hầu quân Đậu Kiến Đức. Nếu Đậu Kiến Đức mạo hiểm cướp cửa Hổ Lao thì quân của ta chẳng khó khăn gì mà đánh bại. Nếu hắn côn chần chừ thì chỉ dăm bữa nửa tháng Vương Thế Sung sẽ bị sụp đổ. Quân của ta lập tức mạnh mẽ, thực lực tăng lên gấp nhiều lần, lại chủ động tấn công tiêu diệt Đậu Kiến Đức cũng dễ như lấy món đồ trong túi mà thôi. Cho nên, nhìn thấy nguy hiểm trước mắt đó nhưng thực tế là một cơ hội trời cho "một đánh hai bại" mà thôi. Nếu ta sợ hãi lui quân thì mất đi cơ hội tốt, đợi khi quân Đậu Kiến Đức vượt qua Hổ Lao, đúng lúc những khu vực gần thành Lạc Dương vừa lấy được từ tay Vương Thế Sung bị Đậu Kiến Đức cướp mất thì quân Đường mới thực sự rơi vào nguy hiểm.
Thế là, Lý Thế Dân quyết đoán mạnh dạn bố trí: Ông ra lệnh cho Lý Nguyên Cát, Khuất Đột Thông tiếp tục vây khốn Lạc Dương nhưng không được xem nhẹ việc chiến đấu với quân Vương Thế Sung, chỉ chọn cách vây mà không đánh thì chỉ ngồi chờ chết mà thôi. Còn bản thân mình thì lãnh đạo Lý Thế Tích, Trình Tri Tiết, Thái Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức... cùng 3500 lính tinh nhuệ làm tiên phong tiến vào Hổ Lao chặn đứng 100.000 quân viện trợ của Đậu Kiến Đức.
Lý Thế Dân tuy rơi vào thế nguy hiểm nhưng không hề tỏ ra hoảng loạn, những điều mà ông phán đoán cực kỳ chính xác Theo sử sách ghi chép, vì quân Đường đã cắt mất đường lương của Lạc Dương nên trong thành thiếu lương thực, khúc lụa chỉ đổi được 3 thúng ngô, 10 khúc mới đổi được nửa cân muối, các đồ trang sức rẻ như mớ rau, đến cả lá cây ngọn cỏ cũng phải tranh nhau để ăn, quân dân đều mệt mỏi, đối diện với tình cảnh đó quả là rất ăn khớp với phán đoán của Lý Thế Dân "ngồi không vẫn hạ được (Lạc Dương)". Mà lúc đó quân của Đậu Kiến Đức đúng như Lý Thế Dân đã nói: "tướng thì kiêu ngạo, quân thì lười", bề ngoài có vẻ mạnh nhưng thực tế vẫn còn ẩn chứa rất nhiều tệ nạn. Lý Thế Dân là người nhìn xa trông rộng, tài trí hơn người, luôn dự đoán được những điều sắp xảy ra, căn cứ vào những phán đoán chính xác nên đã kiên quyết áp dụng cách bao vây cắt đường viện trợ, "nhất cử lưỡng tiện" và đó vừa là biểu hiện của sự dũng cảm ngoan cường cũng là một thí dụ điển hình của sự mưu trí.
Tìm được những nhân tố giành thắng lợi mới mẻ, tiềm tàng, có giá trị mà những người bình thường bỏ qua một cách nhạy bén, tài trí hơn người trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt trong những lúc nguy hiểm là một tiền đề quan trọng để những nhà chỉ huy quân sự hoặc những người lãnh đạo ngành thương mại có được những quyết sách có hiệu quả. Trong lĩnh vực quân sự, sự mưu trí hơn người của Lý Thế Dân không những không làm cho Lý Thế Dân bị Đậu Kiến Đức dọa cho sợ mà ngược lại còn lập được công lớn chỉ cần đánh một trận mà hạ được hai mục tiêu. Trong kinh doanh thương mại cũng có một ví dụ giống như vậy.
Năm 1979, một nước mà sản lượng dầu thô chiếm 10% toàn cầu như Iran chỉ vì một cuộc cách mạng phải ngừng việc sản xuất dầu khí. Vì thế khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai xảy ra, một số công ty đầu sỏ trên thế giới mà đứng đầu là công ty Akolin liên tục cắt giảm lượng dầu cung ứng cho "công ty dầu khí National" của Nhật Bản. Toàn ngành dầu khí Nhật Bản rơi vào khủng hoảng, trên các tạp chí xuất hiện hàng loạt những dòng tít giật gân: "Ngày những người đầu sỏ trong ngành dầu khí bỏ rơi Nhật Bản", "Ngày tàn của kinh tế Nhật Bản". Nhất là nếu thấy rằng 65% lượng nhập khẩu của công ty dầu khí National là từ những công ty đầu sỏ đó thì càng thấy rõ nguy cơ khẩn cấp, một số công ty dưới quyền cũng hoàn toàn không cung cấp nữa.
Công ty Chuguang có lượng nhập khẩu cao nhất trong công ty dầu khí National. Song, trong cái vòng xoáy đen tối của cuộc khủng hoảng tiến thoái lưỡng nan đó công ty Chuguang lại bình tĩnh một cách kỳ lạ, làm việc đâu ra đấy. Hóa ra là ông chủ của công ty Chuguang là Chuguang Hisashi đã tuyên bố một cách lạ thường rằng: "Đây mới chính là cơ hội!". Vì thế cả công ty bước vào "cuộc chiến tranh giành thời cơ" một cách khẩn trương và có thứ tự.
Lúc đó ông đã chuẩn bị sẵn sàng và nói với các doanh nghiệp dầu khí trực tiếp đàm phán việc kinh doanh với các nước sản xuất dầu khí rằng: "Từ lâu nay, chúng tôi luôn cho rằng vấn đề dầu khí sẽ ngày càng căng thẳng, cần phải có sự chuẩn bị lâu dài, tăng thêm lượng nhập khẩu. Sau cuộc khủng hoảng dầu khí lần thứ nhất, cũng chính vì nguyên nhân là cuộc khủng hoảng kinh tế vừa xảy ra nên lúc đó lượng cung ứng dầu khí của thế giới dư thừa, các công ty khác ra sức khống chế lượng mua vào nên nhìn thấy chúng tôi như vậy thì đều cười thầm. và lúc này khi mà họ đã thôi không cười nữa thì chúng tôi lại có thể từ từ dùng lượng dầu thừa đó thắp lên “ngọn đèn" trong màn đêm. Đồng thời chúng ta cũng phải hiểu rõ một điểm rằng hiện nay việc rơi vào trạng thái khủng hoảng không phải là của công ty dầu khí National mà chính là những công ty dầu khí đầu sỏ trên thế giới. Bởi vì thực chất của cuộc khủng hoảng dầu khí lần thứ hai lại là việc các nước sản xuất dầu khí giành lại quyền phân phối, lưu thông. Do đó, đối với các vị và đối với cả công ty chúng tôi mà nói không những không hề đứng trước một nguy cơ nào cả mà tình thế hiện nay lại chính là một cơ hội tuyệt hảo, cơ hội để công ty trực tiếp đàm phán giao dịch với các nước sản xuất dầu khí.
Quả nhiên là các công ty đầu sỏ nhanh chóng bị sa sút, đồng thời Nhật Bản lại thoát khỏi cái tính ỷ lại vào các công ty đầu sỏ đó không ngừng tăng kim ngạch buôn bán với các nước sản xuất dầu khí. Và ở điểm này thì việc trở thành người đứng đầu đối với một công ty đi đầu như công ty Chuguang là điều đương nhiên.
 
Chương 23
Giấu chỗ yếu của mình, tạo thế vô địch


Năm 621 sau Công nguyên, Lý Thế Dân dẫn đại quân Quan Trung bao vây tấn công Vương Thế Sung ở Lạc Dương. Thành Lạc Dương rất kiên cố, Vương Thế Sung thì kiên quyết tử thủ nên rất khó đánh hạ. Tướng sĩ nhà Đường thì mệt mỏi chỉ muốn quay về nhưng vì cấm lệnh nghiêm ngặt của Lý Thế Dân nên đành phái chốt lại bao vây phía ngoài thành Lạc Dương, đợi đến lúc Vương Thế Sung hết lương thực phải tự xin hàng. Lại có tin cấp báo Đậu Kiến Đức vốn có ý hòa hảo với nhà Đường nay lại dẫn 10 vạn đại quân tấn công thành Lạc Dương, cả thủy lục tiến vào cứu Vương Thế Sung. Quân Đường ở vào thế trước sau đều có địch nhao nhao đòi quay về phía đông để phòng ngự. Lý Thế Dân không cam chịu việc quay về mà chưa làm được gì, lại sợ rằng hai phía quân của Đậu và Vương liên kết với nhau cùng đấu với quân Đường nên đã chọn cách bao vây đánh viện binh, hạ lệnh tiếp tục bao vây Lạc Dương, đợi Vương Thế Sung tự thua và đích thân dẫn theo 3500 tinh binh, cấp tốc tiến về Hổ Lao (Phiếm Thủy, Hà Nam), chặn đứng việc Đậu Kiến Đức tiếp tục tiến về phía đông.
Nguy hiểm và khó khăn là điều dễ nhận thấy. Lý Thế Dân hiểu rằng nếu Đậu Kiến Đức thừa thắng đánh Hổ Lao để áp sát Lạc Dương, Vương Thế Sung sẽ nhân cơ hội đó ra ngoài thành quyết một trận sống mái thì toàn bộ binh mã của nhà Đường có khả năng sẽ bị tiêu diệt sạch. Biện pháp duy nhất là chặn đường tiếp tục tiến về phía đông của Đậu Kiến Đức, giành lấy thời gian để làm cho Vương Thế Sung chết vì đói, đồng thời thông qua việc do dự, lưỡng lự của Đậu Kiến Đức để làm tiêu mòn ý chí chiến đấu của quân Đậu, từ đó lợi dụng kẽ hở để tấn công tiêu diệt.
Lý Thế Dân muốn giữ được Hổ Lao để chờ cơ hội thì cũng phải che giấu được thực trạng yếu mỏng của quân Đường, tỏ ra là ở thế vô địch khiến cho Đậu Kiến Đức thấy khó khăn mà lui bước. Và thế là một trận quyết chiến trên tư tưởng đã bắt đầu.
Đậu Kiến Đức tiến đến Đông Nguyên Hổ Lao lập tức chiếm được những vị trí quan trọng ở xung quanh, đồng thời cũng chia quân chiếm lĩnh Dương Trai. Ông ta định mượn thế đông để buộc Lý Thế Dân không đánh mà lui, phái Thị lang bộ lễ Lý Đại Sư đưa thư đến doanh trại quân Đường, hy vọng Lý Thế Dân nhận rõ tình thế mà kịp thời lui binh. Ông ta không biết rằng Lý Thế Dân cố ý giữ Lý Đại Sư ở Lạc Dương. Đợi mãi mà không thấy Lý Đại Sư trở về nên ông ta đã sai người đi thám thính.
Thám thính của Đậu Kiến Đức mới đến chỗ còn cách Hổ Lao hơn 20 dặm thì bỗng nhìn thấy 4 kỵ sĩ đang đi tới, phía trước cầm cung, đi sau thì cầm giáo, uy phong lẫm liệt thúc ngựa phi như bay. Thám thính còn đang nghĩ là quân Đường đi tuần định hỏi thì bỗng nghe thấy một tiếng quát: "Ta vâng lệnh Lý Thế Dân, các ngươi hãy đợi xem mũi tên này!”. Chưa dứt lời thì đã nghe thấy tên lao đến, lập tức một kỵ binh rơi xuống khỏi lưng ngựa, những tên còn lại không dám ở lại, vội vàng chạy về.
Hóa ra là Lý Thế Dân vừa đến Hổ Lao đã quyết định tỏ rõ sự hừng mạnh của mình cho quân địch thấy, dù có chết cũng phải làm tiêu tan mũi nhọn của quân Đậu. Vì thế ông đã dẫn theo 500 kỵ binh thẳng tiến về Hổ Lao, để các mãnh tướng như Lý Thế Tích, Tri Tiết, Trần Thúc Bảo mai phục dọc đường, chỉ đem theo Uất Trì Kính Đức và Nhị Tòng Kỵ đi đến doanh trại của địch. Đến khi bắn chết thám binh của quân Đậu, Nhị Tòng Kỵ đã lo rằng: "Quân của địch về báo lại thì nhất định sẽ có đại quân kéo đến tấn công nên tốt nhất là nhanh chóng quay về!". Lý Thế Dân vốn là muốn thể hiện sức mạnh trước quân địch nên không đời nào sợ khó mà lui lại nên nói với Uất Trì Kính Đức: "Ta đã giương cung, trong tay ngươi lại có giáo dài thì dù cho có đến trăm vạn quân địch cũng chẳng phải lo sợ gì! Đúng lúc đó thì thấy bụi bay mù mịt, 5000-6000 quân địch đang ùn ùn kéo đến. Nhị Tòng Kỵ lo sợ thất sắc, Lý Thế Dân bèn bảo ông ta quay về trước, tránh không để quân địch thấy được sự lo sợ của quân mình còn mình thì cùng với Kính Đức đứng chờ.
Đợi đến khi quân địch đã ở trong tầm ngắm thì Lý Thế Dân mới cho bắn tên liên tiếp nên đương nhiên là bách phát bách trúng. Quân Đậu liên tiếp bị Lý Thế Dân bắn hạ, Uất Trì Kính Đức ở bên cạnh cũng đột ngột xông lên, liền một lúc giết hơn 10 tên địch. Quân Đậu sợ muốn vỡ mật không dám tiến đến gần nữa.
Lý Thế Dân ung dung quay về, quân Đậu chi dám theo từ xa nào ngờ mới được nửa đường thì phục binh của quân Đường bất ngờ xông ra, quân Đậu vốn biết thế yếu nên đâu dám đánh trả. Lý Thế Tích tung hoành ngang dọc, trong nháy mắt đã giết hơn 300 tên, bắt sống các tướng lĩnh dẫn đầu chỉ để lại một tên về báo lại với Đậu Kiến Đức rằng: Lý Thế Dân thần võ tướng sĩ nhà Đường vô địch!
Lý Thế Dân vui mừng trở về viết thư: "Đất Triệu Ngụy lâu nay vốn là của ta, giờ túc hạ đến xâm chiếm chẳng phải là đi ngược với lẽ thường sao? Nhưng vì trước đây chúng ta vốn có mối hòa hảo nên bây giờ vẫn mong có thể giải quyết ân oán giữ mối hòa hiếu. Vương Thế Sung sớm muộn cũng sẽ chết mới viết thư cầu cứu, lẽ nào lại dễ dàng đồng ý như vậy. Túc hạ đem theo tất cả quân sĩ của mình để tặng cho người khác, lại tốn mất bao nhiêu tiền của để cho quân địch dùng chẳng lẽ là thượng sách sao? Nay vừa mới lâm trận đã thất bại, quân sĩ đều mệt mỏi chẳng nhẽ không thấy hổ thẹn sao. Nay hãy biết kiềm chế, cho túc hạ một cơ hội. Nếu vẫn cố tình có ý đánh thì e sau này hối hận cũng không kịp, hy vọng túc hạ suy xét kỹ lưỡng".
Đậu Kiến Đức nghe bại quân của mình báo lại đồng thời thấy bức thư khí thế hào hùng như vậy thì mất hết tinh thần. Lúc đó ông ta chỉ dám đóng quân ở trước Hổ Lao, không dám tấn công trên quy mô lớn. Mỗi lần sai một đội quân nhỏ đi tuần thì đều bị đội quân tinh nhuệ của nhà Đường đánh bại, lương thực cũng bị cướp mất vì thế càng thêm cẩn thận do dự. Lâu dần như thế tướng sĩ đều muốn trở về, sĩ khí bắt đầu suy sụp.
Việc Lý Thế Dân thể hiện sự dũng mãnh của mình trước quân địch quá nhiên đã tranh thủ được thời gian, nắm bắt được thời cơ.
Lý Thế Dân rõ ràng là đang ở vào thế yếu vậy mà chỉ cần dương oai diễu võ một lúc là có thể dọa được quân địch mạnh. Trên thương trường, một người Pháp chuyên buôn bán phần mềm Kian trước khi làm ăn phát đạt cũng đã từng thổi phồng thế lực lên khiến cho đối thủ mạnh hơn mình mà vẫn bị dắt mũi học làm "con bò vàng” .
Công ty Lipora của Kian ngay từ năm 1989 đã được xếp vào số những công ty phần mềm kỹ thuật của máy tính loại nhỏ hàng đầu thế giới. Nhưng ông lại là người làm nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, 4 năm trước công ty này ngoài tấm biển, một đôi tay và một khối óc tinh nhanh ra còn thì chẳng có lấy một xu.
Ông quyết định mở dịch vụ mua hàng qua bưu điện, nhưng đăng một quảng cáo trên tạp chí máy tính thì phải mất 2000 đô la. Cái ông thiếu là tiền mà đối với những khách hàng ít tiền thì tòa soạn báo càng đòi giá cao. Làm thế nào đây? Ông chỉ có thể "giả làm người béo". Ông mời một nhân viên tiếp thị quảng cáo của một tạp chí hàng đầu đến văn phòng công ty, trước đó cũng mời rất đông bạn bè, người thì giả làm thư ký rất biết nghe lời của ông ra ra vào vào văn phòng, người thì giả làm nhân viên tiếp thị của các tòa soạn báo gọi điện đến mời ông đăng quảng cáo ở chỗ họ, trên tường còn treo một đồ biểu không ngừng đập, trên đó chỉ có tên một tạp chí quảng cáo hàng đầu, bên cạnh còn viết cách thế nào để thoát khỏi sự quấy rầy của các tạp chí loại hai, đương nhiên là cố ý che đi một phần trong đó...
Nhưng khi nhân viên tiếp thị được mời đó đến thì ông lại nhấc máy điện thoại lên lớn tiếng nói: "2000 đô la thì quá đắt 1800 đô la tôi cũng không làm, với số tiền đó tôi có thể làm một quảng cáo tốt hơn ở tạp chí khác!". Khi nhân viên đó bước vào thì ông đã gác máy dường như không còn kiên nhẫn để đợi đối phương tự giảm giá đến lần thứ hai. Ông chỉ cười với người đó một cái thì thư ký đã mời sang phòng khác nhận “điện thoại đường dài gọi đến từ Tokyo". Ông đang lớn tiếng “nhận điện thoại" nhưng thực chất là không rời mắt khỏi khe cửa. Qua khe cửa ông thấy nhân viên tiếp thị đó đang cố gắng nghiên cứu tấm biểu đồ giả.
Đợi đến khi người đó rất sốt ruột thì ông mới quay lại ghế của mình. Nhân viên tiếp thị đó sợ "ông chủ lớn" lại bận điện thoại hoặc việc gì khác mà rời khỏi đây nên vội vàng nói. “Đối với công ty của ngài, chúng tôi có thể có một số ưu đãi". Ông lại nói bừa rằng việc này đúng ra phải có ưu đãi nên vẫn không làm.
Sau cùng nhân viên tiếp thị đó đồng ý làm quảng cáo chịu với giá thấp cho ông vì anh ta “hiểu” rằng vị khách này rất khó mà có được. Ông lại còn ra chiều rất hiểu đạo lý nói rằng nếu lần này báo của anh ta làm tốt, có hiệu quả thì từ nay về sau mỗi lần có ý định quảng cáo ông sẽ nghĩ đến việc đăng trên báo của họ trước tiên.
Nhân viên tiếp thị đó ra về với niềm hy vọng lớn lao. Kian gần như không mất một đồng nào mà vẫn làm được lần quảng cáo đầu tiên đó.
 
Chương 24
Dựa thế mạnh của mình, đánh điểm yếu của địch.


Phải làm thế nào khi đối mặt với một đối thủ mạnh hơn mình. "Thước có khi ngắn, tấc có khi dài", người hoặc vật có cái sở trường và sở đoản, không phải gặp thời tùy tiện đều có thể phát huy phù hợp, dựa vào sở trường của mình để đánh vào nhược điểm của địch thì chẳng có gì là không thể phá nổi.
Năm 621 sau Công nguyên, tuy là Lý Thế Dân đã dồn được Vương Thế Sung vào trong cô thành Lạc Dương nhưng vì thành trì kiên cố, quân thì dũng mãnh nên quân Đường tấn công mãi mà không được đã có ý quay về. Không ngờ đúng lúc đó Đậu Kiến Đức lại mang theo hơn 10 vạn tinh binh dũng tướng với một khí thế ào ào tiến đến cứu viện cho Vương Thế Sung, trong chốc lát quân Đường từ thế chủ động rơi vào thế bị động. Để tránh nguy cơ trước sau đều có địch, không ít các đại tướng mưu thần đã đề xuất ý kiến lui binh phòng ngự. Lý Thế Dân lại không hề tỏ ra sợ hãi, một mặt sai lính tiếp tục vây thành Lạc Dương còn mình thì đích thân dẫn 3500 kỵ binh kiêu dũng tiến về Hổ Lao (Phiếm Thủy, Hà Nam) để đánh trực tiếp với Đậu Kiến Đức.
Hai bên đối chọi nhau trước cửa ải Hổ Lao. Địch thì mạnh mà ta thì yếu, sự chênh lệch rất rõ ràng. Nhưng Lý Thế Dân vẫn muốn chờ, tạo ra nhược điểm của kẻ địch sau đó tập trung các tướng sĩ mạnh nhất của mình từ một điểm đột phá tiêu diệt kẻ địch mạnh.
Lý Thế Dân bắt đầu từng bước thực hiện kế sách "Dựa vào thế mạnh của mình đánh vào chỗ yếu của địch” để đối phó với Đậu Kiến Đức.
Lần đầu tiên thực hiện cũng là ngày đầu tiên Lý Thế Dân từ phía ngoài thành Lạc Dương đi thẳng đến Hổ Lao. Lúc đó ở Hổ Lao, Lý Thế Dân đem theo các tướng sĩ nổi tiếng nhất của nhà Đường như Uất Trì Kính Đức, Lý Thế Tích, Trình Tri Tiết, Trần Thúc Bảo... cùng 500 tinh binh đi hơn 20 dặm để trinh sát tình hình quân địch, đồng thời dựa vào thế nhanh như vũ bão phục kích một đội quân bình thường của Đậu Kiến Đức. Từ đó mà ngăn chặn, hạ khí thế muốn tấn công chiếm thành, đánh đâu thắng đó của quân Đậu, làm cho chúng không dám tiến sát vào Hổ Lao mà chỉ có thể đứng ngang hàng với quân Đường ở trước cửa ải Hổ Lao. Mà quân Đậu còn ở mãi tận Hà Bắc, thời gian ở Hà Nam lâu, khí thế không còn được như trước thì tướng sĩ tất sẽ sinh lòng muốn quay về, sĩ khí sẽ dần dần suy sụp. Lý Thế Dân cũng đã giành được thắng lợi to lớn đầu tiên.
Lần thứ hai, Lý Thế Dân phái mãnh tướng Vương Quân Khoách dẫn hơn ngàn kỵ binh nhẹ, chờ cơ hội đánh chặn đường lương vốn không hề có sự phòng bị của Đậu Kiến Đức, bất ngờ bắt sống đại tướng của quân Đậu là Trương Thanh Đặc. Ngoài ra mỗi lần giao chiến, Lý Thế Dân đều coi quân địch nhỏ là quân địch lớn để đánh, dựa vào thế mạnh để luôn đánh thắng đối thủ. Đậu Kiến Đức vì thế mà rất sợ chỉ nghĩ rằng quân Đường lúc đó toàn mãnh tướng chứ không có một tên lính nào yếu cá. Quân sĩ của Đậu Kiến Đức lại càng cho rằng quân Đường là quân đội vô địch.
Lần thứ ba, cũng là lần quyết chiến cuối cùng, Đậu Kiến Đức vì không chịu nổi sự van nài khổ sở của Vương Thế Sung nên đã quyết định dốc hết toàn lực quyết sống mái một trận với quân Đường. Lúc đó ông ta đã sắp xếp binh mã, bày binh bố trận, phía bắc dựa vào con sông lớn, phía nam dựa vào núi, phía tây đến tận Phiếm Thủy, trận địa rộng đến hơn 20 dặm. Quân Đậu hùng dũng tiến công, uy danh lẫy lừng, tướng sĩ nhà Đường vô cùng sợ hãi. Lý Thế Dân đem theo Uất Trì Kính Đức lên trên cao nhìn xuống để tìm ra chỗ sơ hở và nhược điểm của quân địch. Sau một hồi xem xét, Lý Thế Dân bèn nói: "Quân Đậu từ lúc khởi sự ở Sơn Đông đến nay chưa từng gặp phải đối thủ mạnh. Nay tuy chúng đã bày trận lớn nhưng vẫn nhốn nháo vô độ, hàng ngũ cũng mất trật tự, thể hiện sự vô tổ chức, vô kỷ luật. Ta mà không có động tĩnh gì thì dũng khí của đối phương sẽ tự suy sụp. Lâu dần như vậy binh sĩ sẽ mệt mỏi, tất sẽ đều muốn quay về. Trong một đội quân ô hợp lại chỉ muốn quay về như vậy thì làm sao chống cự lại được sự tấn công của đội quân tinh nhuệ chúng ta? Ta có thể khẳng định rằng chỉ trong một ngày, chỉ cần một đội tinh binh cũng có thể tiêu diệt được toàn bộ quân Đậu".
Quả nhiên quân Đậu bày trận từ sáng đến trưa, quân sĩ không được ăn uống gì nên đều vừa đói vừa mệt, kẻ thì ngồi bệt xuống đất, kẻ thì tranh nhau đi uống nước, đội ngũ hỗn loạn. Lý Thế Dân lệnh cho Vũ Văn Sĩ dẫn 300 kỵ binh hành quân từ phía bắc hướng về phía nam đến trước trận địa của quân Đậu, đồng thời nhắc nhở ông ta nếu thấy trận địa của địch nghiêm chỉnh thì không được đánh mà phải nhanh chóng quay về, còn nếu thấy thế trận dao động chứng tỏ rằng quân Đậu đã yếu đuối bất lực thì phái nhân thế mà xung kích. Thế trận của quân Đậu quả nhiên rất loạn, Lý Thế Dân lập tức lệnh cho toàn quân xuất kích. Còn mình thì dẫn theo các chiến tướng dũng mãnh nhất cùng các tinh binh như thuồng luồng xuống biển, đột nhập quân Đậu, đánh đến đâu là quân Đậu tan tác đến đó. Trình Tri Tiết, Trần Thúc Bảo cùng với mãnh tướng đến từ Tây Đột Quyết - Sử Đại Nại cùng các khinh kỵ sau khi xông thẳng vào quân Đậu thì trước tiên là cuốn cờ của quân Đường lại, xông thẳng từ trước ra sau quân Đậu rồi mới giương cao cờ giết quân Đậu từ phía sau. Quân Đậu rơi vào thế hỗn loạn vô cùng, không ít binh sĩ chưa kịp phân biệt đâu là ta đâu là địch thì đã bị quân Đường lấy mất đầu.
Đậu Kiến Đức vốn cũng đã thấy đến trưa mà quân sĩ chưa được ăn nên triệu tập các tướng sĩ lại để bàn chuyện tiến hay lùi Không ngờ quân Đường lại đến một cách nhanh chóng như vậy, thế trận đã bị phá tan, kỵ binh phản kích thì đã hết đường ra mà đường lui cũng bị quân Đường chặn rồi, chỉ còn cách đem theo các thân binh trốn về phía đông. Quân Đậu tan tác quân Đường thừa thắng truy kích đến hơn 30 dặm, bắt giữ được hơn 5 vạn tù binh. Còn Đậu Kiến Đức thì cuối cùng cũng bị thương và bị bắt, chém đầu ở Trường An.
Lý Thế Dân đã không ngừng lấy mạnh đánh yếu như vậy từng bước làm tan rã lòng quân của Đậu Kiến Đức, sau cùng lấy các tướng sĩ mạnh nhất của mình để đánh một đòn chí mạng buộc địch đến chỗ chết. Thắng lợi của cuộc chiến ở Hổ Lao có thể nói là một thắng lợi to lớn giành được nhờ dựa vào thế mạnh của mình để đánh vào điểm yếu của quân địch.
Từ cuộc chiến ở Hổ Lao chúng ta có thể thấy toàn bộ thực lực của mình không nhất thiết là phải mạnh hơn của đối thủ nhưng nếu có thể tập trung ưu thế của mình để đánh trúng vào khâu yếu nhất của đối thủ thì phần thắng đã nắm chắc trong tay. Công ty Honda cũng thừa hiểu điều đó nên mới có được thành công khi tiến quân vào nước Mỹ.
Năm 1957, công ty sản xuất ô tô Honda chính thức xâm nhập thị trường Mỹ. Họ thừa hiểu rằng các doanh nghiệp lớn của Mỹ như Ford lúc đó mạnh hơn họ rất nhiều nên đương nhiên là không dám cạnh tranh trực tiếp với họ. Vì thế, công ty không dám cạnh tranh với họ về tính ổn định cao, dễ điều khiển và rộng rãi mà chỉ thiết kế sản phẩm của mình trên cơ sở phát huy điểm mạnh về các đặc tính như dễ dừng đỗ, giá thấp, tiết kiệm xăng, bền, dễ sửa chữa và cuối cùng cũng đã thành công ở bang California, nơi mà các công ty lớn đó chưa “đóng quân".
Việc dùng cách dựa vào thế mạnh của mình để tấn công yếu điểm của địch để đổ bộ thì đã thành công nhưng không ngờ giữa đường lại có chuyện bất ngờ xảy ra đó là việc xuất hiện loại xe Golder từ Đức. Thì ra điểm mạnh của công ty Titerlux cũng là giá rẻ, thậm chí còn rẻ hơn xe Honda 700 đô la. Hai bên đều mạnh cạnh tranh nhau thì chỉ có thể dựa vào thực lực. Việc buôn bán của Honda bị Golder cướp mất hơn một nửa. Làm thế nào đây? Honda vẫn dùng cách lấy mạnh đánh yếu.
Công ty Honda đã bằng nhiều con đường khác nhau như thông qua chính phủ Nhật Bản, giới thương nhân, các nhân sĩ Mỹ và cả bộ phận nghiên cứu thị trường của mình; thu thập rộng rãi các tin tức tình báo, bí mật điều tra những nhược điểm của Golder. Kết quả nhanh chóng được tìm ra: "Những người dùng xe của Golder hy vọng xe của họ dễ khởi động hơn vào mùa đông, họ muốn không gian ở chỗ ngồi phía sau nhiều hơn, muốn trang hoàng ở phía trong hấp dẫn hơn.
Qua một đợt chế tạo sau khi đã nghiên cứu phân tích, giá của xe Honda còn thấp hơn nhiều so với xe Golder, mùa đông dễ khổ; động, không gian phía sau rộng hơn, trang hoàng trong xe đẹp hơn, đồng thời cũng đầu tư nhiều tiền quảng cáo hơn, trích nhiều hoa hồng cho các đại lý hơn vì thế mà đã nhanh chóng đánh bại được đối thủ cạnh tranh về thị phần trên thị trường.
Tuy là Honda dựa vào ưu thế của loại xe nhỏ, sự cách biệt về thị trường, không dám đối chọi với xe của Mỹ trên thị trường xe cỡ lớn và trung bình - chiến trường chủ yếu của công ty xe hơi Titerlux nhưng đã đứng vững trên thị trường xe hơi Mỹ; tuy dựa vào ưu thế giá rẻ, tiền hoa hồng cao hơn, không cạnh tranh với xe Golder về lợi nhuận trên mỗi xe nhưng đã chiếm được thị phần lớn thị trường Mỹ. Công ty Honda đã ngắm đúng nhược điểm của đối thủ, tập trung ưu thế của mình cố gắng trên từng bộ phận để giành toàn thắng. Cuối cùng, vào thời kỳ đầu những năm 70 họ đã trở thành bá chủ của loại xe nhỏ ở Mỹ.
 
Chương 25
Không giống bình thường, giành thắng lợi bất ngờ


Tiêu Tiến khởi binh ở Hồ Nam, mới được 5 ngày đã quy phục được mấy vạn người. Vì thế ông đã tự xưng làm hoàng đế định đô ở Giang Lăng (Giang Lăng, Hồ Bắc ngày nay). Đến năm đầu Đường Vũ Đức (năm 618 sau Công nguyên) đã có đến hơn 40 vạn binh, chiếm cứ cả một vùng rộng lớn, phía nam từ Giao Chỉ, phía bắc đến Hán Thủy, phía tây đến Tam Hiệp, phía đông đến Cửu Giang. Lúc đó nhà Đường đang mưu lược Hà Đông, Trung Nguyên, Tiêu Tiến cũng có ý muốn giữ lại, không muốn tiến về phía bắc vì nhà Đường chủ yếu dựa vào phòng thủ. Năm thứ tư Vũ Đức (năm 621 sau Công nguyên), Lý Thế Dân tiêu diệt được Đậu Kiến Đức và Vương Thế Sung ở ngoài thành Lạc Dương, Lý Uyên bèn lệnh cho Lý Hiếu Cung và Lý Tịnh dẫn binh mã Ba Thục tiến công Tiêu Tiến.
Tháng 9 cũng đúng vào mùa lũ, nước sông Trường Giang dâng cao, sóng to cuồn cuộn. Các tướng sĩ đều cho rằng lúc này không thể dùng thuyền được, chỉ có thể đợi cơn lũ tạm lắng mới tiến quân được. Lý Tịnh lại khuyên Lý Hiếu Cung lập tức tiến quân. Các tướng đều rất bất mãn, không ngờ Lý Tịnh hầm hầm biến sắc nói: "Việc dùng binh quan trọng nhất là khác thường và bất ngờ. Nay quân ta mới tập trung, Tiêu Tiến còn chưa biết, mà cho dù có biết thì ông ta cũng sẽ kết luận như những người bình thường khác là khi nước sông lan tràn như vậy thì không thể tiến quân. Chúng ta cứ lợi dụng mùa lũ, tiến công hết tốc lực, Tiêu Tiến chắc chắn không kịp phòng bị, tất sẽ bị quân ta bắt".
Lý Hiếu Cung đã chọn cách của Lý Tịnh, đích thân dẫn hơn 2000 chiến hạm cùng với Lý Tịnh tiến công ngay trong ngày hôm đó. Phòng tuyến dọc sông của Tiêu Tiến tuy có mà cũng như không, ngay lập tức bị quân Đường đập tan, thu được hơn 300 chiến hạm. Tiêu Tiến thấy mùa lũ đến nên đã giải tán quân để đi lo việc nông vụ ở các nơi, lúc đó thấy quân Đường đột nhiên xuất hiện trước mắt thì ngay lập tức sao có thể tập trung quân được? Vì thế đành phải dùng các binh sĩ già bày trận nghênh chiến.
Lý Hiếu Cung thấy kế sách của Lý Tịnh ngay từ đầu đã thuận lợi nên nóng lòng muốn tiến đánh. Các tướng sĩ cũng nhao nhao xin đánh. Lý Tịnh lại nói với Lý Hiếu Cung: "Nhất thiết không thể giống như các tướng sĩ có thái độ khinh địch như vậy mà xuất chiến. Lúc này Tiêu Tiến gọi quân đến để cứu viện, tất sẽ thắng, quân ta cứ cho thuyền neo ở bờ Nam, kiên quyết không có động tĩnh gì, khí thế quyết một trận tử chiến của quân địch sẽ tiêu tan trong chốc lát. Đợi đến khi quân địch đều nghĩ rằng chúng ta không dám quyết chiến cùng chúng, rải binh khắp nơi, không giữ chắc được bờ Bắc thì quân ta mới khởi binh, lý nào lại không thắng được?".
Lý Hiếu Cung cố tình nghe theo lời thỉnh cầu quyết chiến của các tướng sĩ, để Lý Tịnh lại giữ doanh trại còn mình thì đem theo các tướng sĩ giỏi xuất chiến. Không ngờ quân địch lấy một chọi mười, đánh cho quân Đường thất bại thảm hại. Lý Hiếu Cung đành phải quay lại giữ bờ Nam.
Quân địch giành được đại thắng đó thì như mở cờ trong bụng đua nhau chèo thuyền ra giữa sông thu nhặt chiến lợi phẩm mà quân Đường vứt lại. Các tướng sĩ nhà Đường vẫn còn sợ hãi không dám nhìn thẳng. Lý Tịnh được sự đồng ý của Lý Hiếu Cung lại cấp xông ra để giết. Các binh tướng của quân địch còn đang đắc ý vênh váo nên không ngờ rằng quân Đường đến đánh, chỉ lo nhanh chóng thoát thân chứ không nghĩ đến việc đánh trả. Quân của Lý Tịnh thả sức truy đuổi, quân địch bị giết vô số, bị đuổi đến tận dưới chân đô thành của Tiêu Tiến, sau đó chia quân đi thu nhặt được vô số chiến hạm.
Lúc này lại đến lượt quân Đường vui mừng, mọi người đều cảm thấy những chiến hạm quý báu khác thường như vậy mà dùng để đánh địch thì chỉ có đánh đâu thắng đấy. Không ngờ Lý Tịnh lại chẳng tỏ ra vui mừng gì, hạ lệnh thả tất cả các chiến hạm thu được đó cho chúng trôi tự do. Các tướng sĩ đương nhiên là cứ nghi hoặc mãi, Lý Tịnh mới giải thích rằng. "Lãnh địa của quân địch phía nam vượt qua Linh Biểu, phía đông là sông, quân ta lại phải tiến sâu vào. Nếu không thể công phá được Giang Lăng ngay lập tức, thì viện binh của địch đã tập trung được ở dọc sông, lúc đó trong ngoài đều có địch, tiến thoái lưỡng nan, dù có chiến hạm tốt đi chăng nữa cũng chằng có tác dụng gì. Không khó để thấy rằng theo cách nghĩ thông thường của viện binh nếu phát hiện thấy ở hạ du hàng loạt chiến hạm của quân Tiêu mà không có người để hỏi thăm thì tất sẽ hiểu lầm rằng đô thành Giang Lăng đã bị quân ta đánh hạ, vì thế mà không dám tuỳ tiện tiến thêm. Do đó chúng ta phải dùng cách đi ngược lại với suy nghĩ thông thường càng thấy thành khó hạ thì càng phải thả số thuyền đó xuống sông để làm cho viện binh của địch nghi hoặc mà dừng lại. Viện binh đến chậm thì Giang Lăng đã là của chúng ta rồi".
Viện binh của Tiêu Tiến thấy dọc sông đều là thuyền bè thì quả nhiên suy đoán một cách sai lầm rằng quân Đường đã đánh hạ được Giang Lăng vì thế mà hoài nghi không tiến thêm nữa. Một số viên quan địa phương vào Giang Lăng triều kiến thấy Giang Lăng đã bị vây chặt thì sợ hãi ùn ùn kéo đến lạy chầu quân lệnh của nhà Đường. Tiêu Tiến chờ mãi chẳng thấy mưu thần lẫn viện binh đâu thì chẳng bao lâu sau đã phải mở cổng thành xin hàng.
Tướng sĩ nhà Đường hùng dũng vào thành, ngang ngược cướp bóc. Các tướng lại còn hùng hồn nói "Tướng địch không chủ động đến hàng, chết còn là may chán, lẽ ra còn phải tịch thu hết gia sản để thưởng cho quân sĩ". Lý Tịnh lại nói với Lý Hiếu Cung khác hẳn mọi người "Vương sư vào thành nên để tiếng nghĩa bay xa, những người sẵn sàng chết vì chủ, thực là trung thần thì sao lại cho là phản nghịch! Nếu quân ta ưu đãi các "trung thần” thì nhà Đường chẳng mất tí công sức nào vẫn được hàng loạt "trung thần" chắp tay đến xin hàng .
Lý Hiếu Cung lại chọn kế sách của Lý Tịnh, ra quân lệnh nghiêm cấm việc cướp giết. Vì thế mà các châu huyện ở phía nam nghe tin đều đến quy phục. Hơn 10 vạn viện binh cũng cởi giáp xin hàng, tranh làm "trung thần”. Nhà Đường đã bình định được phía nam một cách dễ dàng.
Thế nào là "kỳ"? Tức là không giống bình thường. Vì sao phải khác thường? Chính là nằm ngoài dự liệu, đánh vào chỗ hở của chúng. Lý Tịnh bất ngờ tiêu diệt Tiêu Tiến, mất ít sức mà vẫn giành được hiệu quả cao, điều kỳ diệu là ở chỗ khác thường, hành sự khác với suy nghĩ của người bình thường. Trong đấu tranh quân sự cần phải dựa vào sự khác thường để giành thắng lợi, trong kinh doanh thương mại cũng kỵ nhất là việc gây ồn ào như ong vỡ tổ mà đòi hỏi phải một mình mở một lối đi riêng, dựa vào sự khác lạ để hấp dẫn người khác, dựa vào sự hiếm hoi để làm họ dao động, dựa vào một điểm độc đáo để tung hoành thế giới.
Năm 1990 để ủng hộ cho Thế vận hội châu á, nhân dân cả nước đã sôi nổi quyên góp tiền hàng. Không ít doanh nghiệp cũng đứng vào đội ngũ những người quyên hiến đó, đồng thời không tiếc tiền của để các bản tin làm quảng cáo. Nhà máy rượu Nghi Tâm Hồng Lâu Mộng cũng muốn làm một chút gì đó cho Thế vận hội, đồng thời cũng muốn thông qua Thế vận hội để làm một việc gì đó cho chính mình.
Mọi người chắc đều nghĩ đến việc nhà máy rượu đó sẽ quyên góp mấy trăm hoặc mấy ngàn chai rượu Hồng Lâu Mộng? Không, nhà máy rượu không hề làm theo phong trào như thế mà họ tổ chức một nghi thức hiến rượu "Tráng hành tửu” long trọng, nghiêm túc, hùng tráng mang màu sắc cổ tích khác hẳn phong cách bình thường.
Các tướng sĩ thời xưa trước khi ra trận đều phải uống một chút rượu trắng pha máu gà, lấy uy của tráng sĩ để có được niềm tin tất thắng. Nghi thức "tráng hành" rất phù hợp với tâm lý văn hóa dân tộc đương nhiên là thể hiện một cách thích đáng nhất mong ước nóng bỏng của toàn dân Trung Hoa đối với Thế vận hội. Các phóng viên ra sức bấm máy, quay phim cái cảnh rất xúc động này, ngay tối hôm đó đài truyền hình trung ương, đài truyền hình Bắc Kinh đã cho phát ngay bản tin gây xôn xao dư luận ấy, hôm sau hơn 40 tờ báo trong nước đã đăng tin về sự kiện độc đáo đó.
Nhà máy rượu Hồng Lâu Mộng tuy chỉ quyên tặng 500 chai rượu giá chưa đến 1 vạn nhưng từ đó trở đi, nhãn hiệu Tráng hành đã vang khắp nơi, luôn đi cùng với những thành tích nổi trội của Thế vận hội, dường như trong mỗi chiếc huy chương vàng chúng ta đều ngửi thấy mùi rượu Tráng hành, dường như mỗi khi đến phần trao thưởng đều là một cao trào gây xúc động lòng người trong nghi thức Tráng hành.
Tháng 11 năm 1990, trong hội nghị đặt hàng ở Thạch Gia Trang, 3600 vạn bình rượu Tráng hành đều bán hết. Giám đốc nhà máy rượu Hồng Lâu Mộng nói "Đây là lần đầu tiên kể từ khi tôi làm nhà doanh nghiệp đến nay chỉ cần tốn ít tiền nhất mà thu được hiệu quả lớn nhất".
 
Chương 26
Ban ơn nhỏ được tạ to


Có người nói rằng việc Lý Thế Dân giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh thống nhất đó, một nửa là dựa vào các tướng cũ thời Thái Nguyên khởi binh, nửa kia là nhờ hàng loạt các tướng đầu hàng. Bất luận là đối với loại tướng lĩnh nào, Lý Thế Dân đều thể nghiệm và quan sát kỹ lưỡng, ban ơn để kết nạp, nhờ thế mà tất cả các tướng lĩnh đều nguyện lấy cái chết để báo đền, quả đúng là có thể gọi là "cái ơn nhỏ" đổi được "sự báo đáp lớn". Trong số đó việc của Uất Trì Cung là một thí dụ điển hình.
Uất Trì Cung, tự Kính Đức là một trong những chiến tướng nổi tiếng nhất thời kỳ Tùy Đường. Ông vốn là thuộc hạ của Tống Kim Cương. Tháng 4 năm 620 sau Công nguyên, Tống Kim Cương bại trận phải bỏ chạy để lại Uất Trì Cung giữ cô thành. Lý Thế Dân bèn cử người đi chiêu dụ, các tướng Uất Trì Cung cùng Tầm Tương đem quân lính đầu hàng nhà Đường. Bọn Khuất Đột Thông lo rằng Uất Trì Cung tuy hàng nhưng vẫn có tâm phản phúc nên khuyên Lý Thế Dân mau chóng trừ bỏ đi, nhưng Lý Thế Dân nói: "Ta đang vui mừng vì có được mãnh tướng, các người đừng có nhiều lời".
Tháng 7 năm 620 sau Công nguyên, Lý Thế Dân đem quân tấn công Vương Thế Sung, Uất Trì Cung cũng đi theo. Mỗi tối Lý Thế Dân đều kiểm tra quân sĩ, bỗng một hôm không thấy quân Tầm Tương đã đầu hàng cùng với Uất Trì Cung đâu cả, các quân lính là thuộc hạ của Tống Kim Cương cũng đã bỏ trốn mất hơn nửa. Vì thế mà người trong doanh trại nhà Đường đều xì xầm to nhỏ về Uất Trì Cung. Bọn Khuất Đột Thông, Ân Khai Sơn lại còn trói Uất Trì Cung lại sau đó chạy đến nói với Lý Thế Dân rằng: "Uất Trì Cung kiêu dũng vô song không ai địch nổi, sợ rằng sẽ trở thành hậu hoạ nên cần phải giết sớm. Nay đã nhân cơ hội không phòng bị gì trói lại rồi, xin lệnh để chém đầu . Lý Thế Dân kinh ngạc nói: "Các ngươi thừa biết rằng nếu Uất Trì Cung muốn làm phản thì sao lại chậm hơn so với tướng quân Tầm Tương? Nay Tầm Tương làm phản mà Kính Đức vẫn ở lại đủ thấy Uất Trì Kính Đức không hề có ý làm phản!". Nói rồi vội vàng đến trước mặt Uất Trì Kính Đức, tự tay cởi trói cho ông ta, đồng thời còn dẫn vào phòng ngủ của mình ban cho một chiếc hộp vàng nói: “Đại trượng phu chỉ lấy tình cảm để đối đãi xin đừng để ý đến những chuyện nhỏ đó. Nếu tướng quân muốn đi thì chiếc hộp vàng này có thể coi như lộ phí, gọi là chút lòng của ta. Đương nhiên ta không thể vì những lời gièm pha đó mà hại người ngay cũng không cố ý giữ người không muốn làm bạn với ta".
Uất Trì Cung nghe xong rơi nước mắt bái lạy rằng: "Đại vương đối đãi như vậy thần không biết lấy gì để cám ơn, xin nguyện chết vì người, còn tặng vật thực không dám nhận". Lý Thế Dân đỡ ông ta dậy nói: "Tướng quân quả chịu ở lại thì vàng cũng xin cứ nhận". Uất Trì Cung tiếp tục từ chối, Lý Thế Dân bèn nói: "Hãy nhận trước coi như tặng thưởng lúc sau này có công vậy".
Hôm sau, Lý Thế Dân dẫn theo 500 kỵ binh đi thị sát chiến trường thì đột nhiên gặp phải sự bao vây đánh lén của hơn một vạn kỵ binh của Vương Thế Sung. Đại tướng Đan Hùng Tín của quân Vương cũng là danh tướng nổi tiếng thời Tùy Đường, quen dùng giáo dài, vây chặt Lý Thế Dân. Đúng vào lúc tính mạng của Lý Thế Dân vô cùng nguy cấp thì đột nhiên có viên mãnh tướng phi như bay đến, xông thẳng vào vòng vây cứu Lý Thế Dân ra khỏi một rừng gươm giáo.
Đại tướng cứu mạng lần đó chính là Uất Trì Kính Đức, người mà tất cả đều nghi ngờ, chỉ có Lý Thế Dân là tín nhiệm. Sau khi về trại Lý Thế Dân nói với Kính Đức: "Các tướng đều nghi ngươi sẽ làm phản, ta lại cho rằng ngươi không có ý đó, lẽ nào báo đáp nhanh như vậy sao?". Nói rồi lại ban thưởng hộp vàng hôm qua, lúc này Uất Trì Cung mới chịu nhận.
Sau lần đó, Uất Trì Cung gần như đã trở thành thị vệ bên cạnh Lý Thế Dân, mỗi lần chinh chiến đều không rời nửa bước. Lý Thế Dân rất hay mạo hiểm, luôn thích tổ chức các tướng lĩnh dũng mãnh nhất thành một đội đột kích, xông pha trong trận địa quân địch để đàn áp khí thế quân địch hoặc làm rối loạn thế trận của địch, trong đó luôn luôn không thể thiếu Uất Trì Kính Đức. Uất Trì Kính Đức cũng rất lấy làm vinh dự được ở trung đội quân mạo hiểm đó, cảm tạ sự tín nhiệm của Lý Thế Dân, càng trung thành với Lý Thế Dân hơn, lâm trận càng dũng mãnh hơn.
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Quốc, mâu thuẫn trong nội bộ hoàng cung bắt đầu trở nên gay gắt. Anh trai của Lý Thế Dân tức thái tử Lý Kiến Thành sợ Lý Thế Dân có công lớn lại có nhiều chiến tướng dũng mãnh như vậy sẽ tranh mất ngôi vị thái tử nên đã hợp sức với em trai là Lý Nguyên Cát để ám sát Lý Thế Dân. Nhưng bọn họ cũng rất sợ các chiến tướng và hộ vệ của Lý Thế Dân nhất là một người võ công cao cường lại không rời Lý Thế Dân một bước như Uất Trì Kính Đức. Lý Kiến Thành thừa hiểu rằng muốn sát hại được Lý Thế Dân thì trước hết phải trừ bỏ được Uất Trì Cung. Một hôm ông ta sai người đến tặng cho Uất Trì Cung rất nhiều báu vật, Uất Trì Cung kiên quyết từ chối không nhận: "Kính Đức xuất thân nghèo hèn, sớm rơi vào đường nghịch đạo, may mà được Tấn Vương cất nhắc mới có ngày hôm nay. Nay muốn báo ơn tri ngộ của Tấn Vương mà chưa có cơ hội, nếu lại nhận lễ của thái tử thì tôi càng không thể báo đáp lại..."
Lý Kiến Thành thấy Uất Trì Kính Đức một lòng chỉ muốn báo ơn Tấn Vương, nhẹ không ưa mà nặng cũng không ưa đành mượn tiếng là đi dẹp Đột Quyết ở phía bắc để điều Uất Trì Kính Đức đi làm tiên phong, do Lý Nguyên Cát dẫn đầu rời khỏi Trường An, đồng thời trước khi đại quân chuẩn bị xuất phát, nhân lúc Lý Thế Dân không có Uất Trì Cung ở bên cạnh để bất ngờ hành thích.
Uất Trì Kính Đức liền cùng với các mưu thần khác thúc Lý Thế Dân ra tay trước, phát động cuộc chính biến Huyền Võ Môn. Uất Trì Kính Đức giúp Lý Thế Dân giết chết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát, tự tay chặt thủ cấp của chúng, giả thánh chỉ để quát lui đội quân mà bọn Lý Kiến Thành đã bố trí, sau đó liều mình cầm giáo xông thẳng đến trước mặt Lý Uyên, buộc Lý Uyên phải lập Lý Thế Dân làm thái tử.
Dưới sự trợ giúp của hội Uất Trì Kính Đức cuối cùng Lý Thế Dân cũng lên ngôi thái tử một cách thuận lợi và không lâu sau kế ngôi vua.
Lý Thế Dân giành được ngôi vua nhờ ban chút ơn. Công ty Đông Cảng cũng đã đặt ra "học bổng Đông Cảng" nên đã nhận được rất nhiều sự báo đáp của sinh viên các trường đại học hàng đầu. Cả hai người trong việc tài tình dùng kế "ăn mận trả đào” sao mà giống nhau thế!
Công ty Đông Cảng - Triết Giang vốn là một doanh nghiệp ở tỉnh lẻ chả được mấy người biết đến. Tháng 3 năm 1992, nhà doanh nghiệp nông dân trẻ, giám đốc công ty Đông Cảng Vương Vân Hữu bỗng nảy ra một ý tưởng kỳ lạ, mạnh dạn đưa ra ý tưởng thiết lập "học bổng Đông Cảng trước tiên là ở các trường nổi tiếng như đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa, đại học khoa học kỹ thuật Trung Quốc, đại học Triết Giang và đại học Nam Khái, mỗi suất học bổng cho một nghiên cứu sinh học thi tiến sĩ ngành vật lý là 100 nhân dân tệ, định kỳ 3 năm. Hành động này đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của 5 trường đại học đó. Đồng thời danh sách 290 nghiên cứu sinh được nhận học bổng đợt đầu đã được gởi ngay đến Đông Cảng.
Để hỗ trợ cho đợt nghiên cứu sinh này mỗi năm Đông Cảng phải bỏ ra 34,8 vạn, 3 năm tổng cộng là 104,4 vạn nhân dân tệ. Lúc đó lợi nhuận hàng năm của công ty Đông Cảng chỉ có 250 vạn, không ít người cho rằng việc công ty tự mình mang gánh nặng vào thân. Vương Vân Hữu lại nói số tiền đó chẳng qua chỉ như giọt nước ở biển đối với Đông Cảng to lớn sau này mà thôi.
Quả nhiên là hành động tiên phong đó của Đông Cảng đã ngay lập tức tạo ra một phản ứng dây chuyền. Mấy chục hãng thông tấn ở Bắc Kinh, Triết Giang, Thượng Hải liên tiếp cho đăng những bài báo tỉ mỉ ở những vị trí thu hút người xem nhất, có đài truyền hình còn làm hẳn một tiết mục chuyên đề, các ấn phẩm từ các vùng trong cả nước liên tiếp gửi về Đông Cảng, trong số đó đa phần là từ những nhân viên khoa học kỹ thuật. Họ nói rằng có nhà doanh nghiệp địa phương như Vương Vân Hữu thì những nhân viên kỹ thuật như họ chẳng còn lo sợ không có đất dụng võ nữa.
Một Đông Cảng bình thường nay đã trở thành biểu tượng của sự tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài trong giới khoa học. Cái cây ngô đồng khác thường Đông Cảng này đã thu hút được hết đợt "phượng hoàng vàng" này lại đến đợt khác. 5 trường đại học đó hàng năm đều tổ chức một đợt khảo sát đến Đông Cảng cho các nghiên cứu sinh, đồng thời giúp doanh nghiệp giải quyết những khó khăn trong vấn đề kỹ thuật. Một nghiên cứu sinh của trường đại học Nam Khai đã giúp Đông Cảng hoàn thành việc cải tiến công nghệ của sản phẩm cũ, giá thành nguyên liệu giảm xuống 30%, mỗi năm tăng thu được 200 vạn. Chỉ trong năm 1992, Đông Cảng đã đưa ra được 8 sản phẩm mới, lợi nhuận trong năm đạt hơn 1000 vạn, tăng 4 lần so với năm 1991 .
Điều đáng quý hơn cả là trong số hàng chục vạn doanh nghiệp địa phương của cả nước công ty Đông Cảng đã nổi bật hơn cả, có một bao bì văn hoá độc đáo và trở thành "thánh địa" mà các nhân viên khoa học kỹ thuật đều muốn hướng về.
Nếu so sánh điều đó với số tiền "học bổng” há chẳng phải là “một giọt nước" trong một "con suối" sao?
 
Chương 27
Nắm bắt tâm lý phãn nghịch, chi phối sự tiến thoái của đối thủ


Một hôm, có một con rùa bị một con cáo bắt. Con rùa cố thu đầu và 4 chân vào trong cái mai rùa vừa cứng vừa chắc nên cáo không làm thế nào để giết được rùa. Cáo không ăn được thịt rùa thì rất sốt ruột, nói một cách hung ác với rùa rằng: “Tao phải thiêu mày trong lửa mới được". Rùa đáp rằng: "Cám ơn, vừa may ta đang lạnh ngươi có thể giúp ta sưởi ấm thì tốt quá”. Con cáo lập tức nhả con rùa đang ngậm trong mồm xuống đất rồi nói: "Tao phải ném mày xuống nước!". Rùa "hoảng sợ" cầu xin: "Anh cáo ơi xin hãy tha chết cho tôi! Nếu anh ném tôi xuống nước thì tôi sẽ chết đuối mất!". Cáo lập tức đắc ý, tha rùa đến bên hồ, ném xuống nước, rùa từ từ nhô đầu và chân ra, nhởn nhơ bơi ra chỗ sâu.
Lý Thế Dân đương nhiên không phải là rùa nhưng ông rất giỏi trong việc dùng mưu kế của rùa.
Lúc đó Đột Quyết thường dựa vào lực lượng kỵ binh hùng mạnh của mình thường xuyên xuất hiện ở đất của nhà Đường. Đường Cao Tổ Lý Uyên nghĩ đến việc trong nước chưa yên nên không tiến đánh lại, thường xuyên viết thư tặng quà kết giao hòa hiếu với họ nhưng Đột Quyết vẫn có ý phản phúc, lòng tham không đáy vẫn lúc ẩn lúc hiện bất thường như cũ. Lý Uyên bất lực, thậm chí còn muốn thiêu hủy kinh thành Trường An để tránh khỏi sự xâm nhiễu của Đột Quyết. Nhưng trước khi thực thi cái kế bất đắc dĩ đó thì ông vẫn muốn để Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát... đi nghênh chiến một trận.
Năm Đường Võ thứ 7 (năm 642 sau Công nguyên) Đột Quyết tổ chức đánh lớn, cánh quân tiên phong đã áp sát Mân Châu (Huyện Bân, Thiểm Tây ngày nay). Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát tiến lên phía trước để nghênh chiến.
Quân Đường sắp đến Mân Châu thì có tin báo quân Đột Quyết đã dựng trại suốt hơn trăm dặm, thanh thế rất lẫy lừng. Lý Nguyên Cát đã có ý sợ hãi, Lý Thế Dân thì lại rất bình tĩnh sai thám quân đi điều tra kỹ hơn tình hình quân địch. Thám quân về báo lại rằng: "Hai Khả hãn của Đột Quyết là Hiệt Lợi và Đột Lợi đã dốc hết toàn lực, số binh sĩ không dưới hàng chục vạn". Lý Thế Dân ung dung nói: "Cả hai tướng lĩnh đều cùng đến thì dễ tìm ra cách phá địch thôi”.
Quân Đường tiếp tục tiến lên phía trước, thẳng đến Mân Châu, đóng quân sát thành. Lúc này ở Quan Trung trời mưa liên tục, việc chuyển lương không đều, binh sĩ đã đi bộ suốt một chặng đường dài mệt mỏi đến không thể chịu đựng được nữa. Ở trong thành Trường An cũng rất lo cho quân đội xuất chinh. Lý Thế Dân thì chẳng tỏ thái độ gì, thản nhiên như thường, sắp đặt đâu ra đấy.
Hôm sau, Hiệt Lợi Khả hãn dẫn theo hơn 1 vạn kỵ binh tinh nhuệ, xông vào phía tây thành, bày binh bố trận ở sườn núi Ngũ Lũng, ngẩng cao đầu chờ đánh. Lý Thế Dân nói với em trai: "Khí thế quân Đột Quyết mạnh nên chúng ta không thể tỏ ra yếu đuối được. Nếu em sợ đánh thì chúng sẽ lập tức tiến công, nếu em không sợ đánh thì chúng lại phải lui binh. Vì thế chúng ta phải ra trận, tỏ ra là chắc chắn sẽ đánh, thế em có đi cùng không?".
Lý Nguyên Cát vô cùng sợ hãi nói: "Quân địch mạnh như vậy thì không thể tỏ ra khinh thường mà chống lại chúng...". Lý Thế Dân lại nói: "Hai Khả hãn Hiệt Lợi và Đột Lợi tuy là chỗ chú cháu với nhau nhưng thực tế thì vẫn luôn ngờ vực nhau. Cái ngôi vị Khả hãn của Hiệt Lợi vốn là của cháu ông ta Đột Lợi. Hiệt Lợi sợ Đột Lợi sẽ gây chuyện nên mới lệnh cho Đột Lợi trấn thủ ở phía đông và trao cho cái hư danh Khả hãn. Nay hai bọn họ liên binh đến thì ta có thể khơi gợi cái mối hiềm nghi lớn như vậy giữa họ. Người khác sợ chứ ta thì không sợ".
Lý Thế Dân nói xong lập tức dẫn đầu hơn một trăm kỵ binh xông thẳng đến trước trận địa của Hiệt Lợi lớn tiếng nói: “Triều đình ta vốn kết giao hòa hiếu với Khả hãn nay sao lại quay lưng với hòa ước đó, xâm nhập vào lãnh thổ của ta? Ta là Tấn Vương Lý Thế Dân, nếu Khả hãn có khả năng ra trận thì hãy mau xuất chiến, quân của ngươi đông còn của ta ít nhưng ta không hề sợ, thuộc hạ của ta chi có 100 kỵ binh nhưng cũng có thể chém cả vạn quân của ngươi”. Hiệt Lợi nghe thấy những lời đó chỉ cho rằng Lý Thế Dân đang dùng kế dụ địch, quân Đường đã chuẩn bị xong cho việc tất thắng, nên chỉ cười mà không đáp lại.
Thấy tình cảnh đó, Khả hãn Đột Lợi nghi ngờ rằng Lý Thế Dân có ý gian, càng nghi rằng Hiệt Lợi Khả hãn có dụng tâm gì khác. Lý Thế Dân thấy Đột Lợi có một đội quân riêng đứng cách Hiệt Lợi một cái mương nên cố ý phái một kỵ tướng đến chỗ Đột Lợi lớn tiếng hét rằng: "Trước đây người là đồng minh của ta, đã hẹn ước rằng sẽ cứu trợ nhau, nay sao lại dẫn quân đến đánh?"
Đột Lợi cho rằng Hiệt Lợi đã có mật ước gì với nhà Đường định mưu sát mình và tên kỵ binh đó đã nhầm mình với Hiệt Lợi Khả hãn vì thế mới nói ra bí mật trước mặt mọi người. Xem ra Lý Thế Dân chỉ đem theo trăm quân đến có thể là để giúp Hiệt Lợi đối phó với mình. Đột Lợi vẫn còn nghi ngờ như vậy nên cũng im lặng không đáp lại câu nào.
Mà dưới con mắt của Hiệt Lợi Khả hãn, Đột Lợi chẳng nói năng gì thì hiển nhiên là đã thừa nhận trước đó quả là có mật ước với nhà Đường. Vì thế đối thủ của mình không chỉ là trăm quân của Lý Thế Dân ở trước mặt mà còn cả một đại quân giấu mặt là quân của Đột Lợi. Đương nhiên là để đánh bại được mình thì nhà Đường đã sắp đặt tất cả từ lâu.
Lý Thế Dân thấy hai Khả hãn không dám tùy tiện tiến binh nên đã cố tình vung roi thúc ngựa định tấn công sang bên đó Hiệt Lợi Khả hãn vô cùng hoang mang phái người sang đó cầu xin nghị hòa. Đúng lúc đó thì trời mưa to thế là cả hai bên thu binh quay về .
Lý Thế Dân lại nói với các tướng sĩ: "Thực lực của Đột Quyết là ở việc dùng cung tên mà nay trời lại mưa liên tục như vậy thì tên cũng chẳng ích gì, quân Đột Quyết mất tên như chim đang bay mà gãy cánh nên càng không dám tiến công. Chúng ta nên nhân cơ hội này lại đi đòi đánh thì quân Đột Quyết tất sẽ phải bỏ chạy thật xa". Thế là lệnh cho các quân sĩ ăn một bữa thật no, đội mưa đi tấn công. Đồng thời cũng phái một người giỏi về ăn nói đến tìm Khả hãn Đột Lợi để nói rõ cái lợi và cái hại, Đột Lợi vui vẻ đồng ý hòa hảo với nhà Đường. Hiệt Lợi không rõ đầu đuôi ra sao thấy quân Đường đến một cách bất ngờ thì vội cho gọi Đột Lợi đến thương lượng. Đột Lợi nói "Xét từ mọi góc độ thì quân Đường đã quyết một trận tử chiến với chúng ta. Tấn Vương đã đem quân đến một cách có kế hoạch và chưa từng bại trận. Chúng ta chưa thể thắng được ông ta trong thời tiết như thế này thì giảng hòa với ông ta là thượng sách".
Thế là Khả hãn Hiệt Lợi lại đến cầu hòa tiếp. Đội Lợi Khả hãn lại còn kết nghĩa "anh em" với Lý Thế Dân. Thế là cả đại quân của Đột Quyết đi để kết thành đồng minh, đồng thời phái đại thần đến triều kiến Cao Tổ.
Nếu quân Đường vì sợ hãi mà lui quân thì quân Đột Quyết chắc chắn sẽ thừa thế truy sát. Lý Thế Dân giả vờ tỏ ra như là đã chuẩn bị sẵn sàng để quyết một trận tử chiến thì quân Đột Quyết lại không dám tiến công nữa. Đây chẳng phải là kế mà rùa đã giỡn cáo sao? Đương nhiên là Lý Thế Dân cao minh hơn con rùa đó, khi vận dụng kế này cũng đã cố gắng dùng cả cách làm phân hóa, tan rã. Trên thương trường cũng có những “con rùa" cao minh như vậy, ví dụ như giám đốc công ty DG - Sơn Bản Thôn.
Có một lần công ty của ông đứng trước nguy cơ phá sản, cần phải nhanh chóng bán hết toàn bộ số hàng của công ty. Ông đành phải bay sang Mỹ để nhanh chóng đàm phán với một công ty nào đó về số sản phẩm của công ty mình. Không ngờ phía Mỹ đã thăm dò được nội tình của công ty DG nên ra sức ép giá. Ông chỉ có hai cách để lựa chọn: không bán để mặc cho công ty rơi vào tình cảnh không có lối thoát vì không quay vòng vốn được, hoặc là bán với giá thấp, chịu nỗi khổ của việc nguyên khí bị trọng thương thậm chí đến mức không gượng dậy được.
Trong lòng rất đau khổ nhưng bề ngoài ông vẫn chuyện trò vui vẻ. Dường như ông không cần phải suy nghĩ gì nhiều đối với các yêu cầu của đại diện phía Mỹ mà cứ nói với thư ký hết lần này đến lần khác: "Cô đi xem vé máy bay đi Nam Triều Tiên đã chuẩn bị xong chưa. Nếu đã có vé thì ngày mai chúng ta đi, việc làm ăn ở bên đó không thể hoãn lại thêm một phút nào nữa".
Đại diện phía Mỹ rất tin tưởng vào phán đoán của mình: Sơn Bản Thôn không hứng thú lắm với vụ làm ăn này, thành hay không đối với ông ta không quan trọng. Rất có khả năng ông ta sẽ đột ngột rời Mỹ bay sang Nam Triều Tiên.
Đại diện phía Mỹ vội vàng nói dây điện thoại trực tiếp báo cáo với giám đốc xem nên làm thế nào. Giám đốc lập tức hạ lệnh: "Nhanh chóng làm xong vụ này theo giá thông thường” .
Sơn Bản Thôn không đến Nam Triều Tiên mà được "cáo" là đại diện của Mỹ "cắp" miễn phí về Nhật, công ty của ông lập tức chấn hưng trở lại từ bờ vực của sự phá sản.